Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý hạ tầng giao thông ở Việt Nam dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.49 KB, 10 trang )

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ QUẢN LÝ 
HẠ TẦNG GIAO THÔNG Ở VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA 
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Từ  20­23/01/2016 tại Hội nghị  Diễn đàn kinh tế  thế  giới năm 2016  
tổ chức ở Davos (Thụy Sĩ), một trong những nội dung quan trọng được đề 
cập là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số  tác động có thể 
có của nó đến sự  phát triển của loài người. Cuộc cách mạng công nghiệp  
lần thứ tư  (hay còn gọi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0) được mang đầy 
đủ  các đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp trước khi nó được 
dựa trên những phát minh về  tư  liệu sản xuất làm thay đổi căn bản cách 
thức con người tác động vào đối tượng sản suất và làm thay đổi căn bản  
nền sản xuất xã hội. Đồng thời, nó có những đặc tính riêng mà các cuộc  
cách mạng trước đó không có. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cuộc cách  
mạng này là một loạt công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực 
vật lý, số  hóa và sinh học, làm thay đổi căn bản giữa đời sống thế  giới 
thực, ảo và sinh vật. Cụ thể:
Những tiến bộ căn bản trong thế giới thực chính là sự phát triển của  
các thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D, rô bốt hiện đại và vật liệu mới. 
In 3D được phát triển từ những năm 1990 đến nay ngày càng phổ  biến và  
mang tính thương mại nhờ  sự  phát triển của vật liệu mới và công nghệ 
thông tin.
Thế giới số hay thế giới ảo ngày càng có khả năng tương tác với thế 
giới thực nhờ phát triển của Internet of Things ­ IoT (Mọi vật Kết nối) và 
sự  ra đời của các cảm biến hiện đại đã hiện thực hóa khả  năng tự  động 
của máy móc, chúng có thể  thay thế  hoạt động cơ  học và trí tuệ  của con  
người. Khi đó, một thế  giới chạy bằng robot và máy tính với trí tuệ  nhân  
tạo có thể  phát triển tới mức thay thế  con người trong việc phán đoán và 
quản lý các hệ  thống phức tạp. Ví dụ, máy móc có thể  lên chương trình 


viết phần mềm để  giải quyết những nhu cầu nhất định của con người; 


người máy có thể chẩn đoán được bệnh tật,...
Trong thế giới sinh vật việc xây dựng biểu đồ  gene ngày càng tốn ít 
nguồn lực tài chính và thời gian, ứng dụng của biểu đồ gene ngoài phục vụ 
chữa bệnh còn được sử  dụng để  tạo ra các loại thực vật làm nguyên liệu  
để có thể tạo ra năng lượng tái tạo thay thế năng lượng truyền thống hiện  
nay.
Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  trước  
mắt đem lại những cơ hội và thách thức chủ yếu sau:
1) Cơ hội
­ Có điều kiện tiếp thu và  ứng dụng những tiến bộ, thành tựu công 
nghệ  của nhân loại, trước hết là công nghệ  thông tin, công nghệ  số, công 
nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất  
cả các khâu đặc biệt là quản lý ở cả nền kinh tế, hệ thống chính quyền các 
cấp, tất cả các ngành lĩnh vực, ở các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình.
­ Cơ  hội  phát  triển nhanh hơn nhiều  ngành kinh tế  và phát triển 
những ngành mới thông qua mở  rộng  ứng dụng những tiến bộ, thành tựu 
về  công nghệ  thông tin, công nghệ  số, công nghệ  điều khiển, công nghệ 
sinh học (thuộc các lĩnh vực như công nghiệp không gian, công nghiệp sáng 
tạo, công nghiệp giải trí, công nghiệp sinh học, công nghiệp quốc phòng,  
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,...).
­ Cơ hội đón đầu, hình thành và phát triển nhanh nền kinh tế tri thức,  
thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp những nước đi trước trong khu vực và thế 
giới thông qua tiếp thu, làm chủ  và  ứng dụng nhanh vào sản xuất kinh  
doanh, quản lý những tiến bộ, thành tựu công nghệ  (kể  cả  phương thức 
sản xuất, quản lý) từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đối với năng lượng tái sinh, đặc biệt là năng lượng mặt trời, năng 
lượng sinh học, Việt Nam có lợi thế đối với hai loại hình năng lượng này 


bởi chi phícủa nó không quá cao. Việc chuyển dịch cơ cấu năng lượng sẽ 

giúp Việt Nam giảm tải được áp lực về  môi trường và sự  phụ  thuộc vào 
bên ngoài đối với thủy điện, nhiệt điện, dầu khí và điện hạt nhân.
Lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ mạng xã hội, di động, phân 
tích và điện toán đám mây (SMAC) đang là xu hướng mới mẻ  của cả  thế 
giới và Việt Nam có cơ hội phát triển lĩnh vực này. Với lợi thế hiện có có  
hạ  tầng Internet tương đối tốt, giá rẻ  trong khi thiết bị  di động cấu hình 
cao, giá thấp đang trở  nên phổ  biến cũng như  sự  khuyến khích phát triển 
của chính phủ, Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ SMAC rất lớn. 
Một yếu tố thuận lợi nữa là Việt Nam có các đối tác quan trọng là các tập  
đoàn công nghệ lớn và có nhiều kinh nghiệm như Microsoft trong quá trình 
tư vấn, xây dựng, và phát triển SMAC nói chung và điện toán đám mây tại  
Việt Nam. Cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  này là một cơ  hội để  Việt 
Nam đuổi kịp các nước phát triển trong kỷ  nguyên số. Việc  ứng dụng kỷ 
nguyên số  còn cho phép chúng ta đẩy nhanh được việc  ứng dụng trí tuệ 
nhân tạo trong nhiều ngành nghề, góp phần khắc phục những khó khăn 
hiện có. Những ngành cần ứng dụng này nhất hiện nay là thương mại điện  
tử, giao thông vận tải, đo lường địa chất, hay đo lường chất lượng môi 
trường.
­ Công nghệ  sinh học, y học có tác động mạnh mẽ  đến năng suất 
cũng như  chất lượng cây trồng vật nuôi, từ  đó, tăng giá trị  gia tăng trong 
mỗi sản phẩm nông nghiệp. Việt Nam được đánh giá vẫn có lợi thế  đối 
với ngành nông nghiệp. Nếu có những sự cải cách về giống cùng cách thức 
nuôi, trồng sẽ tạo ra một nền nông nghiệp sạch với các sản phẩm có chất  
lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Đối với lĩnh vực y tế, nhiều bệnh nan y, nhất là ung thư  đang trở 
thành vấn đề sức khoẻ mang tính chất toàn cầu, gây ra những mất mát về 
người, sự tốn kém về kinh tế trong điều trị và ngăn chặn. Những công trình 


nghiên cứu của công nghệ sinh học ứng dụng thành công trong y dược, đặc  

biệt là trong sản xuất thuốc và trong chuẩn đoán bệnh là đặc biệt quan  
trọng đối với Việt Nam trong giai đoạn tới đây.
2) Thách thức
­ Thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: Với sự mở rộng ứng 
dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, điều khiển, tự  động hóa. Các 
hệ  thống robot có trí thông minh nhân tạo sẽ  thay thế  con người trong  
nhiều công đoạn hoặc trong toàn bộ  dây chuyền sản xuất nhất là trong 
những ngành sử  dụng nhiều lao động. Đây là một trong những thách thức  
lớn nhất, bởi chuyển dịch cơ cấu lao động trong gần 20 năm qua của Việt  
Nam   rất   chậm   và   chậm   hơn   nhiều   nếu   so   với   chuyển   dịch   cơ   cấu  
GDP.Nền kinh tế  Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào các ngành thâm 
dụng lao động giá rẻ. Tuy nhiên, trong xu thế  phát triển của kinh tế  tri  
thức, nguồn nhân lực có trình độ  chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo 
mới là lợi thế. Hơn thế, các công nghệ  hiện đại châm ngòi cho cuộc cách  
mạng mới trong nhiều ngành trong nền kinh tế  thế giới như công nghệ  in  
3D, robot và tự  động hóa lại sử  dụng rất ít nhân công. Các loại hình công 
nghệ  này sẽ  thách thức mô hình "sản xuất hàng loạt" bằng mô hình "tùy 
chỉnh hàng loạt" và tự  động hóa với chi phí thấp hơn. Trong tương lai, 
nhiều lao động trong các ngành nghề  của Việt Nam có thể  thất nghiệp ví 
dụ như lao động ngành nông nghiệp, dệt may, kế toán, lắp ráp và sửa chữa 
thiết bị, số lao động này hiện đang chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong lực  
lượng lao động của nước ta hiện nay. Ngoài ra, nhân lực kém cũng làm một  
cản trở về  nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ  và  ứng dụng hiệu quả  các 
công nghệ mới ở các quy mô doanh nghiệp, ngành lĩnh vực và cả nền kinh  
tế trong điều kiện xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn thấp so với  
nhiều nước.


­ Thách thức về  quản trị  nhà nước cũng là một trong những thách 
thức lớn nhất đối với nước ta. Sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 

đất nước sẽ  gặp nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ  cấu kinh tế, 
đổi mới mô hình tăng trưởng được Nhà nước đề ra thực hiện không thành 
công. Bên cạnh đó những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra  
áp lực lớn nếu Nhà nước không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản  
lý để ứng phó.
­ Các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển đều 
cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để  có đầu tư, chuyển giao  
công nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc cách 
mạng công nghiệp thứ  tư  đem lại để  giành lợi thế  phát triển. Áp lực lớn 
cho Việt Nam về sự tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát triển nền 
kinh tế thị trường nhất là thị trường khoa học công nghệ, cải thiện đổi mới  
môi trường đầu tư kinh doanh, tích lũy đầu tư để thu hút chuyển giao, ứng  
dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ  vào phát triển nền kinh 
tế.
Tại Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) ở Davos,  
Thụy Sĩ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tham dự phiên họp của 
hội nghị  về  “Quản trị vững mạnh trong cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ  4”; hội kiến với Tổng thống Ukraine Petro Poroshenco; tiếp Chủ tịch  
Ngân hàng Standard Chartered và Giám đốc điều hành tập đoàn Facebook; 
tiếp Chủ tịch phụ trách thương mại hãng truyền thông CNN. 
Tại   phiên  họp “Quản  trị   vững mạnh trong cuộc  cách  mạng công 
nghiệp lần thứ  4”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng các chính phủ 
cần nỗ lực hoàn thiện thể chế, quy định và chính sách đáp ứng các yêu cầu 
phát triển đặt ra bởi cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Đồng thời tranh thủ 
cơ hội của cách mạng công nghiệp này để giải quyết các vấn đề toàn cầu 
như  phát triển nguồn năng lượng mới, an ninh nguồn nước, nông nghiệp  


hữu cơ bền vững, ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... Thủ 
tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh Việt Nam đang tích cực triển khai  

chính sách khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, xóa bỏ  rào cản, 
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử 
10 giải  pháp quản lý giao thông đô thị  bền vững cho các nhà 
quản lý tham khảo
Thứ nhất, kiểm soát nhu cầu vận tải
Phát triển đô thị  theo định hướng giao thông công cộng là chìa khóa 
để kiểm soát và thiểu hoá nhu cầu giao thông. Quy hoạch sử dụng đất cần 
khuyến khích các chuyến đi ngắn, và phải gắn liền với đặc điểm của các 
phương thức vận tải chủ lực (vận tốc, năng lực vận chuyển).
Dọc các trục đô thị, cần tích hợp giao thông công cộng, phi cơ giới và  
quy hoạch sử dụng đất tập trung hành khách cho giao thông công cộng. Cụ 
thể, cần tăng mật độ  nhà  ở  và văn phòng, bố  trí các tuyến metro, xe buýt 
nhanh ở giữa, đường cho xe ôtô và xe buýt thường ở hai bên.
Thứ 2, kiểm soát lựa chọn phương tiện
Để chuyển từ phương tiện có nguy cơ tai nạn cao, công suất thấp (ví 
dụ như xe máy) sang phương tiện di chuyển an toàn, công suất cao (metro,  
xe buýt) cần áp dụng nguyên tắc "đồng thời làm cho các phương tiện cá  
nhân kém hấp dẫn, và các phương tiện công cộng hấp dẫn hơn”.
Một số  giải pháp là cung cấp đường đi bộ, làn xe đạp, tín hiệu  ưu 
tiên xe buýt, làn đường  ưu tiên xe buýt, xe buýt nhanh (BRT) và hệ  thống 
tàu điện metro.
Xây dựng các bãi đỗ xe công cộng tại các nhà ga, bến xe để thúc đẩy 
vận tải đa phương thức thông qua các mô hình: Park + Ride, Bike + Ride, 
mang theo xe đạp lên xe buýt hoặc tàu điện.
Thứ 3, dùng thuế, phí để kiểm soát cầu vận tải


Thuế, phí không chỉ là một công cụ  tài chính tạo nguồn thu cho duy  
tu bảo dưỡng và xây mới cơ sở hạ tầng giao thông, mà còn là công cụ hiệu 
quả nhất để kiểm soát nhu cầu.

Thế   giới   đã  áp dụng  thuế  phương tiện,  thuế  nhiên  liệu, phí   cầu 
đường, phí đỗ xe, giảm giá vé giao thông công cộng, giá vé ưu đãi cho sinh 
viên và người già.
Thu phí tắc nghẽn không những làm thay đổi sự  lựa chọn phương 
thức đi lại, mà còn tái phân bổ thời gian khởi hành của chuyến đi làm giảm 
ùn tắc.
Thứ 4, vận hành khai thác cơ sở giao thông một cách linh động
Trong khi nhu cầu giao thông thường thay đổi theo thời gian,  địa 
điểm thì năng lực của hệ  thống cơ  sở  hạ  tầng giao thông thường không  
thay đổi, nó dẫn tới tình trạng cầu vượt quá cung, gây tắc nghẽn và hủy 
hoại môi trường.
Do vậy, cần nghĩ cách vận hành cơ sở hạ tầng sẵn có một cách linh  
động phản ứng theo sự thay đổi nhu cầu giao thông.
Các ví dụ  điển hình là điều khiển đèn tín hiệu giao thông theo lưu  
lượng xe, hạn chế  tốc độ  động, biển báo lộ  trình động, dịch vụ  vận tải 
hành khách công cộng theo nhu cầu. Đồng thời, cần phối hợp linh hoạt  
giữa giao thông công cộng và giao thông cá nhân tùy thuộc thời gian và tình 
huống.
Thứ 5, thúc đẩy những dịch vụ di chuyển mới
Công nghệ thông tin (Internet, điện thoại thông minh, định vị  vệ tinh  
toàn cầu GPS) đã và đang làm thay đổi các giá trị  cuộc sống, và hành vi đi 
lại của người dân.
Nó cho phép người dùng truy cập nhanh chóng, chính xác các thông  
tin về  dịch vụ  giao thông công cộng đa phương thức, cho thuê xe ôtô, sử 
dụng chung xe, cho thuê xe đạp, chia sẻ taxi, dẫn hướng cho người đi bộ.


Uber và Grabtaxi là các dịch vụ  taxi sử  dụng công nghệ  viễn thông 
mới nhất, là một phương thức di chuyển mới hiệu quả, có thể  hỗ  trợ  để 
quản lý giao thông đô thị tốt hơn.

Thứ 6, ứng dụng giao thông thông minh (ITS)
Trong quản lý giao thông, ITS có thể giúp cải thiện dòng xe, nâng cao 
an toàn, an ninh, giảm vi phạm, cải thiện chất lượng giao thông công cộng,  
nâng cao hiện quả vận tải hàng hóa và giảm thiểu tác động môi trường.
Tính hấp đẫn của giao thông công cộng phụ thuộc vào hành khách có 
khả năng tiếp nhận thông tin luồng tuyến, giá vé, thời gian... trước chuyến 
đi, trong chuyến đi hay không. Thanh toán bằng thẻ điện tử tiện dụng cũng 
thu hút hành khách.
Thứ  7, quan tâm đúng mức đến an toàn giao thông và ô nhiễm 
môi trường
An toàn giao thông và ô nhiễm khí thải do các hoạt giao thông cơ giới 
phải được đặt lên hàng đầu.
Tại hội nghị  COP21 diễn ra tại Paris vào tháng 12/2015, giảm khí 
thải CO2, chống biến đổi khí hậu và giảm sự  nóng lên toàn cầu đã được  
các nhà lãnh đạo, chuyên gia nghiên cứu và tổ chức môi trường đã chỉ ra sự 
cấp thiết.
Ở cấp độ địa phương, khói bụi loại siêu nhỏ (PM2.5, PM10) thải từ 
ống khói xe cơ  giới đang giết chết con người với cấp số  nhân so với số 
người chết vì tai nạn.
Tại Anh và Đức, số  ca tử  vong do ô nhiễm không khí từ  hoạt động 
giao thông cao gấp ba lần số tử vong do tai nạn.
Ở  Việt Nam, tuy chưa có nghiên cứu nhưng tình hình có thể  trầm  
trọng hơn rất nhiều. Do đó, quản lý giao thông cần phải tương thích với 
môi trường, phải có hệ  thống quan trắc giám sát toàn diện các tình huống  
giao thông và điều kiện môi trường.


Cần khuyến khích phát triển giao thông công cộng xe đạp điện, xe  
máy điện góp phần bảo vệ  môi trường thông qua cải tiến công nghệ, và 
siết chặt các tiêu chuẩn khí thải.

Thứ  8, minh bạch hoá thông tin và luôn cải thiện chất lượng  
dịch vụ giao thông
Người dân thường không có thông tin về chất lượng giao thông (vận 
tốc trung bình, tính an toàn, độ tin cậy) nên băn khoăn không biết việc đầu 
tư  nâng cấp hạ  tầng, tái tổ  chức luồng tuyến... có đem lại hiệu quả  nâng 
cao chất lượng giao thông hay không.
Do vậy, cần phải thiết lập hệ thống quan trắc đo lường chất lượng  
hệ thống giao thông với mục đích là kiểm tra, đánh giá và không ngừng cải 
thiện chất lượng hoạt động của giao thông vận tải.
Về  nguyên tắc, cần thuê tư  vấn độc lập nghiên cứu đánh giá. Báo  
cáo đánh giá là bằng chứng để các cơ quan quản lý chứng minh trước công 
luận về  chất lượng đạt được của hệ  thống giao thông, để  hỗ  trợ  quyết 
định phân bổ nguồn lực.
Thứ 9, cung cấp tài nguồn vốn đủ, bền vững cho giao thông
Để có một mạng lưới giao thông hiệu quả, an toàn và được tích hợp, 
cần phải có cải cách trong cung cấp vốn, hình thức đầu tư tài chính cho cơ 
sở  hạ tầng và dịch vụ  giao thông. Cần sử  dụng hệ thống thu phí như  một 
công cụ tạo doanh thu và huy động vốn.
Để người sử dụng đường chấp nhận trả thêm tiền thì cần phải đảm 
bảo rằng những khoản thu mới này được sử  dụng để  cải thiện hệ  thống 
giao thông, và không được cắt giảm các nguồn vốn đang sẵn có.
Ngoài ra, có thể tìm kiếm sự hỗ trợ tài chính từ  các nguồn lực khác, 
ví dụ  như  dự  án phát triển nhà  ở  thương mại và các bất động sản tại  ở 
vùng lân cận.


Thứ  10, khung thể chế phù hợp để  quản lý vận tải đa phương 
thức
Từ góc độ người sử dụng, giao thông phải là một hệ thống liên hoàn. 
Các hệ  thống giao thông vận tải khác nhau phải được phối hợp, tích hợp 

để cho hành khách di chuyển, hàng hoá vận chuyển liên tục, thuận lợi, an  
toàn trong mọi tình huống.
Do vậy, cần phải có một cơ  quan quản lý giao thông tích hợp các 
năng lực vận tải công cộng và vận hành mạng lưới đường bộ ở cả cấp độ 
thành phố và vùng để hỗ trợ nghiên cứu, triển khai các giải pháp nêu trên.



×