Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn toán lớp 5b, trường tiểu học xã bằng hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.65 KB, 20 trang )

NỘI DUNG MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. Thông tin chung về sáng kiến
1.1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn
Toán lớp 5B, trường Tiểu học xã Bằng Hữu
1.2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng đối với cả giáo viên và học
sinh trong dạy - học môn Toán lớp 5B trường Tiểu học xã Bằng Hữu
1.3. Tác giả:
Họ và tên: Linh Xuân Phú
Ngày, tháng, năm, sinh: 20/ 05 / 1984
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học xã Bằng Hữu
Điện thoại: 0984 091 861
1.4. Đồng tác giả : Không
1.5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : Không
1.6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu
Đơn vị : Áp dụng sáng kiến tại lớp 5B, trường Tiểu học xã Băng Hữu.
Địa chỉ: Thôn Làng Chiêng, xã Bằng Hữu, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
1.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Đối với nhà trường: Tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt chuyên đề,
bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho GV. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất,
phương tiện dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Đối với GV: Không ngừng nâng cao trình độ bản thân bằng cách học hỏi
đồng nghiệp, tham khảo thêm tài liệu hoặc trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Khi lên kế hoạch bài học cần chuẩn bị kĩ nội dung, phương pháp, hình thức,
đồ dùng nhằm củng cố khắc sâu kiến thức cho học sinh. Ngoài ra phải kiên trì, chịu
khó, tìm tòi, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm cao, say mê với công việc, tận tụy
với HS.
- Đối với HS: Có ý thức tự giác, tích cực trong học tập, học bài cũ, chuẩn bị
bài mới. Biết lắng nghe lời nhận xét của thầy cô, của bạn để tự sửa chữa, khắc phục
nhược điểm của mình. Mạnh dạn góp ý, sửa sai giúp đỡ bạn trong học tập.
1.8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu


Từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020.
II. Mô tả giải pháp truyền thống đã, đang áp dụng:
Với lối dạy học cũ, GV thường chỉ truyền đạt, giảng dạy theo các tài liệu có
sẵn trong sách. Vì vậy cách giảng này không phát huy được tính tích cực sáng tạo
1

1


của học sinh. HS học tập một cách thụ động, chủ yếu là làm theo mẫu. Do đó học
sinh ít có hứng thú trong học tập, nội dung các hoạt động học tập thường đơn điệu.
GV là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh. HS ít được
tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
III. Mô tả sáng kiến
3.1. Tính mới, tính sáng tạo
3.1.1 Căn cứ khoa học đề xuất các giải pháp của đề tài
* Xây dựng môi trường học tập thân thiện:
- Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu
quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… GV tạo sự gần gũi, cảm giác
an toàn nơi HS để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống
của bản thân mình.
- Luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, không làm cho HS cảm thấy sợ, mà
hãy làm cho HS cảm thấy được thương yêu và tôn trọng.
- Bên cạnh đó, GV là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực.
Không chê bai HS, mà dùng lời nói động viên nhắc nhở để các em cố gắng hơn và
tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
* Phân loại các đối tượng HS:
- Tôi phải xem xét, phân loại những học sinh đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng

của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả
năng tiếp thu bài chậm, chưa chịu khó học, thiếu tự tin, nhút nhát…
- Trong quá trình thiết kế bài học, tôi cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho từng đối tượng HS được thể hiện và luyện tập phù hợp.
- Trong dạy học cần phân hóa đối tượng trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng nhận thức chậm những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện
cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị
trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các
em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
2

2


- Ngoài ra, tôi có thể tổ chức phụ đạo cho những HS chưa chuẩn khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Tôi đã tổ chức phụ đạo các em
trong những tiết luyện của buổi hai. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp
với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề.
- Đối với HS có năng khiếu tôi đưa ra những câu hỏi khó hơn đòi hỏi tính tư
duy và hướng dẫn các em làm các bài toán nâng cao.
* Giáo dục ý thức học tập cho HS:
- Tôi chú ý giáo dục ý thức học tập của các em tạo cho các em sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy tôi
phải liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để các em thấy được ứng dụng và tầm quan
trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám
phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
- Bên cạnh đó, tôi phải tìm hiểu từng đối tượng HS về hoàn cảnh gia đình và
nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ các em về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có
lồng ghép việc giáo dục các em về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học

tập, làm cho các em thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, tôi phải phối hợp
với gia đình giáo dục ý thức học tập cho các em.
* Tự tìm tòi, khám phá kiến thức trong học tập
- Hằng ngày, trong quá trình lên lớp bản thân tôi luôn nhắc nhở HS về nhà tự
tìm hiểu bài trước và những phần kiến thức mới, những bài tập trên lớp tôi luôn
dành thời gian cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi khám phá kiến thức, rèn luyện khả
năng tư duy, năng lực xử lí tình huống, giải quyết vấn đề. HS sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến thức đó hoặc góp phần cùng các bạn tìm
tòi, khám phá, xây dựng lên kiến thức đó. HS tự mình rút ra cách học, cách làm của
mình, tự điều chỉnh sửa chữa những thiếu sót của bản thân. Tập cho các em thói
quen tự đánh giá kết quả học tập thực hành và giúp các em ôn tập biết cách tổng
hơp, hệ thống hóa kiến thức. Trên cơ sở đó bản thân tôi sẽ nắm bắt được khả năng
hiểu bài của học sinh đến đâu và sau đó tôi sẽ khắc sâu kiến thức cho học sinh.
3.1.2. Hệ thống các giải pháp đề xuất của đề tài
3.1.2.1. Môn toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then
chốt trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học. Các kiến thức kĩ năng
của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần cho người
3

3


lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở tiểu học và các lớp trên. Môn
toán giúp học sinh nhận biết các mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian
của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt
của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. Môn
toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề. Nó góp phần phát triển trí thông
minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng góp vào việc hình thành
các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thận, có

ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của môn toán, qua thực tế giảng dạy và nghiên
cứu nhiều năm ở tiểu học, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán đặc
biệt nội dung giải toán có văn bản thân tôi đã đúc rút và tổng kết được một số bài
học kinh nghiệm sau đây :
Thứ nhất: Những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chương trình
và SGK.
Những tiết học toán trong SGK là những tiết học rất quan trọng, nhằm cung
cấp cho các em học sinh những yêu cầu cơ bản nhất mà chương trình đặt ra. Bằng
hình ảnh trực quan sinh động và phương pháp sư phạm của GV, các em dần dần
nắm chắc kiến thức, rèn luyện các kĩ năng,.... Việc nắm chắc kiến thức phụ thuộc
rất nhiều vào nhận thức ban đầu của HS. GV cần xuất phát từ những vấn đề rất cụ
thể, chi tiết; HS phải nắm được bản chất của vấn đề, các em phải có nền kiến thức
đại trà vững chắc rồi mới đến ngọn là giải quyết các bài toán ở mức độ cao hơn. Để
làm được điều đó GV cần:
- Tổ chức tốt các hoạt động học tập trong các tiết học để học sinh giải quyết
tốt các bài tập trong sách giáo khoa. HS phải hiểu sâu sắc vấn đề, nắm chắc kiến
thức và vận dụng tốt vào thực hành.
- Thời lượng dành cho thực hành, luyện tập trong mỗi tiết học chiếm từ 60%70%, nên ta cần tận dụng đặc điểm này để tăng cường thực hành, giúp HS hình
thành và phát triển các kĩ năng toán học, giải quyết về cơ bản các nhiệm vụ thực
hành ngay trong các tiết toán tại lớp.
- GV cần giúp HS nắm chắc, thuộc lòng các quy tắc, các công thức tính mà
SGK đã cung cấp. Có kĩ năng vận dụng công thức, quy tắc vào giải quyết các bài
toán trong SGK phần thực hành.
- GV nên chuyển nội dung từng tiết dạy học toán thành các phiếu học tập hay
phiếu thực hành (nếu có điều kiện) để phát huy tính chủ động và sáng tạo của HS,
nêu cao hiệu quả và tăng năng suất học tập. Trong quá trình biên soạn các phiếu
học tập, GV nên tích hợp nhiều nội dung giáo dục gắn với thực tế và gần gũi thu
hút được hứng thú của HS, có thể sử dụng một số tranh ảnh, hình vẽ ngộ nghĩnh để
minh hoạ cho các bài tập thêm sinh động, có thể thiết kế các bài tập dưới dạng bài

tập trắc nghiệm, các trò chơi hay câu đố vui toán học mà không làm biến dạng nội
4

4


dung cơ bản của môn toán, góp phần thay đổi cho môn toán để các em tiếp thu bài
tốt hơn.
- Khi HS đã hoàn thành tốt các bài tập trong SGK, GV cần dần từng bước
hình thành ở các em cách suy luận sáng tạo, biết giải các bài toán đó theo các cách
khác nhau.
Thứ hai: Những kinh nghiệm trong việc sử dụng phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học.
Để chuyển tải được những kiến thức khoa học tới cho HS, GV phải sử dụng
các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Việc nắm bắt kiến thức của học
sinh phụ thuộc rất nhiều vào cách thức và phương pháp giảng dạy của GV. Trong
xu thế dạy học hiện nay, GV không còn là người truyền thụ tri thức theo một chiều,
HS thụ động tiếp thu và làm theo. Người GV cần căn cứ vào vốn sống, khả năng
hiểu biết của HS để thiết kế các hoạt động nhằm giúp HS tự phát hiện và giải quyết
vấn đề dưới sự trợ giúp của các bạn trong nhóm, trong lớp hay của GV.
GV trở thành người thiết kế người tổ chức hướng dẫn các hoạt động,… còn
HS là người thi công, người trực tiếp hoạt động để tìm tòi kiến thức.
Trong giảng dạy GV cần biết lựa chọn các PPDH sao cho phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp mình. Xuất phát từ các ví dụ hay các bài toán mẫu trong
SGK GV cần tổ chức cho học sinh thảo luận để tìm ra cách giải quyết vấn đề mà
bài toán đưa ra. Trên cơ sở đó GV giúp các em biết tổng hợp để rút ra những nhận
xét, những quy tắc hay những kết luận cần thiết. Khi giảng dạy các kiến thức mới,
dạng toán mới GV cần chú ý các bước sau:
*Phương pháp chung:
Tự phát hiện

Tự giải quyết
Tự chiếm lĩnh
* Các bước cụ thể:
Bước1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của HS (Làm xuất hiện vấn đề và
tạo cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu vấn đề đó).
Bước 2:Tổ chức các hoạt động học tập (theo cá nhân, theo nhóm hay cả lớp).
Bước 3: Hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá, bổ sung.
Bước 5: GV hệ thống, kết luận vấn đề, hướng dẫn HS trình bày (GV chốt lại
các vấn đề quan trọng).
Bước 6: Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành, rèn các kĩ năng.
Để triển khai các bước trên một cách có hiệu quả cần có sự trợ giúp của các
phương tiện và đồ dùng dạy học, do đó trong quá trình tổ chức các họat động học
tập của HS giáo viên cần sử dụng các đồ dùng dạy học sao cho phù hợp và mang
tính hiệu quả cao. PPDH ở tiểu học phải phát huy được tính tự giác tích cực, chủ
5

5


động và sáng tạo của HS, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học
sinh và điều kiện của lớp học. GV cần chủ động lựa chọn, vận dụng phối kết hợp
các phương pháp dạy học để phát huy hiệu quả cao nhất.
Thứ ba: Những bước tiếp theo sau khi học sinh đã biết cách giải một
dạng toán.
Mỗi bài Toán là sự kết hợp đa dạng của các khái niệm, các mối quan hệ toán
học, đòi hỏi học sinh phải biết xác lập được các mối quan hệ giữa các dữ liệu của
bài toán: Biết so sánh, phân tích, tổng hợp. Trên cơ sở đó, lựa chọn được cách giải
quyết tốt nhất. Như chúng ta đã biết, đường lối chung để hướng dẫn học sinh giải
một bài toán ở Tiểu học, thường gồm các bước như: Nghiên cứu tìm hiểu bài toán,

thiết lập quan hệ giữa các dữ liệu để tóm tắt bài toán, lập kế hoạch giải bài toán,
trình bày bài giải và kiểm tra kết quả. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, nếu GV
chỉ dừng lại ở các bước trên thì coi như mới hoàn thành xong việc tổ chức hướng
dẫn cho học sinh giải một bài toán. Điều quan trọng là sau khi học sinh giải xong
bài toán đó, GV cần làm gì, cần khai thác những gì từ bài toán để một mặt củng cố
được cách giải, một mặt phải phát huy hết khả năng tư duy, sự sáng tạo của học
sinh khi học toán. Tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm sau đây:
- Nâng cao mức độ khó dễ của bài toán:
Trên cơ sở học sinh đã nắm chắc, hay đã củng cố tốt được cách giải khái quát
của bài toán, GV cần nâng dần mức độ của bài toán đó nhằm kiểm tra khả năng vận
dụng của các em vào các tình huống khác nhau nhằm rèn kỹ năng, kỹ xảo giải toán,
gây hứng thú học tập và phát huy khả năng của từng em.
- Tìm nhiều cách giải khác nhau cho bài toán:
Biện pháp này nhằm giúp học sinh có thể vận dụng các kiến thức đã học vào
giải quyết bài toán theo các hướng khác nhau. Trong chương trình tiểu học học sinh
đã được trang bị một khối lượng khá lớn về các công cụ giải toán. Trong mỗi bài
toán có thể chứa đựng rất nhiều các cách giải khác nhau, nên thông qua mỗi bài
toán đó GV có thể củng cố cho học sinh rất nhiều các phương pháp giải toán đã
học. Đối với HS tiểu học các em đã được làm quen với nhiều dạng toán cơ bản. Từ
việc vẽ sơ đồ cụ thể các em dễ dàng tìm ra được lời giải bài toán. Tuy nhiên không
phải lúc nào cũng vẽ được sơ đồ của bài toán, do vậy việc biến đổi các bài toán để
đưa về các dạng quen thuộc cũng là một phương pháp rất đặc trưng trong dạy toán
tiểu học.
- Tìm hướng giải quyết bài toán có nhiều khả năng xảy ra
Biện pháp này bên cạnh giúp HS củng cố kĩ năng giải toán, phát triển tư duy,
ở mức độ cao hơn còn đòi hỏi các em phải biết tìm tòi giải quyết tất cả các khả
năng có thể xảy ra để tìm hết các đáp số của bài toán, biết loại trừ các khả năng
không phù hợp.
- Giải quyết bài toán ngược với các bài toán đã giải:
Khi giải xong một bài toán, nếu GV đặt ra các bài toán ngược và yêu cầu học

sinh tìm cách giải, sẽ có tác dụng rất tốt trong việc phát huy khả năng sáng tạo của
6

6


các em trong việc vận dụng cách giải của bài toán vừa làm làm cơ sở để giải các bài
toán ngược.
- Tổ chức cho học sinh lập đề toán theo sơ đồ tóm tắt cho sẵn rồi giải:
Mục đích của hoạt động này là nhằm giúp học sinh căn cứ vào sơ đồ tóm tắt
cho sẵn để nhận diện dạng toán cơ bản, để từ đó có thể tự lập một đề toán tương
ứng với sơ đồ tóm tắt đó rồi tự trình bày bài giải. Với hoạt động này sẽ nhằm phát
huy vốn sống, vốn hiểu biết và khả năng diễn đạt ngôn ngữ khi học toán của các
em. Giúp các em biết lựa chọn và đưa các vấn đề trong cuộc sống vào làm nền cho
đề toán của mình.
- Tổ chức cho học sinh tìm dữ kiện còn thiếu hay các dữ kiện thừa trong
các bài toán.
Việc làm này không những củng cố, khắc sâu cách giải các dạng toán mà còn
có tác dụng rất tốt trong việc phát triển tư duy cho học sinh. Bước đầu hình thành ở
các em cách tư duy của một nhà phát minh nhà khoa học trong tương lai.
Thứ tư: Những kinh nghiệm trong việc mở rộng phát triển và nâng cao
kiến thức.
Việc mở rộng và nâng cao kiến thức phải trên cơ sở HS đã nắm chắc các kiến
thức cơ bản. Biết sử dụng các kiến thức cơ bản một cách linh hoạt, sáng tạo. Biết
kích thích, gợi mở để các em có nhu cầu vận dụng kiến thức đó. Có như vậy việc
nâng cao kiến thức mới thực sự phát huy được hiệu quả cao.
- Trước khi dạy mỗi dạng bài, GV cần cho học sinh ôn tập và hệ thống lại các
kiến thức cơ bản có liên quan để việc tiếp thu bài của HS đạt được hiệu quả cao.
Phải giúp HS hiểu sâu và biết cách sử dụng thành thạo các kiến thức đó.
- Khi phát triển, mở rộng và nâng cao kiến thức cho HS, GV cần xuất phát từ

các bài toán đơn giản, dễ hiểu. Qua mỗi bài, hay hệ thống bài, GV cần cho học sinh
khái quát chung được cách giải. Giúp các em hiểu sâu, nhớ lâu và hình thành kĩ
năng giải các bài toán đó.
- Cần khai thác triệt để các dạng toán quen thuộc ẩn chứa trong mỗi bài toán,
giúp HS có kĩ năng biến đổi hay kĩ năng suy luận để đưa bài toán về dạng quen
thuộc. Phát huy tối đa khả năng tìm tòi, sáng tạo của các em trước mỗi bài toán.
Hạn chế tối đa việc sử dụng phương pháp đại số khô cứng.
- Khi học sinh đã nắm chắc cách giải thông thường, GV nên khuyến khích
HS tìm nhiều cách giải khác, nhằm phát huy khả năng của các em, gây hứng thú
học tập, HS học tốt không mất thời gian chờ đợi những học sinh học chậm hơn .
- GV cần thiết kế được các bài tập phù hợp cho các đối tượng HS trong lớp,
sao cho nội dung dạy học vừa sức, không bị quá tải song vẫn phát huy được khả
năng sáng tạo và năng khiếu của HS.
Thứ năm: Những lưu ý khi tổ chức kiểm tra đánh giá học sinh
Đánh giá HS là một khâu rất quan trọng nhằm:
7

7


Nắm được năng lực tiếp thu bài của học sinh trong lớp để đặt ra yêu cầu học
tập đối với từng HS: yêu cầu cao hơn đối với HS trên chuẩn, yêu cầu ở mức độ cơ
bản đối với HS đạt chuẩn và dưới chuẩn kiến thức kĩ năng. Thu thập thông tin phản
hồi về cách dạy của GV để điều chỉnh sao cho phù hợp, bổ khuyết những điểm yếu
của HS. Có nhiều phương pháp đánh giá kết quả học tập của HS, phương pháp
đánh giá nào cũng có ưu điểm và nhược điểm, không có phương pháp nào là hoàn
hảo mọi mặt, do đó không nên cực đoan đề cao hoặc bác bỏ một phương pháp nào
mà phải nghiên cứu chúng thấu đáo để sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.
Trong quá trình dạy học GV cần sử dụng nhiều phương pháp đánh giá một
cách đa dạng như:

- Sử dụng bài kiểm tra tự luận. Dạng bài kiểm tra này có rất nhiều ưu điểm
nên được sử dụng phổ biến. Để được điểm cao học sinh phải giải được bài toán,
đồng thời phải biết trình bày bài giải, nghĩa là các em phải thể hiện nhiều kĩ năng.
Tuy nhiên dạng bài này cũng có những nhược điểm nhất định việc đánh giá phụ
thuộc phần nào vào ý nghĩ chủ quan của GV, tốn nhiều thời gian cho việc chấm bài
của GV, phạm vi kiến thức được kiểm tra không được nhiều.
- Sử dụng bài kiểm tra trắc nghiệm: Khác với các bài tập tự luận, khi trình
bày bài giải đòi hỏi HS phải có sự lập luận chặt chẽ, câu trả lời và phép tính phải
hợp lý, trình bày một cách lô gíc. Các bài tập trắc nghiệm chỉ đòi hỏi HS vận dụng
các kiến thức đã học một cách sáng tạo và nhanh nhạy để tìm ra đáp số đúng, đáp
số sai hay bài giải đúng, bài giải sai. Giúp cho giáo viên trong một thời gian ngắn
có thể kiểm tra được nhiều kiến thức của học sinh. Chính vì vậy loại bài tập này rất
thu hút sự nhiệt liệt hưởng ứng của HS, nó là một hình thức thay đổi không khí giờ
học toán và góp phần rất tốt trong việc tạo hứng thú học tập cho HS.
- GV cần sử dụng nhiều công cụ đánh giá khác nhau để có thể đánh giá đúng
HS một cách khách quan: Kiểm tra vấn đáp, kiểm tra viết (Gồm kiểm tra ngắn,
kiểm tra một tiết). Trong các bài kiểm tra viết cần kết hợp cả bài tập trắc nghiệm và
bài tập tự luận, các bài tập cần sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó và có đủ loại bài
đại diện cho các kiến thức kĩ năng cơ bản nhất.
- GV cần vận dụng cách đánh giá theo nhiều chiều: GV đánh giá học sinh,
học sinh đánh giá lẫn nhau và nêu cao ý thức tự đánh giá ở mỗi học sinh.
3.1.2.2. Một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện để cải tiến phương
pháp dạy học trong môn toán 5
a. Cải tiến phương pháp dạy:
* Dạy học hình thành khái niệm :
Các khái niệm toán ở Tiểu học học chủ yếu được hình thành dưới dạng biểu
tượng nhờ các hình vẽ trực quan, các hình ảnh thực tế. Các khái niệm: số tự nhiên,
các phép tính, các hình học, các đại lượng… không được trình bầy đầy đủ như
trong lí thuyết toán mà được giới thiệu qua những đối tượng, những ví dụ cụ thể.
Các khái niệm được giới thiệu làm cơ sở, phương tiện để dạy tính toán và rèn kĩ

8

8


năng cho học sinh. Khi dạy các khái niệm giáo viên chỉ cần mô tả chân thực để học
sinh có biểu tượng đúng về khái niệm, không nên sa vào trình bầy khái niệm một
cách tỉ mỉ, quá chặt chẽ làm học sinh khó hiểu. Nên có vật thực hoặc vật thay thể
đúng kích thước để giới thiệu và xây dựng biểu tượng đúng cho HS.
Ví dụ: Khi dạy về đơn vị đo thể tích (m3, dm3, cm3)
GV cho HS quan sát mô hình bằng
bìa cát tông có kích thước đúng như
thật, kết hợp với bộ thiết bị dạy toán
5 đã có để HS có biểu tượng rõ nét: m3
rất lớn, dm3 nhỏ, cm3 rất nhỏ. HS sẽ ước
lượng được ở trong đầu mỗi đơn vị
bằng tầm nào.

m3

dm3

 cm3
*Dạy kĩ thuật tính toán:
Mục tiêu cơ bản của môn toán tiểu học là hình thành và rèn luyện kĩ năng
tính toán 4 phép tính số học cho HS để làm cơ sở cho các tính toán sau này.
Tôi phân loại HStheo trình độ để dạy học theo từng đối tượng HS cho phù
hợp.
- Với đối tượng HS đạt chuẩn, dưới chuẩn:
Để làm tính, HS phải hiểu đúng các phép tính và nắm vững kiến thức cơ bản.

GV phải hướng dẫn học sinh xây dựng các kiến thức kĩ càng để HS hiểu rõ bản
chất từ đó nhớ lâu và vận dụng một cách thành thạo. Mỗi phép tính, mỗi dãy tính
có những quy tắc phải tuân theo một cách nghiêm ngặt không cần giải thích nhiêù.
GVcó thể dùng các phản ví dụ minh hoạ để khắc sâu chú ý của HS.
Ví dụ: Tính:

200 + 140 x 30 = ?

Lời giải đúng: 200 + 140 x 30
= 200 + 4200
= 4400
Lời giải sai:

200 + 140 x 30
= 340 x 30
= 10200

(sai vì làm phép cộng trước)

GV củng cố cho các em thứ tự thực hiện phép tính trong biểu thức: Nhâ nchia trước, cộng - trừ sau; nếu có dấu ngoặc thì làm trong ngoặc trước, thứ tự thực
hiện phép tính trong ngoặc cũng như vậy.
9

9


Phải lựa chọn hệ thống bài tập phong phú để HS có điều kiện rèn luyện kĩ
năng, nhằm mục đích tính đúng, tính nhanh theo cách thuận tiện nhất.
Bên cạnh việc rèn luyện năng lực sử dụng các quy tắc giải các bài tập toán,
một nhiệm vụ không kém phần quan trọng đó là giúp các em phát huy trí tuệ để

nhìn ra mối quan hệ giữa các đại lượng tham gia vào bài toán cũng như mối quan
hệ giữa các thành phần trong một phép tính.
-

Với đối tượng HS chuẩn+trên chuẩn:

Theo chủ chương chung của Đảng và Nhà nước xoá bỏ trường chuyên lớp
chọn thì trong một lớp HS có rất nhiều trình độ khác nhau nên việc bồi dưỡng HS
trên chuẩn là phải lồng ghép ngay tại lớp. Việc phát huy trí tuệ của HS thông qua
từng bài, từng chương để khắc sâu kiến thức cho các em sao cho phù hợp với lí
thuyết các em vừa học là rất quan trọng. Khi dạy về chương phân số ở lớp 5, trong
giờ luyện tập cộng trừ các phân số khác mẫu tôi cho HS chuẩn+trên chuẩn làm bài
tập sau:
+Tính tổng sau bằng hai cách:

1 1 1
1
1
+ + +
+
2 4 8 16 32

- Giáo viên hướng dẫn HS bằng các câu hỏi:
+ Tổng trên có mấy số hạng ? (5 số hạng)
+ Các phân số đều khác mẫu, em có nhận xét gì về các mẫu đó? (dựa vào
phần chú ý VD2 khi cộng các phân số khác mẫu)
- Cách 1: Học sinh đều làm được và biết dựa vào phần chú ý như sau:
1× 16 + 1× 8 + 1× 4 + 1× 2 + 1 31
=
32

32

GV kết luận cách thứ nhất các em đều làm đúng, còn cách thứ hai thì HS
chưa xác định được. Sau đó GV hướng dẫn HS thấy rõ mối quan hệ của hai số hạng
liền nhau: "Số hạng liền sau bằng bao nhiêu phần số hạng liền trước nó?" và hướng
dẫn các em tách các phân số thành một hiệu, sao cho chúng triệt tiêu lẫn nhau. Từ
đó các em lập thành biểu thức mới có giá trị bằng biểu thức đã cho:
- Cách 2:
1 1 1
1
1
+ + +
+
2 4 8 16 32

=
1−

10

1 1 1 1 1 1 1
1
1
1 32 − 1 31
+ − + − + − + −
= 1−
=
=
2 2 4 4 8 8 16 16 32
32

32
32

10


GV cho HS ghi những điều cần ghi nhớ về cộng các phân số có quy luật.
Dựa vào bài tập đã được phân tích và hướng dẫn, GV cho HS lấy ví dụ về
cộng các phân số có quy luật như ở trên, các em đã lấy được nhiều ví dụ đa dạng:
*
1
1
1
1
+
+
+
9 18 36 72

*

*

1
1
1
1
1
+
+

+
+
8 16 32 64 128

1 1
1
1
1
1
+ +
+
+
+
3 6 12
24
48 96

Và học sinh giải bằng hai cách khác nhau đều chính xác. Sau đó, tôi đưa ra
cho học sinh một biểu thức khác, cho học sinh tính:
1
1
1
1
1
+
+
+ ...... +
+
2
4

8
64
128

GV hướng dẫn HS : "Tổng trên có bao nhiêu số hạng?" "Em có tính được
tổng trên không?" "Có tính được tổng trên bằng cách 1 được không?" (không) "Vì
sao?" "Tổng trên tính được theo cách nào?" (cách 2)
Sau đó cho HS tiến hành làm rồi chữa bài, sửa bài. Các em đều làm tốt.
Ở lớp 5, các bài toán đố trong chương phân số rất ít, tôi cho học sinh làm bài
toán theo tóm tắt sau:
Giờ đầu:

1
3

bể

Hỏi: a) Sau 2 giờ vòi chảy được mất phần bể?

2
3
b) Nếu dùng hết

Giờ thứ hai:

bể

số nước đó thì số nước

1

Sau khi hướng dẫn, tôi cho HS làm bài, các em đều giải như sau:
2

Phân số chỉ lượng nước chảy được trong hai giờ là:
1 1 5
+ =
3 2 6

11

(bể)

11


Sau khi dùng hết

5
2
1

=
6
3
6

2
3

số nước đó, phân số chỉ lượng nước còn lại là:


(bể)

Như vậy khi làm phần b của bài toán trên, các em không biết đưa về kiến
thức lớp 4 đã học, đó là: "Tìm giá trị phân số của một số". Sau đó tôi hướng dẫn
một số ví dụ mà số đó là số tự nhiên thì các em đều làm được:
Ví dụ:

hay:

3
4

2
5

của 72. Các em đều xác định là:
72 ×

của 40 là:
40 ×

3
= 54
4

2
= 16
5


Cho HS rút ra kết luận về tìm giá trị phân số của một số: ta lấy số đó nhân
với phân số.
Từ đó hướng dẫn HS tìm giá trị phân số của một số mà số đó là phân số,
như: của
các em vận dụng và làm được:
.
4
5

1 4 4 2
× =
=
2 5 10 5

1
2

Cho học sinh tự lấy thêm một số ví dụ rồi giải. Sau đó giáo viên hướng dẫn
cho các em vận dụng làm phần b bài tập trên:
- Muốn xem số nước sau khi dùng còn lại mấy phần bể, trước hết ta phải tìm
gì? (tìm lượng nước đó).
2
3

- Tìm được số nước đã dùng, các em có tìm được số nước còn lại bằng mấy
phần bể không?
Các em đều làm được:
Phân số chỉ lượng nước đã dùng là:

12


5 2 10 5
× =
=
6 3 18 9

12

(bể)


Phân số chỉ lượng nước còn lại là:

5 5 5
− =
6 9 18

(bể)

Ta thấy học sinh vận dụng kiến thức rất linh hoạt và nắm bài một cách dễ
dàng.
*Dạy giải các bài toán:
Khả năng giải toán là thước đo năng lực toán học của HS, GV phải phân loại
các bài toán và hệ thống hoá các phương pháp giải đối với mỗi loại. Với mỗi bài
toán mẫu, GV hướng dẫn tỉ mỉ, chi tiết để học sinh nắm vững, trên cơ sở đó mở
rộng và sáng tạo thêm. GV hướng dẫn các bước giải như sau:
- Đọc kĩ đầu bài, xác định các yếu tố của bài toán.
- Biểu diễn bằng sơ đồ các yếu tố (sơ đồ đoạn thẳng, sơ đồ ven, sơ đồ
khối…)
- Thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố qua biểu thức số.

- Tính giá trị biểu thức.
- Kiểm tra lại và trả lời.
Ví dụ: Tìm X:
95 - X = 25
Hướng dẫn HS thực hiện các bước:
+ Phép tính trong biểu thức là phép tính gì?
+ Số chưa biết (X) là thành phần gì trong phép tính?
+ Tìm thành phần số đó như thế nào?
+Thực hiện tính kết quả ?
b. Cải tiến một số hình thức dạy học:
Trong quá trình dạy học một đơn vị kiến thức có thể tổ chức hoạt động dạy
học trong cả lớp hoặc dạy học theo nhóm; dạy học cá thể hoá từng học sinh…Khó
có thể đưa ra một lời khuyên, một chỉ dẫn chung khi nào được tổ chức dạy học cả
lớp, khi nào theo nhóm… Việc chọn hình thức tổ chức dạy học nào cho phù hợp
phải căn cứ vào nội dung kiến thức, trình độ học sinh, điều kiện dạy học hiện có…
Nói cách khác chỉ có người GV mới đưa ra cách lựa chọn phù hợp nhất.
Song để góp phần rèn luyện tinh thần tự chủ của HS, tạo ra cơ hội để HS hoà nhập
cộng đồng, tạo điều kiện để HS phát huy hết khả năng độc lập suy nghĩ cuả mình
theo hướng phân hoá trong dạy học. Tôi mạnh dạn đưa ra một số hình thức dạy học
sau:
13

13


* Dạy học theo nhóm:
Chỉ nên dạy theo hình thức nhóm cộng tác, nhóm chia sẻ không nên dạy hình
thức nhóm công nhận.
Quy trình tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm:
- Bước 1: Hình thành các nhóm: (Theo cách chia nhóm như là: nhóm theo tổ,

theo bàn, theo số, theo sở thích, theo trình độ để giáo viên dễ uốn nắn và bổ xung lỗ
hổng kiến thức cho học sinh ,…)
- Bước 2: Cử nhóm trưởng: (Mỗi nhóm cử một nhóm trưởng do GV cử, hoặc
do tổ tự bầu ra).
- Bước 3: Giao và nhận nhiệm vụ: GV giao việc cho các nhóm và nhóm
trưởng cần nói rõ yêu cầu về nội dung công việc và thời gian thực hiện.
- Bước 4: Các nhóm làm việc: Nhóm trưởng điều khiển nhóm hoạt động, mỗi
thành viên trong nhóm đều phải hoạt động không được ỷ lại vào nhóm trưởng và
các thành viên khác trong nhóm, cần suy nghĩ độc lập trước khi trao đổi giúp đỡ
nhau. GV theo dõi giúp đỡ các nhóm trưởng và giải quyết thắc mắc của các nhóm
nếu có.
- Bước 5: Các nhóm trình bày: Cử một hoặc một vài đại diện (không nhất
thiết phải là nhóm trưởng) trình bày kết quả làm việc của nhóm mình trước tập thể,
cả lớp tìm hiểu công việc của nhóm khác.
- Bước 6: Các nhóm trình bày xong cuối cùng tổng hợp và kết luận.
GV tổng hợp ý kiến của các nhóm và kết luận nhằm xác định sự đúng sai và
động viên khuyến khích học sinh.
Việc dạy học theo nhóm cũng có nhiều thế mạnh song nếu tổ chức không tốt
thì cũng dẫn đến chất lượng và hiệu quả thấp. Ví dụ: Nếu để nhóm đông quá thì
giáo viên khó có thể kiểm soát được hoạt động học tập của tất cả các nhóm. Nếu
lạm dụng chia nhóm vào những lúc không cần thiết thì mất thời gian vô ích, nếu tổ
chức hoạt động theo nhóm để rồi học sinh chỉ biết phần việc của nhóm mình được
giao thì cuối tiết học kiến thức của bài học trở lên thành một mảnh chắp vá trong
đầu học sinh. Vì thế, ngoài hình thức dạy học nói trên còn có thể sử dụng hình thức
dạy học khác.
* Dạy học cá thể hoá hoạt động học của HS :
Hình thức này có ưu điểm là phát huy tính độc lập suy nghĩ của từng học
sinh trong quả trình dạy học:
Quy trình dạy học cá thể hoá hoạt động học của từng học sinh thường được
điều hành qua các bước sau:


14

14


- Bước 1: Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị sẵn các phiếu bài tập, các tình huống
vào phiếu bài tập.
- Bước 2: Giao và nhận nhiện vụ : Giáo viên nêu yêu cầu phát cho mỗi em
một tờ phiếu đã chuẩn bị.
- Bước 3: Học sinh suy nghĩ trả lời theo yêu cầu của phiếu (ở phần để trống)
- Bước 4: Học sinh trình bày sản phẩm của mình. Học sinh khác nhận xét.
- Bước 5: Tổng hợp và kết luận.
Học sinh tự đánh giá mình, đánh giá bạn.
Giáo viên nhận xét ý kiến trình bày của học sinh - kết luận xác định đúng sai.
* Dạy học cả lớp:
Cần chú ưý cách đặt câu hỏi cho phù hợp: việc thiết kế hệ thống câu hỏi
trong dạy toán là rất quan trọng. Câu hỏi có thể được dùng trong đàm thoại, khi vấn
đáp phát hiện vấn đề có tính chất toán học, khuyến khích học sinh suy nghĩ, tìm tòi,
khám phá, sáng tạo,…
Tránh dùng những câu hỏi đóng có dạng câu trả lời là đúng hoặc sai (có hoặc
không,…), VD: "35 chia cho 5 bằng mấy?".
Nên dùng những câu hỏi mở, học sinh có thể đưa ra nhiều câu trả lời và câu
trả lời chi tiết hơn, VD: "Có bao nhiêu bạn được nhận 3 cái kẹo từ gói kẹo này?";
Đặt câu hỏi có vấn đề tạo tình huống toán học cho HS phải suy nghĩ; câu hỏi để gợi
ý cho HS dự đoán nhờ nhận xét trực quan và thực nghiệm; lật ngược vấn đề; xem
xét tương tự; khái quát hoá; phát hiện nguyên nhân và cách sửa sai,…
*Ứng dụng công nghệ cao trong dạy học:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng các phương tiện hiện đại
trong dạy học một cách phù hợp là rất cần thiết vì nó giúp học sinh hứng thú học

tập, ham tìm tòi khám phá, sáng tạo. Trong môn Toán có những nội dung mang tính
chất áp đặt hoặc khó hiểu, tôi dùng đồ hoạ máy tính cắt ghép hình, mô phỏng, tổ
chức trò chơi,… giúp HS dễ dàng tiếp thu kiến thức, hạn chế được áp đặt hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học là thiết kế hệ thống làm việc của học sinh thay
cho lời nói của thầy. Trong thiết kế đó lôgíc kiến thức là nhân tố khách quan tạo ra
sự thống nhất chung cho mọi người, sự sáng tạo của gv cũng phải tuân theo lô-gíc
khách quan đó.
Đổi mới phương pháp dạy học toán là tìm ra công nghệ dạy học cho một
kiến thức toán để GV thực sự là người tổ chức hướng dẫn hoạt động học cuả học
sinh qua hệ thống làm việc được thiết kế. HS giành được kiến thức bằng chính hoạt
động của mình .
15

15


Đổi mới phương pháp dạy học Toán phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như là :
Cơ sở vật chất ( phòng học, bàn ghế, thư viện - Thiết bị dạy học…), trình độ nhận
thức của HS . Ngoài những yếu tố trên thì GV vẫn là yếu tố quan trọng nhất quyết
định yếu tố dạy học.
*Sử dụng và kết hợp, hợp lý các phương pháp dạy học phù hợp với từng đối
tượng học sinh:
Ví dụ: Khi các em không nhớ được cách làm, khi đó chúng ta cần nhẹ nhàng
hướng dẫn kĩ cho các em từng bước, từ cách ước lượng để chia, nguyên tắc cộng,
trừ, nhân, chia phân số
Chẳng hạn: cộng hai phân số:

2 3
+
3 4


2 3 2+3 5
+ =
=
3 4 3+ 4 7

Có em làm:
, có em khác lại lấy tử số nhân tử số, mẫu số
nhân mẫu số, như vậy các em này đã nhầm sang nhân, chia phân số. Lúc này phải
cho các em ôn lại các quy tắc cộng, trừ, nhân, chia phân số. Tập cho HS làm lại
nhiêu lần để HS nhớ và vận dụng được.
- Khuyến khích từng HS chủ động và tích cực hoạt động học tập đem lại kết
quả cao nhất cho từng HS:
Đối với những em dưới chuẩn Toán, tôi không nên khắt khe đòi hỏi các em
làm những bài tập quá sức, mà ra bài tập vừa sức các em làm được để các em có
niềm tin trong học tập, lúc đó giáo viên khen ngợi kịp thời và tăng bài tập ở mức
học sinh trung bình có thể làm được. Như vậy giao việc cho HS từ dễ đến vừa sức.
Ví dụ: Khi dạy các em về tính diện tích hình tam giác giáo viên cần cho học
sinh chuẩn bị hai hình tam giác nhỏ bằng nhau (bằng giấy) và kéo để các em cắt
hình theo hướng dẫn của GV:
+ Lấy một trong hai hình tam giác bằng nhau.
+ Vẽ một đường cao lên hình tam giác đó.
+ Cắt theo đường cao, được hai mảnh tam giác ghi là 1 và 2.
+ Ghép hai mảnh 1 và 2 vào hình tam giác còn lại để thành một hình chữ
nhật ABCD. Sau đó GV gợi ý để HS tự nhận ra: Diện tích hình chữ nhật ABCD
chính là diện tích của hai hình tam giác bằng nhau các em đã chuẩn bị. Từ đó các
em tự tìm ra được quy tắc và diện tích tính hình tam giác. Sau khi các em nắm được
bài, giáo viên ra bài tập cho các em từ dễ dến vừa sức.
Chẳng hạn: Tính diện tích hình tam giác biết:
+ Độ dài đáy là 5 cm và chiều cao là 6cm

16

16


+ Độ dài đáy là 42,5cm và chiều cao là 5,2cm.
+ Độ dài đáy là 30,5dm và chiều cao là 1,2m.
Ở câu thứ ba, phải hướng dẫn học sinh rút ra được: cần phải đổi cho độ dài
đáy và chiều cao có cùng một đơn vị đo rồi mới tính diện tích được.
- Khơi dậy tính tò mò và năng lực của từng HS qua các hoạt động học tập
nhằm khám phá để có được những hiểu biết theo bài học:
Trong quá trình giảng dạy, chuẩn bị các đồ dùng trực quan đẹp, phù hợp với
nội dung bài để HS hứng tú học tập, cần liên hệ thực tế và mở rộng kiến thức để
các em áp dụng vào cuộc sống hằng ngày.
Ví dụ: Khi dạy về hỗn số, cần có mảnh bìa hình tròn, hình vuông hoặc quả
cam để chia các phần bằng nhau. Khi dạy về đơn vị đo khối lượng cần có cân, các
bài toán có lời văn thì có hình ảnh minh họa…
- Coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học:
Trong quá trình dạy học, tôi luôn tổ chức, hướng dẫn và mọi HS đều được
hoạt động và phát triển. Điều cần chú ý là tôi tránh nói nhiều không làm thay học
sinh.
Ví dụ: Khi dạy về Diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình lập
phương thì giáo viên không nên áp đặt học sinh mà cần đưa mô hình trực quan,
giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát nhận xét rút ra kết luận : hình lập phương là
hình hộp chữ nhật đặc biệt (có 3 kích thước bằng nhau). Học sinh tự rút ra kết luận
về công thức tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình lập phương
sau đó áp dụng công thức để làm bài tập.
- Thường xuyên kiểm tra kiến thức cũ, truy bài đầu giờ: Đến lớp trước 15
phút để kiểm tra. Ví dụ: Trước buổi học các em tự ôn bài, truy bài . Chẳng hạn hôm
nay tiết Toán học bài Phép cộng số thập phân thì trước buổi học đó các em truy bài,

ôn bài về cách cộng hai số tự nhiên có nhiều chữ số để khi tiếp thu kiến thức mới
các em đã nắm vững kiến thức cũ, có như vậy các em mới hiểu bài, tiết dạy mới
thành công.
- Chia nhóm, phân công bạn học tốt kèm bạn đuối hơn.
“ Học thầy không tày học bạn”. Để các em HS gần gũi nhau và giúp nhau
cùng tiến bộ, xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, GV phân công, chia nhóm
cho các em học tập ở lớp cũng như ở nhà.
- Dành thời gian, giảng giải kiến thức cũ mà học sinh chưa nắm vững:
Muốn tiếp thu kiến thức mới thì HS phải nắm vững kiến thức cũ. Qua các
buổi phụ đạo hàng tuần ôn tập và củng cố kiến thức cũ cho các em về đọc, viết số
thập phân, các phép tính với số tự nhiên, phân số, số thập phân và giải toán có lời
17

17


văn các dạng toán điển hình, các dạng toán về tỉ số phần trăm, toán về chu vi, diện
tích các hình…
Ví dụ: khi phụ đạo cho các em về đọc, viết số thập phân: hỏi học sinh: số
thập phân gồm mấy phần? Là những phần nào? Được sắp xếp ở vị trí thế nào? Học
sinh trả lời theo hiểu biết của các em. Sau đó nói cho học sinh rõ: Phần nguyên
cũng như số tự nhiên trước đây đã học: các chữ số được sắp xếp từ phải sang trái,
kể từ dấu phẩy là các chữ số hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn…
Phần thập phân: kế từ dấu phẩy, các chữ số được sắp xếp từ trái sang phải là các
chữ số hàng phần mười, hàng phần trăm, hàng phần nghìn…
Ví dụ: Có số thập phân 123,456 thì: Phần nguyên gồm có: 1 trăm 2 chục 3
đơn vị. Phần thập phân gồm có: 4 phần mười, 5 phần trăm, 6 phần nghìn. Đọc là:
Một trăm hai mươi ba phẩy bốn trăm năm mươi sáu.
Cho HS đọc số thập phân, nêu phần nguyên, phần thập phân và giá trị vị trí
của mỗi chữ số ở từng hàng, rồi sau đó cho các em viết số thập phân. Khi thầy giáo

đọc: Một trăm hai mươi ba đơn vị, các em viết 123. Sau số này các em đánh dấu
phẩy. Khi thầy đọc tiếp 4 phần mười, các em viết số 4; 5 phần trăm các em viết số
5; 6 phần nghìn các em viết số 6. Cuối cùng, ta được số thập phân 123,456.
- Đối với những HS tiếp thu bài nhanh, tôi thường giao thêm những bài tập
nâng cao để các em thực hiện vào cuối giờ học, hay giờ ra chơi. Các em có thể thảo
luận, trao đổi với nhau. Khi ôn bài cho đối tượng học sinh này tôi thường ôn theo
từng mạch kiến thức, các dạng toán nâng cao. Chú ý để các em phát hiện ra vấn đề
và giải quyết vấn đề. Sau đó tôi mới chốt lại kiến thức và khắc sâu thêm cho các
em.
- Tổ chức cho HS ôn tập, củng cố kiến thức từng chương qua các trò chơi:
Hình thức ôn tập này, giúp các em ôn tập, củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng,
hứng thú và hiệu quả. Tôi thường tổ chức cho các em học Toán “ Vui – học, Học –
vui” qua các trò chơi sau: Trò chơi “ Hái hoa dân chủ”, Trò chơi “ Chọn số”, Trò
chơi “Xem ai nhớ nhất”, Trò chơi “ Mặt xanh mặt đỏ”, Trò chơi “ Ai nhanh, ai
đúng”… Học Toán qua các trò chơi, HS tham gia sôi nổi, hào hứng và có sự tiến bộ
rõ rệt. Ví dụ: Trò chơi “ Hái hoa dân chủ” dùng để ôn tập cho HS sau mỗi chương
học. Hình thức ôn tập này, câu hỏi và bài tập là những kiến thức các em đã học, HS
lần lượt lên hái hoa (có ghi nội dung câu hỏi hoặc bài tập) học sinh trả lời đúng nội
dung câu hỏi, cả lớp và thầy cô vỗ tay khen ngợi. Hình thức ôn tập này giúp các em
ôn tập, củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú và hiệu quả. Trong một tiết
học đều cho tất cả các em hoạt động bằng nhiều cách để lôi cuốn các em tham gia
vào hoạt động học, tránh tình trạng để học sinh ngoài lề.
18

18


* Ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy:
- Cải tiến phương pháp dạy học:
+ Dạy học hình thành khái niệm: Các khái niệm như số tự nhiên, các phép

tính, các hình học, các đại lượng... Khi dạy chỉ cần mô tả chận thực để học sinh có
biểu tượng đúng về khái niệm. Phải có đồ dùng trực quan cho học sinh quan sát. Ví
dụ khi dạy đơn vị đo thể tích, tôi cho các em quan sát mô hình bằng bìa thật, đúng
kích thước, kết hợp thiết bị dạy toán 5.
+ Dạy kĩ thuật tính
Ví dụ: Thực hiện phép chia một số thập phân cho một số thập phân, tôi nhấn
mạnh cho học sinh ba thao tác: "đếm, chuyển, gạch"
+ Dạy giải các bài toán
Tôi luôn nhắc các em đọc kĩ đề, xác định các yếu tố của bài toán. Phân tích
nội dung bài toán. Tóm tắt bài toán. Thiết lập trình tự giải.
- Cải tiến một số hình thức dạy học
+ Dạy học theo nhóm
+ Dạy học cá nhân
+ Dạy học cả lớp
* Qua một thời gian áp dụng giảng dạy môn toán theo các biện pháp trên, đến
nay tôi thống kê kết quả đạt được như sau:
Kết quả kiểm tra định kì giữa kì I (20 học sinh )
- Tổng số: 20 học sinh
- Giỏi:
1/20 = 5 %
- Khá:
6/20 = 30 %
- Trung bình: 9/20 = 45 %
- Yếu:
4/20=20%
Kết quả kiểm tra định kì cuối kì I (20 học sinh )
- Tổng số: 20 học sinh
- Giỏi:
3/20 = 15%
- Khá:

10/20 = 50%
- Trung bình: 5/20 = 25 %
- Yếu:
2/20= 10%
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đánh dấu bước
thành công là làm cho học sinh có kĩ năng thực hiện học tập tốt môn Toán, giúp các
em tự tin hơn trong các môn môn học khác. Do vậy, từ nay đến cuối năm học tôi
luôn cố gắng phát huy, tìm tòi và vận dụng phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi
đạt chất lượng tốt hơn.
3.2. Khả năng áp dụng, nhân rộng
19

19


Sáng kiến kinh nghiệm đã được áp dụng ở học sinh lớp 5B, trường Tiểu học
Trường TH xã Bằng Hữu và có khả năng nhân rộng trên địa bàn huyện Chi Lăng,
tỉnh Lạng Sơn để tất cả các em đều được học tập. Sáng kiến đã mang lại cho học
sinh sự say mê, tìm tòi và sáng tạo, giúp học sinh biết tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến
thức.
3.3. Hiệu quả
a) Hiệu quả kinh tế:
Sáng kiến đã mang lại cho học sinh sự say mê, tìm tòi và sáng tạo, giúp học
sinh biết tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức. Không tốn kem về tiền bạc của nhà
trường, giáo viên và học sinh.
b) Hiệu quả về mặt xã hội
Bản thân luôn trao đổi với các đồng nghiệp trong trường và các trường bạn,
phối hợp với phụ huynh. Học sinh được trao đổi, thảo luận, được tự đánh giá và
tham gia đánh giá bạn.
Trên đây là nội dung mô tả sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất

lượng dạy học môn Toán lớp 5B, trường Tiểu học xã Bằng Hữu” của bản thân
tôi. Tuy bước đầu đã thu được những kết quả nhất định song không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Tôi kính mong nhận được sự đóng góp, bổ sung của
các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để Đề tài này được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

CAM ĐOAN VỀ SÁNG KIÊN

Linh Xuân Phú

20

20



×