Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giáo trình Tiếp cận bền vững trong các dự án phát triển nông thôn: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 91 trang )

CHƯƠNG 5: TÀI CHÍNH TRONG CÁC DỰ ÁN PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN

Các dự án phát triên nông thôn rất đa dạng, từ cấp nước và vệ sinh, đường giao thông,
hệ thống điện, quy hoạch sử dụng đất đến trường học và các cơ sở dịch vụ công cộng
khác. Chương này đề cập chủ yếu đến các vấn đề tài chính và hoàn chi phí của các dự
án cấp nước và vệ sinh nông thôn để giải thích và minh họa các nguyên tắc cơ bản.
Những nguyên tắc này có thể áp dụng cho các dự án và các loại dịch vụ khác với một
số điều chỉnh phù hợp với đặc thù của từng loại dự án và dịch vụ.
5.1. Nước là một loại hàng hóa
Chương trình nghị sự 21 và Các nguyên tắc Dublin đưa khái niệm coi nước là một loại
hàng hóa thành một chương trình nghị sự toàn cầu. Khái niệm này đã được chấp nhận
một cách rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đang tồn tại những sự lẫn lộn có cơ sở
về nghĩa chính xác của một số nguyên tắc. Nhiều trong số những người không chuyên
về kinh tế không hiểu rõ các hàm ý của các khái niệm "Nước là một loại hàng hóa kinh
tế" hay "Nước là một loại hàng hóa kinh tế và xã hội". Rogers và các đồng sự (1998)
đã giải thích những vấn đề này thông qua việc công thức hóa khái niệm nước là một
loại hàng hóa và giải thích bằng các ví dụ thực tế các công cụ kinh tế có thể sử dụng
để chi phối hiệu quả dùng nước về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
5.1.1. Ước tính chi phí sử dụng nước
Có một số nguyên tắc chung trong việc đánh giá giá trị kinh tế của nước và các chi phí
đi kèm với việc cung cấp nước. Thứ nhất, sự hiểu biết cặn kẽ về các chi phí liên quan
đến việc cung cấp nước là các điểm mấu chốt. Thứ hai, từ việc dùng nước một người
có thể tạo ra giá trị, các giá trị này có thể bị ảnh hưởng bởi độ tin cậy của việc cấp
nước và bởi chất lượng nước. Các chi phí và giá trị này có thể được xác định một cách
riêng rẽ hoặc thông qua phân tích của cả một hệ thống toàn vẹn. Trong bất cứ hoàn
cảnh nào, mục tiêu sử dụng nước một cách bền vững đòi hỏi rằng giá trị và chi phí
phải cân bằng nhau; tổng chi phí phải bằng giá trị sử dụng bền vững.
Hình 5.1 mô tả bằng sơ đồ tổ hợp của các thành phần khác nhau của các chi phí. Ba
khái niệm quan trọng được thể hiện trong sơ đồ này, đó là: Tổng chi phí cấp nước;
Tổng chi phí kinh tế; và Tổng chi phí. Mỗi một thành phần được cấu thành bởi các yếu


tố riêng biệt cần được giải thích thêm.
• Tổng chi phí cấp nước

96


Tổng chi phí cấp nước bao gồm các chi phí gắn liền với việc cung cấp nước cho khách
hàng chưa kể đến các phụ phí hoặc các sử dụng khác của nguồn nước. Tổng chi phí
cung cấp nước bao gồm 2 thành phần riêng rẽ: Chi phí vận hành và duy tu, và giá vốn.
Cả hai thành phần này đều phải được đánh giá như tổng chi phí kinh tế của các nhập
lượng.
Chi phí vận hành và duy tu: Các chi phí này gắn liền với vận hành hàng ngày của hệ
thống cấp nước. Các chi phí thường gặp bao gồm chi phí mua nước thô, điện để bơm,
nhân công, các vật liệu sửa chữa và chi phí đầu vào cho việc quản lý và vận hành các
bể chứa, trạm xử lý và phân phối nước. Trong thực tế ít có sự tranh cãi về cách xác
định chi phí vận hành và duy tu.
Giá vốn: Chi phí này phải bao gồm các chi phí sử dụng vốn và lãi gắn liền với các hồ
chứa, các trạm xử lý nước, các hệ thống chuyển và phân phối nước.
• Tổng chi phí kinh tế
Tổng chi phí kinh tế là tổng của chi phí cấp nước, chi phí cơ hội gắn liền với việc sử
dụng cho các mục tiêu khác của cùng một nguồn nước và những phụ phí kinh tế áp đặt
lên những người dùng nước khác do việc tiêu thụ nước của một người dùng nước cụ
thể nào đó.
Chi phí cơ hội: Chi phí này tính đến thực tế rằng bằng việc tiêu thụ nước, người dùng
nước này gây khó khăn cho những người dùng nước khác. Nếu những người dùng
nước khác có một giá trị nước cao hơn thì xã hội phải chịu một chi phí cơ hội do sự
phân bổ nguồn nước không hợp lý này gây ra. Chi phí cơ hội chỉ bằng không khi
không có bất kỳ một mục tiêu dùng nước nào khác hoặc hoàn toàn không xảy ra sự
khán hiếm nước. Việc bỏ qua chi phí cơ hội đánh giá thấp giá trị của nước, dẫn đến
những thất bại trong đầu tư và gây ra sự phân bổ không rất hợp lý tài nguyên nước

giữa các hộ dùng nước.

97


Các phụ phí
môi trường

= GIÁ TRỊ
BỀN VỮNG
TRONG SỬ
DỤNG

Các phụ phí
kinh tế
TỔNG CHI
PHÍ
Chi phí cơ hội

Giá vốn
Chi phí
O&M

TỔNG CHI
PHÍ KINH
TẾ

Tổng
chi phí
cấp

nước

Hình 5.1: Các nguyên tắc chung cho chi phí của nước
(Rogers et al., 1998)
Các phụ phí kinh tế: Phụ phí kinh tế phổ biến nhất là các phụ phí đi kèm với các tác
động của ngăn nước/lấy nước ở thượng lưu hoặc của việc xả nước ô nhiễm xuống hạ
lưu. Có cả các phụ phí kinh tế liên quan đến việc khai thác quá mức hoặc gây nhiễm
bẩn các nguồn nước chung (hồ chứa, nước ngầm). Các phụ phí kinh tế có thể dương
hoặc âm, và việc đặc trưng hóa từng tình huống cụ thể để đánh giá các phụ phí này và
điều chỉnh tổng chi phí là một việc quan trọng.
Phụ phí dương xảy ra, ví dụ, khi tưới mặt đồng thời thỏa mãn yêu cầu bốc thoát
hơi nước của cây trồng và tái bổ sung cho nguồn nước ngầm. Việc tưới nước
khi đó một cách có hiệu quả đã cung cấp dịch vụ bổ sung nước ngầm. Tuy
nhiên hiệu quả thực của "dịch vụ bổ cập nước ngầm" này sẽ phụ thuộc vào cân
bằng tổng thể giữa tổng lượng bổ cập và tốc độ khai thác nước ngầm.
Phụ phí âm có thể áp đặt các chi phí cho người dùng ở hạ lưu nếu như nguồn
nước tưới hồi quy bị nhiễm mặn.
• Tổng chi phí
Tổng chi phí dùng nước bằng tổng của tổng chi phí kinh tế và các phụ phí về môi
trường. Các chi phí này phải được xác định dựa trên những thiệt hại về môi trường do
việc dùng nước gây ra hoặc ở dạng chi phí xử lý nước để đạt được chất lượng nước
ban đầu.

98


Phụ phí môi trường: Là các chi phí gắn liền với việc đảm bảo sức khỏe cộng đồng và
hệ sinh thái. Bởi vậy nếu việc ô nhiễm nguồn nước làm tăng chi phí sản xuất và tiêu
thụ nước ở hạ lưu thì đó là các phụ phí kinh tế, nhưng nếu nó gây các tác động xấu đến
sức khỏe cộng đồng hoặc hệ sinh thái thì đó là các phụ phí môi trường.

5.1.2. Các thành phần của giá trị nước
Để cân bằng kinh tế, giá trị của nước được đánh giá bằng giá trị sử dụng phải vùa bằng
tổng chi phí sử dụng nước. Tại điểm cân bằng này, mô hình kinh tế cổ điển biểu thị
rằng phúc lợi xã hội được tối đa hóa. Trong thực tế, giá trị sử dụng nước được trông
đợi thường cao hơn tổng chi phí ước tính do những khó khăn trong ước tính các phụ
phí môi trường khi tính toán tổng chi phí. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp giá trị sử
dụng nước có thể thấp hơn tổng chi phí, tổng chi phí kinh tế hoặc ngay cả tổng chi phí
cấp nước. Điều đó xảy ra do các mục tiêu chính trị và xã hội được đặt cao hơn mục
tiêu kinh tế.
Giá trị thiết yếu

Điều chỉnh cho các mục
tiêu xã hội
Hiệu ích thực của việc
sử dụng gián tiếp

TỔNG GIÁ TRỊ
GIÁ TRỊ
KINH TẾ

Hiệu ích thực của dòng
chảy hồi quy
Giá trị đối với người
dùng của nước

Hình 5.2: Các nguyên tắc chung cho giá trị sử dụng của nước
(Rogers et al., 1998)
Hình 5.2 mô tả bằng sơ đồ các thành phần của giá trị trong sử dụng của nước, giá trị
này bằng tổng của các giá trị kinh tế và giá trị thiết yếu. Các thành phần của giá trị
kinh tế bao gồm:

- Giá trị đối với người dùng của nước
- Các hiệu ích thực của dòng chảy hồi quy
- Các hiệu ích thực của việc sử dụng gián tiếp
- Các điều chỉnh cho các mục tiêu xã hội
• Giá trị kinh tế

99


-

Giá trị đối với người dùng của nước: Đối với các hộ dùng nước công nghiệp và
nông nghiệp giá trị đối với người dùng của nước tối thiểu bằng giá trị biên của
sản phẩm. Đối với dùng nước cho sinh hoạt, mức độ tự nguyện chi trả cho việc
sử dụng nước biểu thị biên dưới của giá trị của nước.
Các hiệu ích thực của dòng chảy hồi quy: Dòng chảy hồi quy từ các hộ dùng
nước nông nghiệp, công nghiệp và đô thị tạo thành một yếu tố quan trọng của
các hệ thống thủy văn, bởi vậy tác động của các dòng chảy hồi quy phải được
tính đến khi đánh giá giá trị và chi phí của nước.
Các hiệu ích thực của việc sử dụng gián tiếp: Ví dụ điển hình về hiệu ích sử
dụng gián tiếp xảy ra với các hệ thống tưới, các hệ thống này cung cấp nước
cho các mục đích sinh hoạt và chăn nuôi, điều đó có thể dẫn đến việc cải thiện
điều kiện sức khỏe và tăng thu nhập của các hộ nông dân nghèo.
Các điều chỉnh cho các mục tiêu xã hội: Đối với việc dùng nước trong sinh
hoạt và nông nghiệp, có thể có sự điều chỉnh giá trị để phục vụ các mục tiêu xã
hội, ví dụ: xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm và an ninh lương thực.
Những điều chỉnh này phải được tính đến để thể hiện các mục tiêu xã hội khác
nhau.

-


-

-

• Giá trị thiết yếu
Các hiệu ích được chia thành hai nhóm chính: Các giá trị đối với người dùng hiện tại
và Các giá trị thiết yếu. Các giá trị đối với người dùng hiện tại lại được chia thành hiệu
ích trực tiếp và hiệu ích gián tiếp. Các giá trị thiết yếu thường khó định nghĩa và xác
định, tuy nhiên trong nhiều trường hợp có thể coi như các giá trị phụ thêm của việc sử
dụng tài nguyên.
Tại sao người sử dụng phải trả tiền cho các dịch vụ nước và vệ sinh:
-

Quỹ vốn sẵn có không đủ để đáp ứng đầy đủ cho các chi phí và hoạt động
Quỹ công cộng sẵn có không đủ để đáp ứng các chi phí tái diễn
Sự can thiệp và kiểm soát của nhà nước đã được chứng minh là kém hiệu quả
và ít hiệu lực
Hiệu ích kinh tế và xã hội của điều kiện cấp nước và vệ sinh được cải thiện là
quá gián tiếp để có thể đảm bảo rằng các dịch vụ này nên được cung cấp
miễn phí
Việc trợ cấp làm mất đi quyền hạn của người dùng thông qua việc từ chối các
lựa chọn của họ
Trợ cấp không khuyến khích tính hiệu quả của chi phí (cost-effectiveness) và
việc phát triển của các giải pháp rẻ tiền.
Bằng chứng của nhu cầu và mức độ tự nguyện chi trả là rất rõ rệt với rất nhiều
người nghèo đang trả với giá khá cao cho các loại dịch vụ
Các phí sử dụng được điều tiết hợp lý sẽ đảm bảo rằng người nghèo sẽ phải
trả ít hơn cho các dịch vụ tốt hơn
Việc trả tiền làm tăng cảm giác của giá trị và cam kết trong số những người sử

dụng
Việc chi trả của người dùng tối đa hóa sự sử dụng của các nguồn vốn sẵn có
Việc chi trả của người dùng cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ

100


5.2. Hoàn chi phí
Vấn đề cộng đồng đóng góp tài chính cho các dịch vụ về cơ sở hạ tầng nói chung và
cho các dịch vụ cấp nước và vệ sinh là vấn đề phức tạp và đầy tranh cãi. Câu hỏi cơ
bản nhất cần đặt ra là vì sao cộng đồng cần phải chịu trách nhiệm đóng góp một phần
tài chính ngày càng lớn để chi trả cho các loại dịch vụ về nước và vệ sinh.
5.2.1. Các yếu tố đảm bảo sự bền vững của các dự án
Có nhiều yếu tố chứ không phải riêng yếu tố tài chính có ảnh hưởng đến tính bền vững
lâu dài của các dịch vụ đã được cải thiện. Trong nhiều trường hợp, việc không đánh
giá đầy đủ luận cứ cơ bản này sẽ dẫn đến những thất bại trong việc áp dụng chế độ thu
phí của người sử dụng các loại dịch vụ.
Việc hoàn chi phí không nhất thiết phải ở dạng thu tiền mặt. Một số lượng lớn các dự
án cấp nước và vệ sinh thu hồi ít nhất một phần chi phí thông qua đóng góp lao động
hoặc vật liệu của người dùng. Các loại đóng góp này có thể chiếm đến 20-30% của
vốn đầu tư, và khoảng tương tự cho các hoạt động O&M.
Để dự án bền vững và để có thể hoàn chi phí một cách hiệu quả, các dự án cấp nước và
vệ sinh cần có đủ các yếu tố sau đây (Evans, 1992):
Mười yếu tố cơ bản của sự bền vững của dự án








Môi trường thuận lợi
Nhận thức tốt về vấn đề sức khỏe
Thể chế vững mạnh
- Cộng đồng
- Các cơ quan
- Các nhóm quan tâm
Cảm thấy có nhu cầu (felt need)
Thái độ ủng hộ







Kiến thức và kỹ năng
Mức độ dịch vụ thích hợp
Công nghệ thích hợp
Có đủ vật liệu và trang thiết bị
Có các dịch vụ hỗ trợ
- Quan hệ khách hàng
- Sự hỗ trợ của cộng đồng
- Sự hỗ trợ trong vận hành và duy
tu

Môi trường thuận lợi: Một môi trường thuận lợi được tạo bởi sự thiết lập được một
khuôn khổ luật pháp và chính sách hỗ trợ cho việc phát triển các dịch vụ cấp nước
và vệ sinh. Việc tạo ra và phát triển môi trường đầu tư này chủ yếu là trách nhiệm
của nhà nước. Một môi trường thích hợp không hòa hợp với chính sách "tự do

dùng nước" vì nó đòi hỏi một sự cam kết chắc chắn với tiếp cận chia sẻ trong việc
cung cấp và đáp ứng các chi phí cho các dịch vụ cấp nước và vệ sinh.
Nhận thức tốt về vấn đề sức khỏe: Điều này đặt ra yêu cầu đối với cả các cơ quan
nhà nước lẫn cộng đồng đều phải nhận ra tầm quan trọng của việc cải thiện điều
kiện cấp nước và vệ sinh đối với sức khỏe. Việc nhận thức tốt về vấn đề sức khỏe
hàm ý rằng cộng đồng/người dùng nước chấp nhận những trách nhiệm cá nhân và

101


sẵn sàng chi trả hoặc đóng góp cho các hoạt động để cải thiện điều kiện sức khỏe
của cá nhân và cộng đồng.
Các thể chế vững mạnh: Đối với các cơ quan nhà nước, thể chế mạnh đòi hỏi sự
phân định trách nhiệm rõ ràng, một cơ sở pháp lý chắc chắn và quyền tự chủ trong
quản lý tài chính và nguồn nhân lực tốt. Đối với cộng đồng cần có cơ cấu tổ chức
chính thức, hợp pháp, sự lãnh đạo vững mạnh và được sự hậu thuẫn tích cực của
cộng đồng, có năng lực đại diện cho tất cả các nhóm, khả năng tổ chức và thực hiện
tốt các chương trình, các hoạt động đã được đồng ý bởi toàn thể cộng đồng.
Cảm thấy có nhu cầu: Việc cải thiện điều kiện cấp nước và vệ sinh nói riêng và các
hạ tầng cơ sở, các dịch vụ nói chung phải thể hiện nhu cầu thực sự của cộng đồng.
Mọi thành viên đều có nhận thức rằng việc cải thiện điều kiện dịch vụ/cơ sở hạ
tầng mang lại cho họ và cả cộng đồng những lợi ích đáng kể. Nhu cầu thực sự đảm
bảo rằng các thành viên của cộng đồng sẵn sàng tham gia đóng góp và chi trả cho
các hoạt động của dự án.
Thái độ ủng hộ: Cơ quan chức năng phải cam kết toàn diện với quá trình cộng tác,
và có mong muốn thực sự trong việc hợp tác làm việc với cộng đồng. Đồng thời
cộng đồng phải chấp nhận trách nhiệm và có nguyện vọng làm chủ sở hữu các cơ
sở hạ tầng sẽ được xây dựng, sẵn sàng trả tiền cho các dịch vụ được cung cấp.
Kiến thức và kỹ năng: Tất cả các kỹ năng cần thiết đối với cơ quan chức năng và
cộng đồng đều phải được trang bị thông qua tập huấn. Cộng đồng cần phải có hoặc

phát triển các kỹ năng kỹ thuật cho việc vận hành và duy tu hệ thống, kỹ năng tổ
chức gây quỹ và quản lý tài chính và kỹ năng huy động sự tham gia của các thành
viên vào các hoạt động liên quan đến dự án.
Mức độ dịch vụ thích hợp: Mức độ dịch vụ phải được thống nhất giữa cộng đồng
và cơ quan chức năng và phải thích hợp cả về khía cạnh kỹ thuật lẫn kinh tế xã hội.
Công nghệ thích hợp: Yếu tố này có liên quan đến mức độ dịch vụ. Việc lựa chọn
công nghệ cũng phải được thực hiện với sự tham gia của cả người dùng lẫm cơ
quan chức năng. Đủ khả năng đầu tư và chi trả, dễ vận hành và duy tu, hiệu quả kỹ
thuật và mức độ sãn có của vật liệu và thiết bị thay thế là những yếu tố quan trọng
trong việc lựa chọn công nghệ.
Vật liệu và thiết bị: Mọi loại vật liệu và thiết bị đều phải có sẵn đúng thời gian yêu
cầu trong cả giai đoạn xây dựng, phục hồi hay vận hành và duy tu hệ thống.
Các dịch vụ hỗ trợ: Yếu tố này liên quan đến vận hành và duy tu, các dịch vụ mở
rộng và quan hệ khách hàng.
5.2.2. Yêu cầu và sự tự nguyện chi trả
Cung cấp dịch vụ mà người dùng có đủ khả năng tài chính để sử dụng rõ ràng là điều
kiện tiên quyết cho việc hoàn chi phí. Tuy nhiên có khả năng chi trả và tự nguyện chi
trả không phải bao giờ cũng đi kèm với nhau. Theo quan điểm của các nhà kinh tế nhu
cầu chỉ là thực khi nó đi kèm với sự tự nguyện chi trả cho các loại hàng hòa hay dịch

102


vụ được cung cấp. Theo quan điểm này, nhu cầu và sự tự nguyện chi trả gần như là
đồng nghĩa. Tuy nhiên cả hai khái niệm này cần phải được phân biệt với nhu cầu cảm
giác thấy. Việc tiếp nhận các dịch vụ miễn phí hoặc được trợ giá nhiều ngay cả khi các
dịch vụ này đáp ứng được nhu cầu cảm giác thấy không chứng tỏ rằng người dùng
thực sự có nhu cầu đối với chúng. Nhu cầu cảm giác thấy chỉ trở thành yêu cầu thực
khi người dùng sẵn sàng sử dụng nguồn vốn cá nhân để chi trả cho dịch vụ được cung
cấp. Quan hệ giữa nhu cầu cảm giác và nhu cầu thực rất phực tạp, bởi không thể có

nhu cầu thực nếu không có nhu cầu cảm giác nhưng nhu cầu cảm giác đơn thuần
không đủ để tạo thành đòi hỏi (nhu cầu thực).
5.2.2.1. Các yếu tố chi phối sự tự nguyện chi trả
Tạo ra yêu cầu đối với các dịch vụ được cải thiện phức tạp hơn nhiều so với việc định
giá đúng, cho dù việc định giá đúng có một vai trò quan trọng. Nguồn vốn luôn luôn
hạn chế bởi thế người ta luôn phải lựa chọn cách sử dụng nguồn vốn đó sao cho hiệu
quả nhất. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến
sự tự nguyện chi trả.
Mức dịch vụ: Mức phục vụ cung cấp bởi các hệ thống cấp nước và vệ sinh có ảnh
hưởng quan trọng đến việc người dùng có chi trả cho dịch vụ đó hay không. Mức
dịch vụ thấp nhất (rẻ chất) không thể luôn luôn giả thiết là mức dịch vụ dễ bán
nhất. Trong một số trường hợp khách hàng không muốn trả với mức giá rất khiêm
tốn cho dịch vụ cấp nước đơn giản như bơm tay mà sãn sàng trả nhiều tiền hơn để
được sử dụng nước từ hệ thống cấp nước tập trung, phân phối đến tận nhà.
Tiêu chuẩn dịch vụ: Tiêu chuẩn dịch vụ liên kết chặt chẽ với mức dịch vụ. Nếu một
hệ thống không hoạt động tốt và không tiếp tục cung cấp dịch vụ ở mức chấp nhận
được, sự tự nguyện chi trả của người dùng sẽ biến mất.
Các yếu tố chi phối sự tự nguyện chi trả (Evans, 1992)


















Mức độ dịch vụ
Tiêu chuẩn dịch vụ
Các lợi ích nhận thức được
Quan hệ đến sản xuất
Mức thu nhập
Giá
Chi phí tương đối
Chi phí cơ hội của thời gian
Đặc trưng của các nguồn hiện có
Uy tín của cơ quan cung cấp dịch vụ
Khuynh hướng kết hợp của cộng đồng
Môi trường chính sách
Các yếu tố văn hóa xã hội
Khái niệm sở hữu và trách nhiệm
Tính minh bạch của quản lý tài chính
Khung thể chế

103


Các lợi ích nhận thức được: Trả tiền cho một dịch vụ thực tế là một quyết định đầu
tư. Sự tự nguyện tiếp tục chi trả phụ thuộc vào những lợi ích sẽ thu được. Bởi một
số lợi ích dễ nhận biết được nhưng một số khác thì không, mức độ nhận thức được
các lợi ích có thể mang lại của người dùng có một vai trò quan trọng. Ví dụ lợi ích
về sức khỏe là lợi ích gián tiếp mà nhiều người dùng không nhận thức được và

không coi đó là một lợi ích của việc dùng nước sạch. Các yếu tố khác như màu,
mùi, vị của nước từ hệ thống cấp nước có thể được coi là quan trọng hơn.
Quan hệ đối với sản xuất: Khi nước được dùng cho mục dích sản xuất, ý thức tự
nguyện chi trả thường cao hơn. Tuy nhiên hệ thống được nâng cấp phải tỏ rõ ưu
điểm so với hệ thống cũ nếu yếu tố này là quan trọng.
Mức thu nhập: Mức thu nhập liên quan trực tiếp đến khả năng chi trả. Nếu chi phí
sử dụng nước vượt quá khả năng của người dùng, khỏi cần phải đặt vấn đề về ý
thức tự nguyện chi trả của họ.
Giá: Xác định được mức giá phù hợp là việc quan trọng. Nhiều vùng nông thôn
thường có sẵn các nguồn nước thay thế tuy chất lượng không tốt. Mức giá có thể
ảnh hưởng đến quyết định của người dân trong việc trả tiền để được hưởng dịch vụ
cấp nước tốt hơn hay tiếp tục sử dụng nguồn nước cũ.
Chi phí tương đối: Khi đánh giá chi phí cho một dịch vụ nào đó có thể chấp nhận
được hay không, người dùng thường so sánh với chi phí của các loại dịch vụ khác
họ cho là có cùng giá trị, hoặc họ xem xét nên ưu tiên cho loại dịch vụ nào hơn.
Nếu giá dịch vụ được xem là quá cao so với các dịch vụ khác, sự tự nguyện chi trả
sẽ bị ảnh hưởng.
Chi phí cơ hội của thời gian: Khi nước được dùng không mất tiền, chi phí cơ bản
đối với người dùng là công sức và thời gian dành cho việc lấy nước. Mức độ giá trị
của thời gian chi phí cho việc lấy nước có thể ảnh hưởng đến sự tự nguyện chi trả
cho dịch vụ cấp nước mới để tiết kiệm thời gian.
Đặc trưng của các nguồn sẵn có: Nếu người dùng coi nguồn nước truyền thống của
họ là chấp nhận được thì nhiều khả năng họ sẽ không trả tiền để sử dụng nguồn
nước mới dù tốt hơn. Các yếu tố như dung lượng nguồn nước sẵn có, chất lượng
nhận thức được, khoảng cách, mức độ tin cậy của nguồn... có thể ảnh hưởng đến
khả năng người dùng tiếp tục sử dụng nguồn nước sẵn có hay trả tiền cho dịch vụ
cấp nước mới.
Uy tín của cơ quan dịch vụ: Uy tín của cơ quan cung cấp dịch vụ có ảnh hưởng
quan trọng đến sự tự nguyện chi trả của người dùng. Cơ quan cung cấp dịch vụ cần
phải cung cấp các dịch vụ có chất lượng để có thể hy vọng người dùng làm tốt vai

trò khách hàng của mình.
Khuynh hướng kết hợp của cộng đồng: ở nhiều vùng nông thôn việc hoàn chi phí
có thể thực hiện được thông qua những khoản đóng góp tự nguyện vào một quỹ
chung. Sự hợp tác tốt trong cộng đồng rất quan trọng trong khía cạnh này nhưng

104


không thể coi là đương nhiên. Những xung đột nhỏ, sự mất lòng tin vào lãnh đạo
địa phương... có thể làm mất đi sự hợp tác này.
Môi trường chính sách: Chính sách hướng đến việc cung cấp các dịch vụ miễn phí
thường gây khó khăn cho việc hoàn chi phí của các dự án cấp nước và vệ sinh.
Người ta sẽ không tự nguyện chi trả cho các dịch vụ nếu tin rằng có nhiều người
khác được sử dụng dịch vụ đó miến phí hoặc nhà nước sẽ trả phần chi phí đó. Một
khi chính sách dùng nước miễn phí được hủy bỏ thì chính sách mới cần phải được
phổ biến rộng rãi và vận dụng một cách nhất quán.
Các yếu tố văn hóa xã hội: Các yếu tố văn hóa xã hội có thể ảnh hưởng đến sự tự
nguyện trả tiền để sử dụng dịch vụ và thay đổi theo từng địa phương. ở một số
cộng đồng thái độ và tín ngưỡng đối với thế giới tự nhiên có thể là rào cản đối với
việc sử dụng dịch vụ cấp nước và vệ sinh mới. Khái niệm về chất lượng nước cũng
thay đổi từ nơi này qua nơi khác tùy theo cách nghĩ và tín ngưỡng ở từng địa
phương.
Khái niệm về sở hữu và trách nhiệm: Mức độ mà người dùng cảm thấy trách nhiệm
đối với hệ thống cấp nước và vệ sinh của riêng họ có thể ảnh hưởng đến ý thức tự
nguyện chi trả. Ví dụ, nếu họ tin rằng một hệ thống là của nhà nước thì họ nghĩ
rằng nhà nước phải có trách nhiệm quan tâm đến hệ thống đó. Ngay cả khi các hệ
thống đã được chuyển giao hoàn toàn cho cộng đồng nhiều người vẫn không chấp
nhận quyền sở hữu và trách nhiệm đối với chúng. Một hệ thống được áp đặt từ bên
ngoài thường khó có thể hoàn toàn được chấp nhận bởi một cộng đồng, và bởi vậy
sự tự nguyện chi trả cũng bị ảnh hưởng xấu.

Tính minh bạch của quản lý tài chính: Yếu tố này có thể liên quan mật thiết đến uy
tính của cơ quan cung cấp dịch vụ hoặc tổ chức quản lý địa phương và thực chất là
vấn đề của lòng tin. Nếu mọi người không thể thấy rõ điều gì xảy ra đối với những
đóng góp của họ để duy trì hệ thống cấp nước và vệ sinh của mình, thật khó để kêu
gọi họ chi trả cho các chi phí của hệ thống. Một hệ thống quản lý tài chính minh
bạch, có tính kiểm toán cao sẽ giúp tạo lòng tin và đảm bảo cho người dùng tin
rằng đóng góp của họ được sử dụng đúng mục đích.
Khung thể chế: Cách thức tổ chức chương trình cấp nước và vệ sinh và khung thể
chế hỗ trợ cho nó có thể ảnh hưởng đến ý thức tự nguyện chi trả. Việc thành lập
các ủy ban nước có quyền hạn cao hơn các cơ quan hữu quan hiện có hoặc cơ cấu
tổ chức quản lý địa phương có thể hạn chế hiệu quả của các cơ quan này và làm
cho mọi người không mặn mà ủng hộ ủy ban mới. Một khung thể chế không đủ cởi
mở đối vời người dùng cũng có thể làm giảm ý thức tự nguyện chi trả bởi họ cảm
thấy rằng quan điểm của mình không được đếm xỉa đến trong việc phát triển và
quản lý hệ thống.
5.2.2.2. Xác định mức độ tự nguyện chi trả

105


Nhiều học giả đã nghiên cứu phát triển các phương pháp thực tế để tìm hiểu xem
những dịch vụ nào khách hàng thực sự mong muốn và khách hàng chuẩn bị trả bao
nhiêu cho dịch vụ đó. Việc xác định mức thu nhập ở các vùng nghèo của thế giới là
việc khó khăn. ở các đô thị hầu hết các hoạt động kinh tế diễn ra ở các khu vực không
chính thức và thu nhập hầu như không được khai báo. ở các vùng nông thôn thu nhập
rất nhạy cảm đối với biến động theo mùa và năm và bởi thế rất khó dự đoán chính xác.
Việc tìm hiểu người ta chi tiêu cho cái gì dễ hơn người ta kiếm được bao nhiêu.
Có hai phương pháp được phát triển để đánh giá việc chi tiêu của người dân. Phương
pháp thứ nhất, phương pháp gián tiếp, dựa trên phân tích các số liệu về việc chi trả cho
cùng loại dịch vụ của những người khác có cùng điều kiện với những người dân ở

vùng dự án. Phương pháp thứ hai, phương pháp trực tiếp, dựa trên cơ sở điều tra
(phỏng vấn, phiếu thăm dò...) xem người dân dự kiến sẽ trả bao nhiêu trong tương lai
cho dịch vụ mới.
5.2.3. Quản lý hoàn chi phí và tài chính cộng đồng
5.2.3.1. Các tùy chọn và các phương pháp hoàn chi phí
Có nhiều tùy chọn cho quản lý thực hành các khoản chi trả của người dùng. Mỗi tùy
chọn đều có ưu nhược điểm riêng. Lựa chọn nào là thích hợp tùy thuộc vào hoàn cảnh
của địa phương. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào hiệu quả quản lý đều có ý
nghĩa sống còn đối với sự thành công. Các hệ thống hoàn chi phí cần được phát triển
sao cho không chỉ đảm bảo rằng tài chính của người dùng được quản lý tốt mà còn cần
phải đảm bảo rằng những người phải trả sẽ trả phí dịch vụ.
Giống như các yếu tố khác (công nghệ, mức dịch vụ, chiến lược triển khai dự án...), cơ
chế tài chính phải được điều chỉnh để phù hợp với đặc thù và nhu cầu của hoàn cảnh
địa phương. Cơ chế tài chính cộng đồng hầu như chắc chắn không thành công nếu hệ
thống không đáp ứng nhu cầu, mối quan tâm và năng lực chi trả của các nhóm người
dùng khác nhau.
Bảng 5.1 liệt kê danh sách các tùy chọn về hệ thống hoàn chi phí cho các hệ thống cấp
nước và vệ sinh.
5.2.3.2. Các tuỳ chọn cộng đồng
Các tùy chọn cộng đồng (Bảng 5.2) phù hợp trước hết với các vùng nông thôn tại đó
quản lý cộng đồng giữ vai trò quan trọng. Trong 3 tùy chọn này, các quỹ tự nguyện
dường như có nhiều vấn đề và khó duy trì nhất, trừ những địa phương ở đó có tình hợp
tác cộng đồng và cam kết đối với dịch vụ được nâng cấp rất cao.Tiếp cận này có nhiều
khả năng thành công đối với trường hợp thu quỹ một lần để tạo vốn chi trả một phần
hay toàn bộ chi phí lắp đặt. Mặt khác, việc thu quỹ một cách thường xuyên là điều rất
không nên trừ khi chi phí vận hành và duy tu rất thấp và khoảng thời gian giữa hai lần
thu phí rất dài.

106



Sổ số và giải trí cũng là một cách gây quỹ khác phổ biến ở các nước Mỹ La Tinh và
một số nơi ở Châu á. Tuy nhiên hầu như không có nơi nào sử dụng hình thức gây quỹ
này để cung cấp tài chính dài hạn cho các hoạt động của dự án.

107


Bảng 5.1: Tóm tắt các tùy chọn tài chính (Evans 1992)
Cái gì?

Khi nào?

Để làm gì?

Ai tổ chức

Thế nào?

Các quỹ tự ở các cộng đồng có truyền
nguyện
thống gây quỹ, có thu nhập
theo mùa và có kiến thức và
quản lý tốt các khoản chi tùy
theo năng lực của hộ gia đình
và các lợi ích thu được.

Đóng góp tài chính cho việc
xây dựng; Các khoản đóng
góp lớn hơn thỉnh thoảng

xảy ra để duy tu và sửa chữa
các hệ thống đơn giản với
các điểm cấp nước công
cộng.

Lãnh đạo truyền thống
(trưởng thôn...), các tổ
chức tình nguyện (hội
phụ nữ...)

Các mục tiêu được đặt ra và
quỹ được thu thập định kỳ tại
các cuộc họp hoặc tại từng
gia đình. Quỹ được thu trước
hoặc khi cần.

Nguồn thu ở các cộng đồng có nguồn thu
chung của riêng và có một hệ thống cấp
cộng đồng nước với các tiện nghi công
cộng.

Duy tu và sử chữa hàng Chính
quyền
địa Dự trữ của quỹ được dựa
năm, các đóng góp tài chính phương, Hội đồng nước trên chi phí ước tính và thu
cho việc xây dựng; giảm giá của cộng đồng.
nhập hàng năm của cộng
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
đồng; giảm chi phí hoặc tạo
thu nhập khi cần thiết.

thể.

Quỹ
tác

Duy tu và sử chữa hàng Ban chủ nhiệm hợp tác
năm; trả các khoản vay để xã, Hội đồng nước cộng
xây dựng hệ thống; giảm giá đồng.
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
thể.

hợp Cấp nước được khởi động và
cung cấp tài chính thông qua
hợp tác sản xuất hoặc quỹ
quay vòng của làng; không có
chi trả trực tiếp cho lượng
nước sử dụng.

Dự trữ của quỹ được dựa
trên chi phí ước tính và thu
nhập từ các hoạt động của
hợp tác xã và hội phí của hội
viên; giảm chi phí và/hoặc
phí hội viên; giảm chi phí
hoặc tạo thu nhập khi cần
thiết.

Giá thống Các gia đình có vòi nước Trả các khoản vay để xây Hội đồng nước cộng Cơ quan quản lý dự án gợi ý
108



nhất

riêng, hoặc dùng chung vòi
với nhóm xã hội được xác
định rõ, có nguồn thu ổn định
và tin cậy và có lợi ích tương
đối giống nhau.

dựng hệ thống; duy tu và sử
chữa hàng năm; giảm giá
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
thể.

đồng, Ban quản lý hợp
tác xã dùng nước, Chính
quyền địa phương, Ban
đại diện hội người dùng
nước.

mức giá ban đầu để người
dùng thông qua; Phí được
thu và quản lý bởi hội dùng
nước địa phương.

Giá
cấp

phân ở các cộng đồng có sự khác
nhau đáng kể về sử dụng nước

và lợi ích và tinh thần cộng
đồng đủ để phân chia các hộ
thành các nhóm chi trả khác
nhau.

Trả các khoản vay để xây
dựng hệ thống; duy tu và sử
chữa hàng năm; giảm giá
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
thể.

Cơ quan cung cấp dịch
vụ nước với sự hỗ trợ
của những người đề
xướng hoặc các chuyên
gia xã hội khác giúp cho
cơ quan quản lý dự án.

Những người dùng vời nước
riêng được phân loại thành
các nhóm giá cao, thấp khác
nhau dựa trên các chỉ số của
địa phương về dùng nước và
tiềm lực kinh tế; Những
người dùng chung vòi nước
có thể trả thấp hơn.

Giá
hợp


hỗn ở các cộng đồng có sự khác
nhau lớn về khả năng chi trả
và sử dụng nước, với các hộ
có thu nhập cao và hộ thu
nhập thấp sống ở các khu vực
riêng biệt

Trả các khoản vay để xây Cơ quan cung cấp dịch
dựng hệ thống; duy tu và sử vụ nước với tổ chức
chữa hàng năm; giảm giá nước cộng đồng.
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
thể.

Nguôn phí dư hoặc các vòi
nước cá nhân được dùng để
bù cho chi phí của các vòi
nước công cộng miễn phí ở
các khu nghèo.

ở các cộng đồng lớn với Trả các khoản vay để xây Cơ quan cung cấp dịch
nguồn nước hạn chế và một dựng hệ thống; duy tu và sử vụ nước và/hoặc tổ chức
cơ cấu hành chính hiệu quả.
chữa hàng năm; giảm giá nước cộng đồng.
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
thể.

Ghi số đo, viết các hóa đơn
và thu phí bởi những nhân
công khác nhau hoặc trả qua
ngân hàng, tại ủy ban nhân

dân.

Đo nước

Bán

rong ở các cộng đồng nơi hệ thống Đóng góp để cung cấp tài Cơ quan cung cấp dịch Nước được bán từ các vòi có
109


thay cho
một mạng
phân phối
bằng
đường ống

bán rong có giá trị xã hội có
thể nâng cấp, nơi các giải
pháp khác không khả thi về
mặt chính trị, kinh tế hay kỹ
thuật

chính cho các chi phí lặp lại
của cơ quan cung cấp dịch
vụ nước, và các chi phí cho
dịch vụ bán rong bao gồm
việc đảm bảo vệ sinh và sửa
chữa đơn giản.

vụ nước với những

người vận hành hệ thống
được trả lương, Hội phụ
nữ hoặc hợp tác xã của
những người bán nước.

đồng hồ đo với giá được
kiểm soát; khi có trợ giá giá
mua, giá bán có thể bằng với
giá bán tại các vòi cá nhân,
chênh lệch giá tạo ra thu
nhập cho người bán rong.

Bán rong
như là một
phần của
một mạng
phân phối
bằng
đường ống

ở các cộng đồng nơi liên hệ
giữa các nhóm hoặc việc cung
cấp hỗ trợ giữa hệ thống nước
công cộng và tư nhân không
hoạt động.

Đóng góp để cung cấp tài
chính cho các chi phí lặp lại
của các điểm cấp nước công
cộng, và các chi phí cho dịch

vụ bán rong bao gồm việc
đảm bảo vệ sinh và sửa chữa
đơn giản.

Cơ quan cung cấp dịch
vụ nước với những
người vận hành hệ thống
được trả lương hoặc
những người được ủy
quyền thích hợp về mặt
kinh tế-xã hội, vd:
những người phụ nữ
đứng đầu các hộ gia
đình.

Nước được bán từ các vòi có
đồng hồ đo với giá được
kiểm soát; khi có trợ giá giá
mua, giá bán có thể bằng với
giá bán tại các vòi cá nhân,
chênh lệch giá tạo ra thu
nhập cho người bán rong.

Thuế nước ở các cộng đồng nơi việc
trực tiếp chuyển giao quỹ đầy đủ cho
hoặc gián tổ chức nước được đảm bảo
tiếp
và thuế có thể liên quan đến
việc dùng nước và chi phí.


Trả các khoản vay để xây
dựng hệ thống; duy tu và sử
chữa hàng năm; giảm giá
hoặc mở rộng dịch vụ nếu có
thể.

Tổ chức dịch vụ của
chính quyền địa phương
đối với những khu vực
nhất định, vd: hệ thống
nhà ở giá rẻ.

Thuế được sử dụng để cung
cấp tài chính cho các dịch vụ
cơ bản; các mức đóng thuế
được dựa vào mức dịch vụ
hoặc điều kiện nhà ở.

110


khả thi, đặc biệt ở các cộng đồng nhỏ. Tuy nhiên cần phải tạo được nguồn thu ổn định
cho các hợp tác xã và năng lực quản lý của chính quyền địa phương phải cao. Đồng
thời cũng cần có sự nhất trí cao trong số các thành viên của cộng đồng về các ưu tiên
cũng như sự thừa nhận tầm quan trọng của việc duy trì dịch vụ cấp nước. Cộng đồng
có đủ khả năng đầu tư và chi trả theo phương thưc này có thể có trách nhiệm cao trong
việc quản lý hệ thống.
Bảng 5.3: Quản lý thu hồi chi phí: Các tùy chọn cộng đồng (Evans 1992)
Tùy
chọn


Các yếu tố và ưu nhược điểm

Quỹ tự Ưu điểm
nguyện

Nhược
điểm

- Đáp ứng được các biến động theo mùa của thu nhập;
- Cho phép có nhiều lựa chọn về hình thức thu quỹ (tại các cuộc
họp, sổ số, hội hè, thu tại gia đình....);
- Mọi người có thể đóng góp theo khả năng chi trả;
- Giảm được khối lượng công việc của tổ chức địa phương
-

Có thể dẫn tới sự mất công bằng
Đóng góp có thể không liên quan đến việc dùng nước
Khó kiểm soát các trường hợp không góp quỹ
Dễ nảy sinh sự chia rẽ trong cộng đồng

Các điều - Mức hợp tác trong cộng đồng cao và kiểm soát xã hội tốt
kiện tiền - Nhu cầu cảm giác trong cộng đồng và cam kết đối với hệ thống
đề
mạnh
Nguồn
thu
chung
của
cộng

đồng

Ưu điểm

- Là cách để trách việc chi trả trực tiếp cho việc dùng nước, một
việc đôi khi là không thể chấp nhận được
- Việc cấp nước được cung cấp tài chính bởi các hoạt động tạo
nguồn thu nên không làm giảm thu nhập của các hộ

Nhược
điểm

- Không đảm bảo sự công bằng nếu không có sự đồng nhất trong
khả năng sử dụng nước
- Các hoạt động tạo nguồn thu có thể không đảm bảo đủ quỹ cho
các hoạt động
- Tranh cãi có thể xảy ra về tỷ lệ vốn phân bổ cho việc cấp nước
và các hoạt động, dịch vụ khác

Các điều - Khả năng sử dụng/tiếp cận dịch vụ phải tương đối đồng đều
kiện tiền - Đóng góp vào nguồn thu chung phải tương đối đồng đều
đề
- Nguồn thu được tạo ra phải ổn định và đủ để đáp ứng yêu cầu
Quỹ
Ưu điểm
hợp tác


- Các khoản chi trả được đáp ứng bằng tiền lãi từ các hoạt động
tạo thu nhập

- Lợi dụng được năng lực quản lý vốn có của địa phương

111


Nhược
điểm

- Những thành viên có thế lực hơn có thể có ảnh hưởng quá lớn
- Không phải tất cả người dùng nước tham gia vào các hoạt động
của hợp tác xã

Các điều - Có sẵn các hoạt động kinh tế có hiệu quả của hợp tác xã
kiện tiền
đề
5.3.2.3. Các tùy chọn về giá
Bảng 5.4: Quản lý thu hồi chi phí: Các tùy chọn về giá (Evans 1992)
Giá thống nhất
Ưu điểm - Tương đối dễ cho các nhà quản lý
- Không tốn thêm cho việc đo nước
- Phí phải trả không phản ánh đúng mức tiêu thụ và khả năng tiếp cận
Nhược
nguồn nước
điểm
- Giá có thể không phản ánh khả năng chi trả của tất cả người dùng
- Tất cả người dùng đều phải biết
Điều
kiện tiền - Các nhu cầu nước phải tương đối đồng đều
đề
Giá phân cấp

Ưu điểm - Phí phải trả phản ánh mức tiêu thụ và khả năng chi trả một cách công
bằng hơn
- Người nghèo trong cộng đồng có thể được trợ giá bởi người giàu
- Giá phản ánh tốt hơn mức dịch vụ thực tế
- Tranh cãi có thể xảy ra về cơ sở của việc phân cấp giá
Nhược
- Những người phải trả giá cao hơn có thể có ảnh hưởng quá lớn đến việc
điểm
quản lý hệ thống
- Cơ sở phân cấp giá phải rõ ràng
Điều
kiện tiền - Sự thừa nhận răng dịch vụ tốt hơn phải được phản ánh bằng mức giá
cao hơn và sự tự nguyện hỗ trợ của người giàu đối với người nghèo
đề
Các hệ thống giá hỗn hợp
Ưu điểm - Dành cho người dùng sự lựa chọn mức dịch vụ
- Giá phản ánh mức dịch vụ
- Người nghèo có được lợi nhờ các dịch vụ miễn phí hoặc được trợ giá
- Có thể khó tối ưu hóa sự cân bằng giữa các vòi nước công cộng và vòi
Nhược
nước gia đình
điểm
Điều
- Có nhu cầu mạnh và tự nguyện chi trả cho các vòi nước đến tận nhà
kiện tiền
đề
Đo nước

112



Ưu điểm - Phí phải trả phản ánh lượng nước tiêu thụ
- Khuyến khích việc dùng nước có hiệu quả hơn
- Nhu cầu dùng nước có thể điều tiết, tiết kiệm nước hơn thông qua áp
dụng các mức giá lũy tiến
Nhược
điểm

- Tăng giá dịch vụ do các chi phí cho hệ thống đo nước, ghi số đo, hóa
đơn và thu phí hàng tháng
- Có thể có sự gian dối thông qua việc chỉnh đồng hồ, mắc ống trái phép
- Yêu cầu chi phí duy tu cao hơn

Điều
- Năng lực thể chế tốt ở các cơ quan cung cấp dịch vụ nước
kiện tiền - Hiệu quả dịch vụ cao để đảm bảo hiệu quả chi phí và sự hài lòng của
đề
khách hàng
Trong số các tùy chọn này (Bảng 5.4), đo nước thường được coi là biện pháp chuẩn tắc
nhất của việc thu phí. Việc đo nước đảm bảo rằng người dùng trả khoản phí tỷ lệ trực
tiếp với lượng nước mà họ sử dụng và tỏ ra là biện pháp công bằng nhất đối với tất cả
mọi người để đáp ứng mọi loại chi phí. Tuy nhiên, những vấn đề gặp phải trong quản
lý và điều hành hệ thống đo nước có thể làm giảm hiệu quả của chúng và dẫn đến
những chi phí phụ thêm không cần thiết.
Giá thống nhất là lựa chọn dễ nhất cho các nhà quản lý, tuy nhiên có thể thiếu nhạy
cảm nếu tính công bằng được đặt ra. Hệ thống giá hỗn hợp có thể phù hợp nhất đối với
những khu vực đô thị đông dân cư vì nó cho phép các mức dịch vụ thấp hơn (vd: vòi
nước công cộng) được trợ giá bởi các mức dịch vụ cao hơn (cấp nước cho các gia
đình).
Năng lực thể chế và hiệu quả quản lý là những yếu tố then chốt trong việc đảm bảo

hiệu quả và hiệu lực của bất kỳ hệ thống định giá nào.
5.3.2.4. Các tùy chọn thương mại
Việc bán nước (ví dụ bằng xe téc) là một tùy chọn thương mại phổ biến nhất (bảng
5.5) ở các vùng có thu nhập thấp. Đây không phải là lực chọn dài hạn nhưng có thể là
một giải pháp ngắn hạn hiệu quả, đặc biệt ở những nơi việc bán nước được điều tiết tốt
và có thể kiểm soát được chất lượng nước.
Bảng 5.5: Quản lý thu hồi chi phí: Các tùy chọn thương mại (Evans 1992)
Ưu điểm Nhược
điểm

Động cơ mạnh cho các dịch vụ có chất lượng và duy tu hệ thống
Sự chuyển giao trách nhiệm quản lý cho bộ phận kinh tế tư nhân
Tiết kiệm lao động và thời gian cho người dùng nước
Phạm vi lựa chọn lớn, từ các doanh nghiệp tư nhân đến các hợp tác xã
do cộng đồng quản lý
- Giá tương đối cao đối với người dùng
- Chất lượng nước khó đảm bảo
- Phạm vi khai thác ở những nơi nguồn nước hạn chế
113


- Mức giá cao có thể ngăn cản mức tiêu thụ và sử dụng đủ định mức
- Năng lực thể chế đủ để kiểm soát hoạt động kinh doanh nước để đảm
Điều
bảo quyền lợi của người dùng nước
kiện tiền
đề
5.3.2.5. Các tùy chọn gián tiếp
Gây quỹ thông qua nhiều dạng thuế khác nhau (Bảng 5.6) là một giải pháp được áp
dụng tương đối phổ biến ở nhiều nơi. ở các vùng nông thôn, một loại thuế phát triển,

được thu theo đầu hộ gia đình, có thể tạo nguồn thu cho các loại dịch vụ khác nhau
như đường xá, trạm xá, trường học, cấp nước và vệ sinh...
Bảng 5.6: Quản lý thu hồi chi phí: Các tùy chọn gián tiếp (thuế) (Evans 1992)
Ưu điểm - Việc cung cấp tài chính cho các dịch vụ chung được tạo dòng và dễ
dàng hơn cho các nhà quản lý
- Trợ giá giữa các lĩnh vực có thể được thực hiện, vd, thông qua thuế bất
động sản
- Mức chi trả có thể được liên hệ với sản xuất và mức thu nhập
- Phí phải trả có thể không phản ánh mức dịch vụ và mức tiêu thụ
Nhược
- Các cơ quan dịch vụ nước có thể không có kiểm soát trực tiếp đối với
điểm
nguồn tài chính, do đó không thể đảm bảo đủ nguồn vốn
- Người dùng không ý thức được chi phí thực của dịch vụ
- Hạn chế phạm vi tham gia của cộng đồng trong việc ra quyết định và
quản lý hệ thống.
- Năng lực thể chế và hiệu quả quản lý tốt của các cơ quan hỗ trợ
Điều
kiện tiền - Sự điều phối và hợp tác tốt giữa các cơ quan dịch vụ khác nhau
đề
5.3.2.6. Quản lý bởi cộng đồng người dùng
Bên cạnh việc xây dựng các phương pháp hiệu quả để quản lý các đóng góp tài chính,
việc xác định rõ ràng ai là người có trách nhiệm quản lý cũng rất quan trọng. Khuynh
hướng hướng đến sự quản lý bởi cộng đồng thay cho các cơ quan dịch vụ hàm ý sự
thay đổi vai trò của cả cộng đồng lẫn các cơ quan chuyên trách. Đang có những sức ép
nhất định về việc các cơ quan nhà nước nên giảm can thiệp trực tiếp vào việc cung cấp
các dịch vụ mà tập trung vào việc giúp đỡ để các cơ quan công cộng và tư nhân có đủ
khả năng cung cấp dịch vụ. Về mặt lý thuyết, việc huyển giao này có thể làm nhẹ bớt
gánh nặng về tài chính của nhà nước trong việc thực hiện và duy trì các chương trình
phát triển. Đồng thời các cơ quan chuyên trách cần phải tăng cường năng lực của mình

để hỗ trợ cộng đồng và các doanh nghiệp tư nhân trong việc tăng cường năng lực của
họ.

114


Những điều kiện tiền đề cho sự tự quản của cộng đồng (Evans 1992)


Phải có yêu cầu của cộng đồng đối với việc cải tạo/xây dựng hệ thống



Thông tin cần thiết cho việc ra quyết định phải đầy đủ cho cộng đồng



Công nghệ và mức dịch vụ phải tương xứng với nhu cầu và năng lực của cộng đồng
để cung cấp tài chính, quản lý và duy tu hệ thống



Cộng đồng phải hiểu các lực chọn của họ và tự nguyện chịu trách nhiệm về hệ thống



Cộng đồng phải tự nguyện đầu tư vốn xây dựng và các chi phí trong quá trình vận
hành hệ thống




Cộng đồng phải được trao quyền để có thể ra quyết định về điều hành hệ thống



Cộng đồng phải có năng lực thể chế để quản lý việc phát triển và vận hành hệ thống



Cộng đồng phải có đủ nguồn nhân lực để quản lý thể chế này.



Cần phải có khung chính sách cho phép và hỗ trợ sự tự quản của cộng đồng



Cần có sự hỗ trợ hiệu quả từ bên ngoài: nhà nước, các nhà tài trợ về đào tạo và tập
huấn, tư vấn kỹ thuật, tín dụng, xây dựng...

5.3. Phân tích kinh tế và phân tích tài chính
Phần này đề cập khái quát các vấn đề trong phân tích kinh tế và phân tích tài chính: Nó
bao gồm những gì, khi nào ta cần nó và tại sao nó quan trọng trong việc thiết kế các dự
án. Những nội dung chính trong phần này là:
- Những định nghĩa và ý nghĩa của phân tích tài chính và phân tích kinh tế;
- Sự giống và khác nhau giữa phân tích tài chính và phân tích kinh tế;
- Những yêu cầu của các nhà đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn.
Các nội dung của phần này chủ yếu được biên soạn theo tài liệu đào tạo về quản lý
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (Dự án hỗ trợ kỹ thuật của ADB - Dương Văn Xanh

chủ biên, 2001)
5.3.1. Khái niệm và ý nghĩa của phân tích tài chính
Tính toán hiệu quả kinh tế của dự án là cực kỳ quan trọng trong việc xác định chi phí
và lợi ích của việc đầu tư, xem xét việc đầu tư vào dự án có lợi hay không?
Có nhiều nguyên nhân tại sao loại phân tích này quan trọng. Thông qua phân tích kinh
tế/tài chính chúng ta có thể kiểm tra được dự án, đưa ra những thông tin chính xác, đáp
ứng yêu cầu của Ngân hàng Phát triển Châu á, quản lý tốt tài nguyên của người khác,
đảm bảo tính có thể kế toán của dự án. Đặc biệt thông qua phân tích này chúng ta có
thể xếp loại các dự án với những phạm vi và thời gian khác nhau.
Để kiểm tra dự án, người ta chỉ can thiệp tích cực việc thực hiện dự án khi hiểu rõ
dòng tiền được đầu tư như thế nào, nó ảnh hưởng đến ai, chi phí đầu vào cần lúc nào.
Phân tích kinh tế và phân tích tài chính đòi hỏi sự nghiêm khắc và chính xác của người
quản lý. Nó giúp cho người quản lý trả lời các câu hỏi trong các phương pháp định

115


lượng, khuyến khích thu thập thông tin thường xuyên nhằm khẳng định rằng mọi kế
hoạch dự tính được thực hiện chính xác trên thực tế.
Với các dự án thực hiện bằng vốn vay, những người cho vay có quyền và có sự quan
tâm riêng, muốn biết tiền của họ được sử dụng như thế nào, và phải được hoạt động
theo giả định và vốn đầu tư được sử dụng khôn ngoan và chính đáng. Phân tích kinh tế
và phân tích tài chính tạo cho người quản lý công cụ báo cáo cho những người cho
vay, tiền được sử dụng như thế nào và nó có những ảnh hưởng gì.
Trong một dự án thường có một chuỗi mệnh lệnh. Những người khác nhau có trách
nhiệm về các lĩnh vực khác nhau. Phân tích tài chính cho phép các hoạt động và chức
năng của dự án thể hiện bằng những trách nhiệm của từng cá nhân. Điều này giúp cho
việc xác định các vấn đề và các vùng thực hiện tốt có lợi ích cao được dễ dàng.
Trong giai đoạn lựa chọn dự án, có một số công cụ có hiệu quả để phân loại các dự án.
Hiệu quả đầu tư của một dự án được xem xét ở nhiều giác độ khác nhau. Ví dụ: Chi

phí đầu tư một hệ thống tưới là 100 triệu đồng trong đó cộng đồng dân cư bỏ ra 50
triệu đồng và Nhà nước tài trợ 50 triệu dồng đã nâng diện tích tưới từ 50 ha lên 100 ha
và năng suất lúa từ 1,5 tấn/ha lên 2,5 tấn/ha. Như vậy do có đầu tư mà sản lượng lúa đã
tăng lên. Nếu xét cụ thể từng bên tham gia trong dự án (cộng đồng dân cư, Nhà nước
và xã hội như một thể thống nhất) ta thấy họ có những chi phí và lợi ích rất khác nhau.
Chi phí của bên này có thể là lợi ích của bên kia hoặc ngược lại. Trong dự án này cộng
đồng dân cư đã phải bỏ ra chi phí là 50 triệu đồng để có được một lợi ích từ lượng lúa
tăng lên là 50 tấn và một lợi ích mà nhiều lúc bị quên đi là phần tài trợ (50 triệu đồng)
từ phía Nhà nước. Nếu xét trên giác độ toàn xã hội, ta thấy chi phí sẽ là 100 triệu đồng
(cả phần của cộng đồng dân cư và phần của Nhà nước) để có một lợi ích là tăng lượng
lúa sản xuất lên 50 tấn. Việc xem xét chi phí và lợi ích của các bên tham gia dự án
được thể hiện trong việc phân tích tài chính và phân tích kinh tế của dự án.
Phân tích tài chính của dự án không gì khác ngoài công tác kế toán nhằm xác định
chính xác các chi phí và lợi ích. Phân tích tài chính, hiểu một cách đơn giản là sự phân
tích lợi ích – chi phí trên cơ sở giá thị trường. Phân tích tài chính đứng trên giác độ của
các đối tượng tham gia riêng rẽ: Hộ nông dân, công ty tư nhân, xí nghiệp cơ quan Nhà
nước, hay cơ quan quản lý dự án. Thông quan phân tích tài chính có thể đạt được một
số mục đích chính như:
- Đánh giá tác động tài chính thể hiện qua sự ảnh hưởng của yếu tố tài chính đến
người nông dân, lĩnh vực Nhà nước và tư nhân, các cơ quan Chính phủ cùng
những đối tượng tham gia dự án. Điều này được thể hiện thông quan các kế
hoạch tài chính của các đối tượng tham gia dự án;
- Điều chỉnh việc sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn. Dựa trên phân tích tài
chính (phân tích sự đầu tư và phân tích hệ số tài chính) có thể đánh giá hiệu quả
của dự án đối với toàn bộ nền kinh tế như thể thống nhất;
- Đánh giá những đòn bẩy khuyến khích. Phân tích tài chính cực kỳ quan trọng
trong việc xem xét những biện pháp khuyến khích các đối tượng tham gia dự án
116



-

-

(nông dân, người quản lý và chủ sở hữu kể cả Chính phủ trong việc tham gia dự
án);
Cung cấp một kế hoạch tài chính chính xác hợp lý. Kế hoạch này là cơ sở xác
định số lượng và thời gian đầu tư của các đối tượng tham gia dự án cũng như
các nguồn vốn và tiến trình chi trả;
Điều phối sự tham gia về tài chính của các đối tượng. Kế hoạch tài chính cho
phép sự điều phối giữa các nguồn vốn đóng góp từ các thành viên tham gia
trong quãng đời dự án.

5.3.2. Phân tích kinh tế và ý nghĩa của phân tích kinh tế
Phân tích kinh tế của dự án là sự phân tích dự án trên quan điểm phát triển của toàn bộ
nền kinh tế quốc gia tức trên giác độ lợi ích của toàn xã hội trong việc sử dụng những
tài nguyên khan hiếm. Như vậy, phân tích kinh tế đứng trên chi phí và lợi ích của toàn
xã hội đối với một đầu tư nào đó, thông qua chi phí cơ hội hay sẵn sàng chi phí.
Thông qua phân tích kinh tế những dự án có sự hoàn vốn đầu tư tốt nhất, trong điều
kiện tài nguyên hạn hẹp sẽ được chọn thực hiện. Phân tích kinh tế cho thấy sự hấp dẫn
của từng dự án theo quan điểm lợi ích toàn xã hội. Do đó, ở đây không phân biệt vốn
từ khu vực kinh tế nào, tư nhân hay Nhà nước, ai thực hiện dự án.v.v...
5.3.3. Sự giống nhau và khác nhau giữa phân tích tài chính và phân tích kinh tế
Như vậy, phân tích tài chính và phân tích kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau. Trên
cùng một hiện tượng, sự đầu tư vào một dự án, phân tích tài chính đứng trên quan
điểm của từng đối tượng tham gia riêng biệt còn phân tích kinh tế - trên giác độ tổng
thể của một quốc gia hoặc cả xã hội.
Cả hai phân tích đều đứng trên những chi phí và lợi ích thực tế xảy ra trong vòng đời
của dự án và sử dụng cùng một tỷ lệ chiết khấu đối với dòng tiền mặt. Tuy nhiên, giữa
hai dạng phân tích này có những sự khác nhau nhất định:

- Trong phân tích kinh tế thuế và trợ cấp được coi như những thanh toán trung
gian. Những loại thuế, một phần của lợi ích từ toàn bộ dự án được chuyển vào
Chính phủ, chính là đại diện của toàn xã hội, và không được coi như những chi
phí;
- Trong phân tích tài chính, giá thị trường được sử dụng, trong đó bao gồm cả
thuế và trợ cấp. Ngược lại, trong phân tích kinhtế. Một số giá thị trường có thể
thay đổi cho phù hợp hơn với giá trị kinh tế nhằm phản ánh sát hơn tính khách
quan của giá cả cũng như loại trừ những yếu tố mang tính chủ quan của chính
sách;
- Trong phân tích kinh tế, lãi suất đầu tư không trừ vào nguồn thu của dự án vì đó
là một phần trong lợi ích của xã hội từ nguồn vốn sẵn có.
5.3.4. Các chi phí của dự án
5.3.4.1. Khái niệm về các loại chi phí

117


Để thực hiện dự án cần có những đầu tư nhất định thông qua các chi phí. Chi phí của
dự án có thể phân ra: Chi phí trực tiếp (chi phí được thanh toán bằng tiền mặt hoặc quy
ra tiền mặt) và chi phí gián tiếp (chi phí xảy ra đối với các tác nhân ngoài dự án, hoặc
xảy ra khi dự án đã hoàn thành, hoặc không thanh toán bằng tiền mặt). Cần hiểu rằng
mọi chi phí phục vụ trực tiếp việc thực hiện dự án và được hạch toán vào trong dự án
có thể gọi là chi phí trực tiếp của dự án. Như vậy, các chi phí về quản lý dự án cũng
được coi là chi phí trực tiếp. Mặt khác, chi phí gián tiếp có thể có nguồn gốc về môi
trường, có tính xã hội.
Tất cả các chi phí trực tiếp có thể định lượng hoá với mục đích nhằm so sánh và xếp
loại các dự án. Tuy nhiên, việc định lượng của các dự án sẽ thay đổi phụ thuộc vào
những thông tin hiện có từ cơ bản đến chi tiết. Chi phí toàn bộ gồm tất cả các chi phí
liên quan đến các hoạt động của dự án. Đôi khi nó bao gồm cả chi phí cơ hội. Đó là chi
phí của công việc phải từ bỏ do phải quyết định làm một việc khác.

Hãy đưa ra một cách xử lý cụ thể về những chi phí bất khả kháng, làm cho học viên
hiểu rõ những chi phí đã bị "chìm" - đã xảy ra trước khi bắt đầu dự án, và do đó không
thể đưa vào như một khoản chi phí của dự án. Ví dụ về những chi phí bất khả kháng:
Chi phí đào tạo kỹ sư giám sát thi công. Người kỹ sư này nhận được sự đào tạo trước
khi dự án bắt đầu, và có thể được đào tạo (và đã thanh toán về việc này) thậm chí khi
không có dự án. Chi phí trong việc khảo sát, giải phóng mặt bằng... đường giao thông
do người Pháp làm 50 năm trước đây, đặc biệt đối với các dự án phục hồi đường giao
thông. Các chi phí đối với sự xây dựng này đã được hạch toán khi dự án được tiến
hành.
5.3.4.2. Phân nhóm chi phí trong dự án
Trong kế hoạch tài chính của dự án, chi phí trực tiếp có thể phân theo 3 nhóm chính
phụ thuộc vào tính chất của từng loại chi phí:
- Chi phí đầu tư: Đó là những hạng mục sử dụng trong thời gian dài như đất đai,
nhà xưởng, đường sá, cầu cống... Những chi phí cho các hạng mục này chiếm
một tỷ lệ lớn trong vốn đầu tư của dự án nhất là trong những dự án xây dựng cơ
sở hạ tầng nông thôn;
- Chi phí thường xuyên: Đó là những chi phí xảy ra lặp đi lặp lại hàng năm như
chi phí vận hành, bảo dưỡng và chi phí nhỏ khác. Ví dụ: Chi phí bảo dưỡng
đường giao thông, chi phí mua nhiên liệu vận hành trạm bơm v.v...;
- Chi phí thay thế: Đó là những chi phí xảy ra đối với những hạng mục cần thay
thế sau một thời gian nhất định trong quãng đời dự án để đảm bảo sự vận hành
của công trình.
5.3.4.3. Nguyên tắc chung trong việc xác định và tính toán chi phí dự án
Để xây dựng một kế hoạch tài chính chi tiết và hợp lý cần xác định đầy đủ các loại chi
phí trong vòng đời dự án (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Điều đó đòi hỏi sự tập trung vào

118


những lĩnh vực chủ yếu và đảm bảo tính đầy đủ kỹ lưỡng, tính chính xác của các loại

chi phí. Hay nói một cách khác phải có những tin cần thiết.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ có đủ tất cả những thông tin cần thiết để đưa ra
những quyết định và tính toán cho một dự án. Để có những quyết định chính xác nhất
chúng ta cần phải dựa vào những "dự đoán tốt nhất" có thể trên cơ sở "những giả thiết"
(về cả loại hình cũng như về số lượng). Do đó các quyết định sẽ phụ thuộc rất nhiều
vào mức độ chính xác của thông tin hiện có. Trong thực tế các giả thiết có thể thay đổi
bằng các giả thiết khác, thông qua việc phân tích độ nhạy cảm nhằm xác định độ rủi ro
của từng dự án.
Để xác định và tính toán đầy đủ, chính xác các chi phí của dự án cần đảm bảo những
nguyên tắc chung như:
- Tính đúng các hạng mục về chi phí trong vòng đời dự án;
- Tính đủ các hạng mục chi phí dự án;
- Xem xét lại các dự toán ở từng giai đoạn khác nhau của dự án hay cập nhật sự
tính toán giai đoạn khác nhau của dự án như:
+ Giai đoạn kiến nghị;
+ Giai đoạn thiết kế cơ bản;
+ Thiết kế và mua sắm;
+ Xây dựng và lắp đặt.
5.3.4.4. Chi phí phát sinh của dự án
Mức độ chính xác của việc xác định và tính toán chi phí dự án ngày càng tăng khi có
thêm thông tin chi tiết. Mức độ chính xác của dự toán chi phí có thể dao động từ 60%
đến 5% qua từng thời kỳ sau:
- Dự toán chung: Trong thời kỳ này các tính toán có độ sai số lớn ( ± 60%);
- Dự toán khi nghiên cứu: Khi một số chi tiết của dự án được xác định, dự toán
chi phí có phần tốt hơn ( ± 25%);
- Dự toán cơ sở: Các dự toán này được chuẩn bị khi các tài liệu công nghệ, kỹ
thuật được xác lập và lịch trình thực hiện đã có ( ± 20%);
- Dự toán chi phí xác định ( ± 10%);
- Các tính toán cụ thể: ở thời kỳ này đa số thông tin về dự án đã có và do đó độ
chính xác cao hơn (thường ± 5%).

Mặc dù chúng ta hết sức cố gắng để chuẩn bị một dự toán chi phí thực tế, mọic cái
luôn có thể thay đổi và những yêu cầu có thể cao hơn những gì trông đợi. Để đề phòng
những tình trạng như vậy, cần được dự tính thêm một khoản tiền cho những nhu cầu
bất thường, khoản tiền này gọi là các chi phí phát sinh. Nó được tính toán trên cơ sở tỷ
lệ phần trăm của tổng chi phí. Có hai loại chi phí phát sinh:

119


-

-

Các chi phí phát sinh về vật chất: Sự tăng chi phí dự án mong đợi do sự thay đổi
trong số lượng và phương pháp thực hiện. Sự thay đổi này được tính trên cơ sở
tỷ lệ phần trăm của chi phí ban đầu;
Các chi phí phát sinh về giá cả: Sự tăng chi phí dự án mong đợi do sự thay đổi
về đơn giá các hạng mục/cấu thành dự án trên cơ sở dự toán ban đầu. Các chi
phí phát sinh về giá cả bao gồm lạm phát và thay đổi trong tỷ giá hối đoái.

Giải thích rằng tỷ lệ phần trăm này phụ thuộc vào tính chất của từng loại dự án và các
nhà tài trợ, nó có thể dao động đến 10%, nhưng tỷ lệ cho phép của các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng là 5%.
5.3.5. Các lợi ích của dự án
5.3.5.1. Xác định lợi ích của dự án
Rõ ráng lợi ích cũng được hình thành qua dự án tương tự như là chi phí. Dự án tốt là
dự án có lợi ích lớn hơn chi phí, điều này giải thích tại tao đối với việc phân loại và lựa
chọn dự án, các cộng đồng và các nhà quản lý phải có ý tưởng rõ ràng trước khi dự án
bắt đầu, chi phí và lợi ích của dự án là gì.
Lợi ích của dự án có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mỗi đối tượng khác nhau có những

lợi ích khác nhau từ việc xây dựng dự án. Dự án có thể đem lại lợi ích về cải tạo môi
trường trong vùng, lợi ích liên quan đến các vùng lân cận, tạo công ăn việc làm và thu
nhập cho các đối tượng tham gia dự án, thúc đẩy nền kinh tế phát triển v.v...
Trong quá trình xác định lợi ích của dự án, việc so sánh tình trạng "có" và "không có"
dự án là cực kỳ quan trọng trong cách tiếp cận phân tích tài chính và kinh tế của dự án.
Phân tích dự án cố gắng xác định và giá trị hoá chi phí và lợi ích nảy sinh từ việc thực
hiện dự án, so sánh với tình trạng không có dự án. Sự khác nhay này gọi là thu nhập
thuần tăng thêm do đầu tư của dự án. Cách tiếp cận này hoàn toàn khác với việc so
sánh tình trạng "trước" và "sau" dự án. Sự so sánh trước - sau không tính đến sự thay
đổi xảy ra khi không có dự án. Sự thay đổi về đầu ra của dự án có thể biến động theo
hai chiều hướng. Thường thì khi sản xuất đã tồn tại và phát triển, có thể là chậm, và tất
nhiên sẽ vẫn phát triển trong quãng đời của dự án (có thể là tốt hơn hay xấu đi). Ví dụ,
trong dự án cải tạo thuỷ lợi thì việc đầu tư sẽ làm cho việc tưới tiêu chủ động hơn, tạo
điều kiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đầu tư thâm canh thì sản xuất sẽ tăng trưởng
nhanh hơn. Tuy nhiên, nếu không có đầu tư của dự án thì sản xuất nông nghiệp cũng
vẫn tăng ở mức nhất định nào đó. Do đó thu nhập tăng lên của dự án không phải là
hiệu số của thu nhập hiện tại với con số 0 mà là hiệu giữa 2 mức thu nhập tài 2 tình
trạng "có" và "không có" dự án. Đối với những trường hợp khác nhau có thể thấy tình
trạng "có" và "không có" dự án trong thực tế.
5.3.5.2. Các loại lợi ích của dự án
Lợi ích mà dự án mang lại có thể là nguồn thu trực tiếp về kinh tế như sản phẩm sản
xuất ra như lúa, ngô v.v... Một dự án giao thông có thể giúp cho người dân đi lại dễ

120


×