Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

luận văn kinh tế luật pháp luật về kinh doanh chứng khoán – thực ti n thực hiện tại công ty cổ phần chứng khoán sài g n – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.8 KB, 53 trang )

TÓM LƯỢC
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc đ ộ tăng
trưởng cao so với khu vực. Với mức độ tăng trưởng như hiện nay, nhu cầu v ốn
cho nền kinh tế là hết sức lớn. Thị trường chứng khoán Vi ệt Nam mới được hình
thành nhưng đang từng bước được Nhà nước ta đặt nhiều kỳ v ọng tr ở thành
kênh cung cấp vốn hiệu quả cho nền kinh tế, cụ thể là đảm nhi ệm tr ọng trách
cung cấp 50% tổng nguồn vốn được huy động trong toàn nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán đã qua gần hai thập kỷ hoạt động và phát tri ển,
cũng đã dần khẳng định được vị thế và uy tín trên th ị trường tài chính ti ền t ệ
Việt Nam và khu vực với nhiều thành tựu vượt bậc. Tuy nhiên, trong quá trình
hoạt động vẫn có không ít những vướng mắc và khó khăn. Bên cạnh nh ững
thành công đã đạt được thì hoạt động kinh doanh chứng khoán v ẫn còn g ặp
nhiều vướng mắc mà nguyên nhân chủ quan xuất phát từ các ch ủ th ể nh ưng
phần lớn do những nguyên nhân khách quan từ hành lang pháp lý và ảnh h ưởng
bởi biến động kinh tế toàn cầu. Do đó, việc xây dựng khung pháp luật hoàn
chỉnh, đồng bộ, rõ ràng và sửa đổi bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo kh ả năng
điều tiết, giữ ổn định cho thị trường chứng khoán – thị trường tài chính huy
động nguồn vốn lớn thứ hai nền kinh tế là rất cần thiết.
Bởi vậy em đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh chứng khoán –
Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh
Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu. Với khoá luận này, em rất mong muốn môi
trường pháp luật kinh doanh chứng khoán sẽ ngày càng hoàn thi ện h ơn, th ực s ự
trở thành đòn bẩy cho thị trường chứng khoán nói chung và các hoạt đ ộng kinh
doanh chứng khoán nói riêng, biến Việt Nam trở thành th ị tr ường tài chính ti ềm
năng, thu hút nguồn vốn lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

1

1



LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Thương
Mại, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và giảng dạy nhiệt tình của các
thầy cô giáo trong trường. Qua quá trình học tập, em đã tích lũy được nhi ều ki ến
thức quý báu để vận dụng vào công việc của mình trong tương lai. Với đề tài
khóa luận “Pháp luật về kinh doanh chứng khoán – Thực tiễn thực hiện tại
Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội” , em đã có cơ hội
vận dụng những kiến thức đã học tại trường vào thực tế để củng cố thêm vốn
kiến thức và hiểu biết của mình.
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này, em đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn và doanh
nghiệp.
Trước hết em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị Thu Phương
đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và toàn th ể nhân viên
Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà N ội đã nhiệt tình giúp đỡ
để em hoàn thành việc nghiên cứu và khảo sát thực tế tại công ty.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều để hoàn thiện khóa luận bằng tất cả ni ềm
đam mê và năng lực của mình, tuy nhiên do hạn ch ế về th ời gian và ki ến th ức
nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự
thông cảm và những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Hải Minh

2

2



MỤC LỤC

3

3


STT
1
2
3
4

4

Từ viết tắt
UBCKNN
TTCK
CTCP
TNHH

Giải nghĩa
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Thị trường chứng khoán
Công ty cổ phần
Trách nhiệm hữu hạn

4



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận

Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập, nền kinh tế thị trường đang trên đà phát
triển tất yếu dẫn đến sự hình thành của thị trường tài chính mà trong đó có thị trường
chứng khoán. Trên thị trường này người ta mua bán những tài sản tài chính, huy động
nguồn vốn nhàn rỗi.
Với sự xuất hiện của Luật Chứng khoán đầu tiên thì thị trường chứng khoán với
các hoạt động kinh doanh mới thật sự trở nên sôi nổi, tăng tốc và phát triển không
ngừng. Cùng với việc ban hành Luật Chứng khoán, Chính phủ và Bộ Tài chính ban
hành nhiều Nghị định, Thông tư có tác động tích cực điều chỉnh hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Bên cạnh đó là sự ra đời của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội,
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh thì được nâng cấp thành
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành trong điều kiện nền kinh tế nước
nhà đang có những chuyển biến tích cực và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Kể từ khi
thị trường chứng khoán manh nha ra đời, một hệ thống pháp luật tương đối đồ sộ điều
chỉnh về tổ chức và hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng đồng thời được hình
thành và thay đổi để phù hợp, bắt nhịp với xu hướng của xã hội. Hành lang pháp lý từ
thủa sơ khai là Nghị định 75/1996/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban chứng
khoán Nhà nước, Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán (thay
thế Nghị định 48), Luật Chứng khoán năm 2006 và hiện nay là Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Chứng khoán (2010), đến hàng loạt các văn bản dưới luật khác
đang từng bước được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu hội nhập. Các văn bản này là cơ sở
pháp lý vững chắc cho sự vận hành và phát triển hoạt động kinh doanh chứng khoán ở
Việt Nam. Điều này thể hiện sự quan tâm sát sao của Đảng và Nhà nước ta về loại thị
trường tài chính đặc biệt này và cũng khẳng định quan điểm: muốn có một thị trường

chứng khoán với hoạt động kinh doanh chứng khoán phát triển phải có một hệ thống
luật pháp đầy đủ và ổn định. Đến cuối năm 2016, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
đạt vốn hóa cao nhất với mức vốn hóa thị trường 3 sàn HoSE, HNX, UPCOM đã
tương đương 55% GDP (giá trị đạt 1,68 triệu tỷ). Bên cạnh đó là sự hoạt động mạnh
mẽ của hơn 80 công ty chứng khoán, 43 công ty quản lý quỹ, 30 quỹ đầu tư chứng
khoán và số lượng tài khoản nhà đầu tư là hơn 1,5 triệu tài khoản
Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh doanh chứng khoán ngày một được thay đổi
để phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế tuy nhiên vẫn còn bộc lộ khá nhiều
5

5


bất cập. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của Việt Nam mang nhiều nét đặc thù
trong khi các quy định phần lớn được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nước
phát triển khác, chưa thực sự phù hợp với thực tiễn kinh doanh dẫn đến tình trạng phải
tái cơ cấu nhiều chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán. Quy mô thị
trường còn nhỏ, trong khi có quá nhiều công ty chứng khoán hoạt động.
Xuất phát từ thực tiễn đó, với mong muốn có một cái nhìn rõ nét hơn pháp
luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán của các chủ thể, đặc biệt là đối với loại
hình công ty chứng khoán và thực tiễn thực hiện pháp luật này, em đã lựa chọn đề
tài “Pháp luật về kinh doanh chứng khoán – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ
phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội” để nghiên cứu làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Những vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh chứng khoán đã được đề cập
trong Giáo trình Luật Chứng khoán, Giáo trình Luật Ngân hàng... của một số trường
như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Kinh
tế - Luật – Đại học Quốc Gia…nhưng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các kiến thức
cơ bản. Ngoài ra, vấn đề kinh doanh chứng khoán cũng được nghiên cứu theo nhiều

khía cạnh, nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt là trong thời kì hội nhập kinh tế của
đất nước hiện nay. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Nhóm luận văn, khóa luận tốt nghiệp:
+ “Pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán –
thực trạng và giải pháp hoàn thiện “, luận văn thạc sỹ của tác giả Đoàn Quốc Hùng
năm 2002.
+ “Hoàn thiện pháp luật về kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam“, khóa luận tốt
nghiệp của Trần Thị Quỳnh Như năm 2003.
+ “Tìm hiểu pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng
khoán”, khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Hoa năm 2007.
+ “Pháp luật về giấy phép kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam”, luận văn thạc
sỹ của tác giả Võ Thị Thu Hà năm 2007
+ “Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán ở Việt
Nam”, luận văn thạc sỹ của Bùi Thanh Ngà năm 2007.
+ “Pháp luật về kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và
giải pháp hoàn thiện”, khóa luận tốt nghiệp của Đặng Thị Thắm năm 2012.
+ “Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật
Việt Nam”, luận văn thạc sỹ luật của tác giả Lê Việt Giang năm 2014.
- Nhóm sách chuyên khảo:
6

6


+ “Luật chứng khoán & 175 câu hỏi – đáp” của tác giả Đặng Thiệu Minh, Nhà
xuất bản Lao động xã hội, năm 2007.
+ “Pháp luật về công ty chứng khoán ở Việt Nam” của tiến sĩ Lê Thị Thu Thủy,
Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2011.
- Nhóm các bài viết trên báo in, báo điện tử:
+ “Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trường

chứng khoán ở Việt Nam” của tác giả Tiến sĩ Lê Thị Thu Thủy, Tạp chí nghiên cứu
Pháp luật số 111 tháng 12 năm 2007.
Những công trình nghiên cứu khoa học trên thực sự là những công trình có giá trị
lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn, tuy nhiên mới chỉ là nghiên cứu một cách
bao quát chung chứ chưa đi sâu cụ thể thực tiễn thực hiện tại một đơn vị nào cả. Bên
cạnh đó, hầu hết các công trình nghiên cứu đã được thực hiện khá lâu, Luật Chứng
khoán đã được sửa đổi, bổ sung, đến nay bối cảnh kinh tế - xã hội đã có những thay
đổi nhất định. Thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển quá nhanh nhưng khung
pháp lý dường như chưa thực sự phù hợp dẫn đến các cuộc tái cơ cấu và hàng loạt các
chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải giải thể hay việc chỉ 2% dân
số Việt Nam có tài khoản trên thị trường chứng khoán – sự e dè của các nhà đầu tư.
Pháp luật về kinh doanh chứng khoán không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi
từng ngày, từng giờ của thị trường chứng khoán đòi hỏi phải có những quy phạm pháp
luật mới để điều chỉnh kịp thời. Do đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề
xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho phù hợp thực tiễn là hết sức
cần thiết. Qua đề tài “Pháp luật về kinh doanh chứng khoán – Thực tiễn thực
hiện tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội” khóa luận
sẽ đi sâu vào phân tích cụ thể một số vấn đề xoay quanh hoạt động kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể nói chung và của loại hình công ty chứng khoán nói
riêng, đồng thời từ đó chỉ ra các bất cập và đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật về
kinh doanh chứng khoán.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Với những kiến thức đã được học tại trường Đại học Thương mại, đồng thời qua
thời gian tham gia thực tập và tìm hiểu tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn –
Chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy công ty đã đạt được nhiều thành tựu, bên cạnh đó vẫn
tồn tại một số bất cập trong quá trình hoạt động kinh doanh, cần phải có những giải
pháp hiệu quả hơn từ cả phía công ty và phía pháp luật. Do đó, dựa trên nền tảng kiến
thức đã được học tại trường và tìm hiểu thực tế, em quyết định lựa chọn đề tài “Pháp
luật về kinh doanh chứng khoán – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Chứng
khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

7

7


Dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các tài liệu tham khảo và
thực tiễn áp dụng pháp luật tại đơn vị thực tập, khóa luận này sẽ đưa ra các cơ sở pháp
lý làm tiền đề để đi sâu vào phân tích lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, thực thi pháp
luật tại đơn vị. Từ đó có những kiến nghị cần thiết nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật điều chỉnh về kinh doanh chứng khoán cũng như việc đảm bảo thực thi pháp
luật tại đơn vị nói riêng và các chủ thể tham gia kinh doanh chứng khoán nói chung.
Khóa luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về kinh doanh chứng
khoán.
- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán
tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội theo quy định của pháp
luật hiện hành.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh
chứng khoán.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định về tổ chức quản lý, quy
định về hoạt động kinh doanh chứng khoán bao gồm quyền và nghĩa vụ, hành vi bị
cấm, trường hợp bị đình chỉ, các quy định khác về nghiệp vụ của các chủ thể... được
điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010, Luật Doanh
nghiệp năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015... và thực tiễn áp dụng những quy định
này tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội để từ đó, đưa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh chứng khoán và nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán vào thực tiễn. Việc
xác định đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai nghiên cứu,

đảm bảo cho bài luận đi đúng hướng.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là phân tích thực trạng thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán của Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh
Hà Nội thông qua so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật để thấy được rằng
thực tiễn triển khai áp dụng luật của công ty đã đầy đủ, đúng với những quy định của
pháp luật hay chưa. Sự phân tích, so sánh này đồng thời nhằm làm rõ những bất cập,
những hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn và chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế, từ
đó đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện, khắc phục những hạn chế
của pháp luật chứng khoán. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, khóa luận tập trung
vào các nhiệm vụ cụ thể như sau:
8

8


Thứ nhất, hệ thống hóa được các quy định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán
Thứ hai, phân tích, đánh giá được thực trạng thi hành pháp luật về kinh doanh
chứng khoán tại đơn vị cụ thể.
Thứ ba, đề xuất được một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
kinh doanh chứng khoán.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian, phạm vi nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên với
đề tài này khóa luận tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề về kinh doanh chứng khoán,
cụ thể như sau:
- Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ vấn đề kinh doanh chứng khoán tại
Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội.
- Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu pháp luật về kinh doanh chứng khoán theo
quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Chứng
khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010, Luật Thương mại năm 2005, Luật Doanh

nghiệp năm 2014, Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
- Về nội dung: Khóa luận khái quát về tất cả các chủ thể bao gồm Công ty chứng
khoán, Quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lý quỹ... nhưng sẽ đi sâu hơn, phân tích
kĩ loại hình Công ty chứng khoán nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn phần thực trạng
kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội. Bên cạnh
đó là tập trung phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của
công ty trong một số nghiệp vụ nhất định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến các quy định về pháp luật kinh doanh chứng khoán. Đề
tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử: Xem xét hoạt động kinh doanh chứng khoán trong quá
khứ, hiện tại để rút ra các mặt được và chưa được. Từ đó, đề ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Công ty cổ phần Chứng khoán
Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội.
- Phương pháp liệt kê: Phương pháp này được áp dụng để làm Chương I của bài
khóa luận. Phương pháp sẽ hệ thống, liệt kê tất cả các văn bản pháp luật có liên quan
để tiện theo dõi và phân tích, làm căn cứ cho phần lý luận.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp được áp dụng để làm Chương
II của bài khóa luận là phần thực tiễn liên hệ tại công ty. Trên cơ sở giải thích các khái
niệm, quy phạm pháp luật liên quan đến kinh doanh chứng khoán, người nghiên cứu sẽ
9

9


đi phân tích vai trò của các yếu tố này tới hoạt động của công ty. Ngoài ra, trên cơ sở
đánh giá những kết quả đã đạt được và hạn chế của hành lang pháp lý chứng khoán,
người nghiên cứu sẽ có một cái nhìn tổng quan, qua đó có phương hướng để giải quyết

những hạn chế phát sinh.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của bài khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về kinh doanh chứng khoán và pháp luật về
kinh doanh chứng khoán
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kinh doanh chứng khoán và thực tiễn thực
hiện tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
kinh doanh chứng khoán

10

10


CHƯƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH CHỨNG
KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát về kinh doanh chứng khoán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của kinh doanh chứng khoán
a. Khái niệm về kinh doanh chứng khoán

●Khái niệm chứng khoán
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010
quy định:
“1. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể
hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại
sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;

b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán;
c) Hợp đồng góp vốn đầu tư;
d) Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định.”
● Khái niệm TTCK
TTCK là một mô hình đặc trưng của nền kinh tế phát triển, không giống như các
hiện tượng kinh tế khác. TTCK được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch
mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường
sơ cấp khi người mua được chứng khoán lần đầu từ người phát hành, và ở những thị
trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị
trường sơ cấp.
TTCK, theo nghĩa rộng được gọi là thị trường vốn. Ở đây các giấy nợ trung, dài
hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ phiếu được mua bán. TTCK
là thị trường tạo lập và cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế.
Như vậy có thể nói TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán hay còn gọi là thay đổi chủ thể nắm giữ
chứng khoán.
● Khái niệm kinh doanh chứng khoán
Ở nước ta hiện nay, khái niệm kinh doanh chứng khoán được hiểu theo nghĩa khá
rộng và có nhiều nét tương đồng với khái niệm kinh doanh chứng khoán trong pháp
luật các nước trên thế giới. Cụ thể tại Khoản 19, Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006
sửa đổi, bổ sung năm 2010 quy định: “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng

11

11


khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu kí chứng khoán, quản lý quĩ đầu tư chứng

khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh là hoạt động tổ chức sản xuất, buôn
bán hàng hóa để kiếm lời. Hàng hóa gồm nhiều loại, mỗi loại hàng hóa có những đặc
điểm, đặc tính riêng. Khi gắn hàng hóa đó với hoạt động kinh doanh thì làm phát sinh
nhiều loại hình kinh doanh, trong đó kinh doanh chứng khoán là một loại hình kinh
doanh đặc biệt. Tính đặc biệt của hoạt động kinh doanh chứng khoán ở chỗ hàng hóa
kinh doanh là chứng khoán, các dịch vụ gắn với chứng khoán. Ngoài cách định nghĩa
trên, khi nghiên cứu kinh doanh chứng khoán, theo nghĩa hẹp thì kinh doanh chứng
khoán chính là đầu tư chứng khoán. Đầu tư là việc sử dụng vốn để mua bán chứng
khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nó bao gồm cả hoạt động tự doanh của công ty chứng
khoán.
Với một cách hiểu ở phạm vi hẹp nhất và cũng là cách hiểu phổ biến nhất thì
kinh doanh chứng khoán bao gồm hai hoạt động sau:
Thứ nhất là sử dụng vốn mua chứng khoán nhằm thu lợi nhuận hình thành từ kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành chứng khoán
Thứ hai là mua đi bán lại chứng khoán để hưởng chênh lệch khi giá chứng
khoán trên thị trường lên xuống.
b. Đặc điểm của kinh doanh chứng khoán
• Đặc điểm của chứng khoán
- Tính thanh khoản (Tính lỏng):
Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Chứng khoán
có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao
trên thị trường và nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng
là khác nhau.
- Tính rủi ro:
Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị nhưng rủi ro lớn, bao gồm rủi ro
có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống là loại rủi ro tác động tới
toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản, chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như:
lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất... Rủi ro không hệ thống chỉ tác động đến
một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản, thường liên quan tới điều kiện của nhà

phát hành.
- Tính sinh lợi:
Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn
nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi
tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường.
- Hình thức của chứng khoán:
12

12


Hình thức của các loại chứng khoán có thu nhập (cố định hoặc biến đổi) thường
bao gồm phần bìa và phần bên trong. Ngoài bìa ghi rõ quyền đòi nợ hoặc quyền tham
gia góp vốn. Số tiền ghi trên chứng khoán được gọi là mệnh giá của chứng khoán. Đối
với giấy tờ có giá với lãi suất cố định bên trong có phiếu ghi lợi tức (Coupon) và ghi rõ
lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng.
Đối với giấy tờ có giá mang lại cổ tức (cổ phiếu), bên trong chỉ ghi phần thu
nhập nhưng không ghi xác định số tiền được hưởng, nó chỉ đảm bảo cho người sở hữu
quyền yêu cầu về thu nhập do kết quả kinh doanh của công ty và được phân phối theo
nghị quyết của đại hội cổ đông. Ngoài phiếu ghi lợi tức còn kèm theo phiếu ghi phần
thu nhập bổ sung (xác nhận phần đóng góp luỹ kế).
• Đặc điểm của TTCK
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Phát hành cổ phiếu là cách phổ biến để các doanh nghiệp trong hệ thống kinh tế
tư bản huy động vốn. Bên cạnh đó, TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường
đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú.
- Tính minh bạch
Đặc điểm giao dịch công khai giúp cho TTCK duy trì tính minh bạch trong các
giao dịch tài chính. Vì tính minh bạch nên tất cả những người tham gia đều nắm được
thông tin về giá cả của các cổ phiếu đang được giao dịch trên thị trường và những

người tham gia còn có thể truy cập vào những thông tin tương tự giúp cho họ có thể
giao dịch tự do và hiệu quả.
- Tính tổ chức
TTCK cung cấp cho các nhà đầu tư một mức độ an toàn thông qua sự giám sát
của các tổ chức chuyên nghiệp giúp tạo một nền tảng giao dịch an toàn.
- Kim chỉ nam cho nền kinh tế
TTCK được coi là kim chỉ nam của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
- Những rủi ro và lợi nhuận
Các nhà đầu tư sẽ phải chấp nhận đầu tư một cách rủi ro vào TTCK nếu họ muốn
có được một lợi nhuận lớn.


Đặc điểm của chủ thể
Chủ thể kinh doanh là những đối tượng được pháp luật cho phép tiến hành các
hoạt động kinh doanh chứng khoán, thực hiên một hoặc một số nghiệp vụ về môi giới
chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục
đầu tư chứng khoán. Có tất cả năm chủ thể, được chia làm hai loại:
- Chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh chứng khoán
13

13


+ Công ty chứng khoán: là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành lập,
hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và các quy định khác của pháp
luật để thực hiện một hay một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
như: Môi giới chứng khoán; Bảo lãnh phát hành chứng khoán; Tư vấn đầu tư chứng
khoán, theo giấy phép do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nước cấp.

+ Công ty quản lý quỹ: là doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần
hoặc công ty TNHH, được thành lập để thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán.
+ Công ty đầu tư chứng khoán: là công ty được thành lập từ vốn góp của các nhà
đầu tư và sử dụng số vốn góp đó để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận.
Bên cạnh đó nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh chứng khoán diễn ra an toàn,
thuận lợi thì Luật Chứng khoán còn cho phép thêm hai chủ thể tham gia vào hoạt động
này với vai trò hỗ trợ đó là Trung tâm lưu ký chứng khoán và Ngân hàng giám sát.
- Chủ thể tham gia gián tiếp vào hoạt động kinh doanh chứng khoán
+ Trung tâm lưu ký chứng khoán: giữ vai trò là tổ chức cung cấp các dịch vụ
đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ việc giao dịch
mua, bán chứng khoán, góp phần tích cực vào việc duy trì hoạt động thanh toán an
toàn và thông suốt của thị trường chứng khoán, bảo mật thông tin của nhà đầu tư
+ Ngân hàng giám sát: là ngân hàng thương mại có Giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động lưu ký chứng khoán có chức năng thực hiện các dịch vụ lưu ký và giám sát
việc quản lý quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán là một dạng của kinh doanh nói chung, nhưng kinh
doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù. Vì thế các chủ thể kinh doanh chứng
khoán phải thỏa mãn một số điều kiện nói chung như phải là những đối tượng được
pháp luật cho phép tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán, thực hiên một
hoặc một số nghiệp vụ; phải đáp ứng các quy định về mức vốn pháp định. Bên cạnh đó
là một số điều kiện đặc thù như điều kiện về mặt tài chính, đạo đức cũng như về mặt
cơ sở vật chất, kĩ thuật để hoạt động kinh doanh chứng khoán. Việc quy định này nhằm
đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả và bảo đảm cho
quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư
1.1.2. Vai trò của kinh doanh chứng khoán đối với sự vận hành của thị trường
chứng khoán
Ở mức độ khái quát, có thể nhận thấy vai trò của kinh doanh chứng khoán được
thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là phương thức thiết lập kênh dẫn vốn trực
tiếp giữa các nhà đầu tư với chủ thể cần vốn.
14

14


Với chi phí thấp, khả năng chủ động trong việc lựa chọn đối tượng, lượng vốn
cần thiết cũng như hình thức huy động vốn, thông qua hoạt động kinh doanh chứng
khoán của chủ thể được phép, doanh nghiệp có thể dễ dàng huy động vốn, thông qua
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực tiễn hoạt động của TTCK các quốc gia đã chỉ ra
rằng, TTCK tạo ra sự cạnh tranh với các bộ phận thị trường truyền thống mà đại diện
là thị trường tín dụng. Nếu như trước đây, các tổ chức tín dụng là chỗ dựa tiềm tàng về
vốn cho các doanh nghiệp, từ nguồn vốn nhỏ nhất tới nguồn vốn lớn nhất, từ thời gian
ngắn nhất tời thời gian dài nhất theo nhu cầu, thì khi nền kinh tế phát triển, hoạt động
kinh doanh chứng khoán đã mở ra cơ hội huy động vốn mới cho các doanh nghiệp đó
là họ có thể trực tiếp phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn từ các nhà đầu
tư mà không cần đến các ngân hàng.
Thứ hai, kinh doanh chứng khoán khiến cho dòng vốn đầu tư trên TTCK vận
hành nhanh hơn, hiệu quả hơn thông qua các nghiệp vụ chính như môi giới chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tự doanh chứng khoán, quản lý danh mục đầu
tư hay tư vấn đầu tư chứng khoán.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán giúp các nhà đầu tư có vốn mua, bán chứng
khoán thuận lợi, dễ dàng hơn. Thông qua các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, nhu
cầu mua, bán chứng khoán của các nhà đầu tư được diễn ra rất nhanh chóng, thuận lợi.
Chỉ ngay khi nhà đầu tư đặt lệnh mua hoặc bán là giao dịch đã được tiến hành, trải qua
những đợt khớp lệnh thì giao dịch đó sẽ hoàn thành.
Thứ ba, kinh doanh chứng khoán là chất xúc tác, thúc đẩy TTCK hoạt động.
Trên TTCK sơ cấp nếu không có hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán thì
hiệu quả đợt phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành sẽ rất khó có khả năng

thành công đặc biệt là những doanh nghiệp mới tham gia thị trường chứng khoán, uy
tín còn chưa cao. Tại TTCK thứ cấp, đây là nơi diễn ra tất cả các giao dịch chứng
khoán của các nhà đầu tư. Nếu không có các nghiệp vụ tư vấn đầu tư, môi giới hay
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thì các nhà đầu tư sẽ rất khó có được cơ hội đầu tư
chứng khoán bởi những hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này đều phải
thông qua một tổ chức trung gian là công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ.
Tóm lại, vai trò tác động của hoạt động kinh doanh chứng khoán đối với hoạt
động kinh tế nói chung và TTCK nói riêng là không thể phủ nhận. Do đó, việc điều
chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm định hướng cho
hoạt động này phát triển phù hợp với các quy luật của kinh tế, phù hợp với mục tiêu
quản lý của Nhà nước là điều cần thiết và rất hữu ích.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về kinh doanh chứng khoán
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kinh doanh chứng khoán
15

15


Pháp luật kinh doanh chứng khoán là tổng hợp những nguyên tắc, những quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ phát sinh
trong quá trình kinh doanh chứng khoán. Hình thức thể hiện của pháp luật kinh doanh
chứng khoán là các văn bản luật, nghị định, thông tư, quyết định của các cơ quan có
thẩm quyền.
Thị trường chứng khoán có liên quan chặt chẽ với trình độ phát triển, mức ổn
định, tính bền vững của nền kinh tế vĩ mô. Do đó, việc xây dựng môi trường pháp lý
lành mạnh cho TTCK cũng như cho hoạt động kinh doanh chứng khoán là nhiệm vụ
hết sức quan trọng. Bởi pháp luật kinh doanh chứng khoán là một mảng quan trọng
của pháp luật chứng khoán nói chung và nếu thiếu cơ sở pháp lý hoặc tồn tại cơ sở
pháp lý không phù hợp, chính nó sẽ hạn chế sự phát triển của TTCK.
1.2.2. Cơ sở ban hành pháp luật về kinh doanh chứng khoán

● Cơ sở về mặt thực tiễn
Sau 5 năm kể từ khi Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
chính thức khai trương hoạt động (20/7/2000), thị trường chứng khoán đã đạt được
những kết quả bước đầu quan trọng. Quy mô của thị trường ngày càng được mở rộng,
thu hút được sự tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước, huy động nguồn vốn khá
lớn cho nhà đầu tư và phát triển...
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song hoạt động của thị trường còn có
những khó khăn, hạn chế nhất định. TTCK còn quá nhỏ bé, chưa trở thành một kênh
huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho đầu tư phát triển; thị trường thiếu vắng các nhà
đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán...nên ảnh hưởng đến
tính ổn định của thị trường; chất lượng hoạt động, cung cấp dịch vụ trên thị trường
chứng khoán chưa cao, tính minh bạch và hiệu quả còn hạn chế.
Những hạn chế nói trên là do nhiều nguyên nhất khác nhau, trong đó khuôn khổ
pháp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. Văn bản pháp lý cao nhất về
kinh doanh chứng khoán khi ấy là Nghị định số 144/2003/NĐ - CP của Chính phủ, sau
5 năm vận hành cho thấy hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán còn hạn chế,
chưa đầy đủ và đồng bộ.
Trong khi đó, nền kinh tế đang trên đà hội nhập, nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển lớn nhưng TTCK vừa được hình thành còn nhiều thiếu sót, khó khăn khi hoạt
động đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán nói chung và kinh doanh trên
TTCK nói riêng, trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật Chứng khoán. Từ thực trạng
hoạt động kinh doanh của TTCK Việt Nam và bối cảnh kinh tế xã hội nói trên, có thể thấy
rằng việc ban hành Luật Chứng khoán năm 2006 mang tính cần thiết khách quan.

16

16


Đến năm 2010, theo sự thay đổi của dòng thời gian và chuyển biến của nền kinh

tế đồng thời từ nhu cầu thực tế của xã hội, Luật Chứng khoán năm 2006 được sửa đổi,
bổ sung. Nhìn chung, những thay đổi của Luật Chứng khoán sửa đổi này là không
nhiều, không tạo ra một diện mạo hoàn toàn mới cho TTCK như khi Luật Chứng
khoán 2006 ra đời nhưng cũng đã đánh dấu bước chuyển mình, thay đổi mang hướng
tích cực của hệ thống pháp luật về chứng khoán.
● Cơ sở về mặt pháp lý
Nguồn của pháp luật kinh doanh chứng khoán bao gồm: Hiến pháp, Nghị quyết
của Quốc hội, các luật, văn bản dưới luật khác và các Điều ước quốc tế có liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và TTCK.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của việc xây dựng Luật Chứng khoán là phải đảm
bảo các nguyên tắc hoạt động của TTCK, đồng thời phù hợp với khuôn khổ pháp luật
cũng như tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam, có phạm vi điều chỉnh rộng nhằm tạo
ra khuôn khổ pháp luật đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh
chứng khoán phát triển, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính bảo đảm tổ chức, vận hành thị trường trật tự, công khai, minh bạch,
việc xây dựng Luật Chứng khoán được thực hiện dựa trên quan điểm:
Đảm bảo thể chế hóa các đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ nói chung cũng như lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán nói riêng.
- Bảo đảm đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật
Kinh doanh bảo hiểm, Luật Thanh tra và Luật Khiếu nại, tố cáo.
- Quy định chi tiết đến mức tối đa nhằm bảo đảm tính thực thi, giảm bớt các văn
bản hướng dẫn dưới luật.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo đảm điều chỉnh hoạt động của các nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài theo quy định thống nhất. Mức độ tham gia của bên
nước ngoài vào hoạt động kinh doanh chứng khoán trên TTCK Việt Nam sẽ do Chính
phủ quy định phù hợp với lộ trình hội nhập.
Các văn bản pháp lý trước đây
Nghị định 48/1998/NĐ – CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán

Nghị định 144/2003/NĐ – CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng
khoán
- Luật Chứng khoán năm 2006
- Các văn bản pháp luật khác có liên quan
• Các văn bản pháp luật hiện hành
- Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010

-

17

17


Thông tư 52/2012/TT – BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán
- Thông tư số 147/2012/TT-BTC Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của
"Quy chế hành nghề chứng khoán" được ban hành kèm theo Quyết định 15/2008/QĐTTg ngày 27/03/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
- Thông tư 203/2015/TT – BTC hướng dẫn về giao dịch chứng khoán
- Nghị định số 86/2016/NĐ-CP Quy định điều kiện đầu tư, kinh doanh chứng
khoán.
- Thông tư 07/2016/TT–BTC sửa đổi bổ sung Thông tư số 210/2012/TT-BTC
hướng dẫn về thành lập và hoạt động công ty chứng khoán
- Các luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan
1.2.3. Nội dung pháp luật về kinh doanh chứng khoán
● Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về kinh doanh chứng khoán
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về kinh doanh chứng khoán là các mối quan
hệ phát sinh trong quá trình các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng
khoán, bao gồm:
- Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh chứng khoán với tổ chức phát hành

trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
- Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh chứng khoán với nhà đầu tư
- Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh chứng khoán với Trung tâm lưu lý
chứng khoán
• Nội dung pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh chứng khoán
Ngày 01/7/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2016/NĐ-CP Quy định
điều kiện đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Theo đó, Nghị định này quy định điều kiện
đầu tư, kinh doanh chứng khoán mà tổ chức, cá nhân phải đáp ứng khi thực hiện hoạt
động đầu tư, kinh doanh trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Khi thành lập và trong quá trình hoạt động đầu tư, kinh doanh trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ và duy trì các điều kiện quy
định tại Nghị định này và các điều kiện đầu tư, kinh doanh chứng khoán khác (nếu có)
quy định tại Luật Chứng khoán và Nghị định của Chính phủ.
• Nội dung pháp luật về các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
Theo Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010 hiện hành, các
nghiệp vụ kinh doanh mà các chủ thể kinh doanh chứng khoán được phép thực hiện
được nêu tại Khoản 19 Điều 6 gồm: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán,
lưu ký chứng khoán, quản lý doanh mục đầu tư chứng khoán và quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán.
- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động môi giới chứng khoán
-

18

18


Theo Khoản 20 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010:
“Môi giới chứng khoán là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho
khách hàng”. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán luôn được tiến hành bởi chủ th ể

đặc thù là các công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán phải được cấp gi ấp
phép thành lập và đồng thời phải đăng kí kinh doanh dịch vụ môi gi ới chứng
khoán tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
số 210/2012/TT-BTC quy định chi tiết những điều kiện, yêu cầu trong ho ạt
động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán, cụ th ể là từ Đi ều 47-52
Thông tư này.
Hoạt động này xuất phát từ nguyên tắc trung gian, theo đó công ty chứng khoán
tìm ra trong số khách hàng của mình những người có nhu cầu mua và bán loại chứng
khoán với giá cả, số lượng và thời điểm mua bán phù hợp. Nếu giao dịch thành công,
công ty chứng khoán thu về một khoản hoa hồng theo thỏa thuận.
Tính trung gian của công ty chứng khoán thể hiện trong hai vai trò: môi giới
thuần túy (công ty chứng khoán là bên thứ ba kết nối hai bên có nhu cầu tương ứng với
nhau) và môi giới nhưng đồng thời làm đại diện cho một trong hai bên giao dịch. Để
thực hiện hoạt động này, giữa công ty và khách hàng tồn tại một hợp đồng gồm các
điều khoản phù hợp tương ứng với vai trò là môi giới đơn thuần hay đại diện, tùy
trường hợp mà mức phí công ty chứng khoán được hưởng là khác nhau.
Trong thực tiễn kinh doanh chứng khoán ở nước ta, nhiều ngân hàng cũng
tham gia vào hoạt động môi giới chứng khoán nhưng muốn thực hiện được đi ều
đó, họ thường thành lập ra công ty chứng khoán độc lập bằng vốn tự có của
mình để công ty chứng khoán này tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng
khoán một cách độc lập và chuyên nghiệp trên TTCK. Thông th ường, công ty
chứng khoán tiến hành môi giới chứng khoán cho khách hàng của mình thông
qua các bước:
1. Ký kết hợp đồng mở tài khoản,
2. Khách hàng ký quỹ tiền mặt và chứng khoán để tiến hành giao dịch,
3. Khách hàng đặt lệnh mua bán chứng khoán,
4. Khớp lệnh, công ty chứng khoán thanh toán tiền và chứng khoán cho khách
hàng.
Pháp luật chứng khoán nêu rõ công ty chứng khoán mở tài khoản cho khách hàng
trên cơ sở hợp đồng, hợp đồng đó phải bao gồm các điều khoản cơ bản (thông tin về

các bên ký kết, cách thức nhận lệnh của công ty chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của
các bên...). Tuân thủ những quy định này, các công ty chứng khoán hiện nay đều soạn
19

19


thảo các mẫu hợp đồng, bao gồm trong đó các điều khoản luật định và điều khoản bổ
sung nhằm thỏa mãn nhu cầu đăng ký tài khoản nhanh, gọn của số lượng lớn khách
hàng và đảm bảo sự bình đẳng giữa họ.
Ngoài ra, Luật quy định các trường hợp đặc biệt, nhân viên kinh doanh của công
ty chứng khoán mở tài khoản giao dịch chứng khoán, khi đó, công ty có trách nhiệm
thông báo mã số tài khoản của nhân viên này cho UBCKNN, Trung tâm Giao dịch
hoặc Sở Giao dịch Chứng khoán. Việc kiểm soát này nhằm bảo vệ quyền lợi của các
nhà đầu tư là khách hàng của công ty chứng khoán.
- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động tự doanh chứng khoán
Căn cứ theo Khoản 20 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm
2010: “Tự doanh chứng khoán theo pháp luật Việt Nam là việc công ty chứng khoán
mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”. Quy định về hoạt động tự doanh của
công ty chứng khoán được quy định cụ thể tại Điều 53 Thông tư 07/2016/TT–BTC sửa
đổi bổ sung Thông tư số 210/2012/TT-BTC hướng dẫn về thành lập và hoạt động công
ty chứng khoán. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán là các nhà đầu tư
tiến hành giao dịch để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, trước khi tiến hành giao dịch, công
ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán.
Tuy nhiên, công ty chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư có những đặc điểm
khác biệt so với các nhà đầu tư khác. Công ty chứng khoán được xem là nhà đầu tư
chuyên nghiệp trên thị trường. Hơn nữa, ngoài tự doanh, công ty chứng khoán đồng
thời tiến hành nghiệp vụ môi giới nên trong nhiều giao dịch công ty không phải chịu
phí môi giới.
- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động bảo lãnh phát hành

chứng khoán.
Theo Khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm
2010: “Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ ch ức b ảo lãnh phát hành cam
kết việc tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành đ ể
bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối h ết của tổ chức
phát hành, hoặc hỗ trợ phát hành trong việc phân phối ch ứng khoán ra công
chúng”. Trong tập quán và thông lệ quốc tế, hoạt động bảo lãnh phát hành ch ứng
khoán thường được thực hiện bởi các tổ chức chuyên nghiệp như công ty ch ứng
khoán, các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức khác được chính quy ền c ấp
phép thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Theo Kho ản 2 Đi ều
60 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010: “Công ty chứng
khoán chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi
20

20


thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán”. Ngoài điều kiện cơ bản nêu trên, đ ể
công ty chứng khoán được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, pháp luật đã có nhiều quy định khác về ch ứng ch ỉ hành ngh ề phân tích tài
chính, chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ... được quy định cụ th ể tại m ột lo ạt văn
bản dưới luật như Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ
về việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số đi ều của Luật Ch ứng
khoán; Điều 54 Điều kiện bảo lãnh phát hành, Điều 55 quy định về Hạn chế bảo
lãnh phát hành - Thông tư 210/2012/TT-BTC Hướng dẫn về thành lập và hoạt
động công ty chứng khoán; Thông tư sửa đổi, bổ sung một s ố đi ều c ủa Quy ch ế
hành nghề chứng khoán được ban hành kèm theo Quyết định 15/2008/QĐ-TTg
ngày 27/03/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính...
Các công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành chứng khoán thông qua bảo lãnh

với cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức dự phòng, bảo lãnh với cố gắng cao
nhất, bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không hoặc bảo lãnh theo phương
thức tối thiểu, tối đa. Để hạn chế rủi ro, pháp luật đặt ra giới hạn tổng giá trị chứng
khoán phát hành bảo lãnh không quá 30% vốn tự có của tổ chức bảo lãnh.
- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng
khoán.
Theo Khoản 23 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010
quy định thì: “Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc cung cấp cho nhà đầu tư kết quả
phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán”. Do
hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán là nghiệp vụ kinh doanh đặc thù và có ảnh
hưởng đến quyết định cuối cùng của nhà đầu tư trên TTCK nên hoạt động này thường
được thực hiện bởi các tổ chức chuyên nghiệp như công ty chứng khoán. Các nguyên
tắc cơ bản của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán như quyền và nghĩa vụ, các nội
dung tư vấn... được quy định cụ thể tại Điều 56 Thông tư số 210/2012/TT-BTC của Bộ
Tài chính.
Trên thực tế, việc cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng
của các công ty chứng khoán luôn được thực hiện bởi các chuyên gia về chứng khoán
với tư cách là người đại diện cho công ty chứng khoán. Đối với các tổ chức tín dụng
và tổ chức tài chính như ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm… nếu muốn tham
gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó có nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng
khoán thì các tổ chức này thành lập công ty chứng khoán độc lập để tiến hành các hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Các công ty chứng khoán do tổ chức tín dụng và tổ
chức tài chính thành lập tuy phải chấp nhận sự kiểm soát của các tổ chức này với tư
21

21


cách là chủ sở hữu nhưng về nguyên tắc, chúng đều là những công ty con có tư cách
pháp lý độc lập và nhân danh chính nó trong quá trình giao dịch với khách hàng.

- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động lưu ký chứng khoán.
Như đã được quy định tại Khoản 24 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa
đổi, bổ sung năm 2010: “Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển
giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan
đến sở hữu chứng khoán”. Đây là nghiệp vụ phụ trợ của UBCKNN cấp giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động lưu ký, được trung tâm lưu ký chứng khoán chấp nhận tư cách
thành viên. Với giấy chứng nhận đăng ký, các chủ thể được phép thực hiện dịch vụ lưu
ký và thanh toán các giao dịch chứng khoán, đăng ký lưu ký đối với các chứng khoán
phát hành riêng lẻ, làm đại lý chuyển nhượng theo yêu cầu của tổ chức phát hành đối
với chứng khoán phát hành riêng lẻ.
Đối với nghiệp vụ đăng ký chứng khoán, công ty chứng khoán và ngân hàng
thương mại tự mình xây dựng quy trình đăng ký riêng và có quyền thu phí khi khách
hàng sử dụng dịch vụ này. Với nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, mỗi khách hàng có tài
khoản lưu ký cứng và chỉ có một tài khoản duy nhất. Thêm vào đó, nguyên tắc quản lý
biệt lập tài sản cũng được áp dụng, luật nghiêm cấm các chủ thể lưu ký sử dụng chứng
khoán của khách hàng vì mục đích riêng. Điều 56 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa
đổi, bổ sung năm 2010 nêu rõ “Trung tâm lưu ký và thành viên lưu ký không được coi
chứng khoán lưu ký của khách hàng là tài sản của mình”. Các thông tin của khách
hàng liên quan đến nghiệp vụ lưu ký cũng như các nghiệp vụ khác đều phải được bảo
mật. Hành vi tiết lộ thông tin hay hành vi khác xâm phạm quyền lợi khách hàng đều
dẫn đến nghĩa vụ bồi thường của chủ thể thực hiện lưu ký. Hiện nay, ở Việt Nam, lưu
ký chứng khoán được thực hiện theo hai cấp ứng với hai chủ thể: Trung tâm lưu ký và
thành viên lưu ký. Các chủ thể này đều được phép lưu ký chứng khoán của công ty đại
chúng, các thành viên phải tái lưu ký chứng khoán đó tại trung tâm. Quy định này
được đặt ra nhằm thực hiện lưu ký tập trung chứng khoán của các công ty đại chúng.
- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán.
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán quản lý theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong mua bán, nắm giữ chứng khoán.
Bản chất pháp lý của hoạt động này là hợp đồng dịch vụ ủy thác danh mục đầu tư

chứng khoán. Việc kí kết và thực hiện hợp đồng này có thể xem như cách thức duy
nhất để công ty quản lý quỹ và khách hành của họ thỏa mãn được nhu cầu của mình
khi tham gia TTCK. Nói về nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, trước đây, theo pháp
luật chủ thể thực hiện là công ty chứng khoán, nhưng nay lại do công ty quản lý quỹ
22

22


đầu tư chứng khoán thực hiện. Như vậy, có sự tách biệt nghiệp vụ này với các nghiệp
vụ vừa nêu của công ty chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán được tiến hành tự
doanh chứng khoán. Ngân hàng thương mại được tiến hành lưu ký chứng khoán và
cung cấp dịch vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng
khoán (Khoản 1 Điều 47 và Điều 98 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung
năm 2010). Chủ thể này chỉ được phép tiến hành các nghiệp vụ đó vì pháp luật
chứng khoán Việt Nam không cho phép ngân hàng thương mại trực tiếp kinh doanh
chứng khoán.
- Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán
Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, theo đó
công ty quản lý quỹ chấp nhận sự ủy thác của các nhà đầu tư để tiến hành việc thành
lập quỹ đầu tư chứng khoán bằng nguồn vốn góp của các nhà đầu tư và trực tiếp quản
lý điều hành quỹ này vào mục đích đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng như đầu
tư vào các tài sản khác vì quyền lợi của nhà đầu tư. Bản chất hoạt động quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán là một dịch vụ về chứng khoán do công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán tiến hành theo yêu cầu của các nhà đầu tư để được nhận thù lao dịch vụ
là phí quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Tại Việt Nam, quỹ đầu tư cũng không còn là một khái niệm mới mẻ. Quỹ đầu
tiên được chào bán ra công chúng vào cuối năm 2004. Từ đó đến nay, đã có một số
quỹ dạng đóng niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán, dần thu hút được sự chú ý của

các nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên, thị trường quỹ chỉ thực sự bắt đầu khởi sắc sau
khi Thông tư 183/2011/TT-BTC ngày 16/12/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn quy chế
hoạt động của quỹ mở được ban hành.
● Nội dung pháp luật về cơ chế giám sát và điều hành của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền
Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một bộ phận của TTCK nên phải chịu sự
giám sát của UBCKNN theo Điều 7, 8 Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung
năm 2010. Tiếp theo là chịu sự giám sát của Sở giao dịch và Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán với các thành viên của mình (quy định tại Điều 37). Bên cạnh đó là sự
kiểm tra giám sát của Thanh tra chứng khoán căn cứ theo Điều 109, 110, 116 Luật
Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh chứng khoán và TTCK còn chịu sự giám sát của
Ngân hàng thương mại với việc quản lý quỹ đại chúng của công ty quản lý quỹ. Trong
mô hình công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ là công ty cổ phần, công ty trách
23

23


nhiệm hữu hạn cũng tồn tại cơ chế giám sát của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành
viên và Ban kiểm soát.
● Về cơ chế xử lý vi phạm
Việc thanh tra và xử lý vi phạm trong kinh doanh chứng khoán được quy định tại
chương IX của Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010 từ Điều 108 đến
130 và được quy định chi tiết tại Mục 5, Chương II Nghị định 108/2013/NĐ-CP quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
1.2.4. Vai trò của pháp luật về kinh doanh chứng khoán
● Đối với pháp luật về TTCK và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung
Pháp luật kinh doanh chứng khoán là một bộ phận của pháp luật về chứng khoán

và TTCK. Hơn nữa nó còn là một bộ phận trong tổng thể hệ thống pháp luật nói
chung. Các quy phạm pháp luật về kinh doanh chứng khoán đã góp phần hoàn thiện
pháp luật về TTCK. Xét về tổng thể nó cũng có vai trò làm cho hệ thống pháp luật của
nước ta thêm toàn diện và đồng bộ hơn.
● Đối với TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung
Pháp luật kinh doanh chứng khoán là chất xúc tác, điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh chứng khoán diễn ra an toàn, đảm bảo, ổn định. TTCK phát triển thì từ đó mới
thu hút được nhiều nguồn vốn cho nền kinh tế để Nhà nước đầu tư vào những dự án
quốc gia, góp phần thay đổi bộ mặt nước nhà.
● Đối với chủ thể kinh doanh chứng khoán
Xây dựng tốt các quy phạm pháp luật điều chỉnh kinh doanh chứng khoán sẽ tạo
ra hành lang pháp lý cho các hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Đồng thời hạn chế rủi ro, đảm bảo sự tin tưởng, an toàn cho các chủ thể khi tham gia
đầu tư và hoạt động trên TTCK, tạo nên chuẩn mực để các chủ thể tuân theo khi thực
hiện hành vi giao dịch.
● Đối với nhà đầu tư
Với nhà đầu tư, yếu tố pháp luật là yếu tố quan trọng hàng đầu khi quyết định
đầu tư. Không nhà đầu tư nào muốn mạo hiểm đầu tư khi mà hệ thống pháp luật điều
chỉnh hoạt động đầu tư kinh doanh của họ còn chưa thực tiễn và ổn định. Vì vậy pháp
luật về kinh doanh chứng khoán Việt Nam đã có rất nhiều quy định, chính sách tạo
điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư như quy định: chủ thể kinh doanh chứng khoán phải
ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của mình; quy định về nghĩa vụ của
chủ thể kinh doanh chứng khoán phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư để
bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư khi có sự cố kỹ thuật và sơ xuất của nhân viên
24

24



công ty... Những quy định này đã tạo ra tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư khi tham
gia vào đầu tư kinh doanh chứng khoán trên TTCK.
1.3. Các nguyên tắc pháp luật về kinh doanh chứng khoán
Kinh doanh chứng khoán thường nhìn vào 3 mục tiêu lớn: Hoạt động có hiệu
quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Vậy để đạt được mục tiêu đó, kinh doanh
chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
● Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng
khoán của tổ chức, cá nhân
Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh chứng khoán của các tổ chức cá
nhân là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất khi tham gia vào các hoạt động
kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Theo đó dù chủ thể là tổ chức hay cá nhân, không một chủ thể nào có quyền can
thiệp vào hoạt động mua, bán, kinh doanh chứng khoán của các chủ thể khác trên thị
trường giao dịch nêu các hoạt động này không trái với pháp luật.
● Nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch
Để đảm bảo công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán, đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian lận
trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên TTCK như các loại chứng khoán
được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của công
ty phát hành chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao
dịch đều phải công khai. Việc công khai thông tin về TTCK đòi hỏi thỏa mãn các yêu
cầu sau:
- Tính chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không
tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh
hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trong kinh
doanh chứng khoán.
- Tính kịp thời: nếu các thông tin công khai mà không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu
thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
- Tính dễ dàng: chủ thể kinh doanh chứng khoán phải dễ dàng tiếp cận với thông
tin trên TTCK trên các phương tiện thông tin như: báo chí, phát thanh, các cơ quan

thông tin.
● Nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
Không chỉ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán mà bất kì lĩnh vực kinh
doanh tài chính nào khác, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư cũng là một
nguyên tắc kinh doanh cần được chú trọng đảm bảo thực hiện.

25

25


×