Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồng bằng tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.06 KB, 9 trang )

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG TỈNH NGHỆ AN
NGUYỄN THỊ TRANG THANH
Trường Đại học Vinh
Tóm tắt: Vùng đồng bằng Nghệ An có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế trang trại: Diện tích đất phù sa màu mỡ, Cơ sở hạ tầng, cơ sở
vật chất kĩ thuật tốt nhất so với các vùng khác trong tỉnh, lao động nông
nghiệp có nhiều kinh nghiệm… Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế trang
trại ở đồng bằng đang còn nhiều vấn đề đặt ra về: hiệu quả sản xuất, môi
trường... Thông qua việc phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở
vùng đồng bằng, chúng tôi đưa ra một số giải pháp phát triển kinh tế trang
trại theo hướng bền vững, đó là: đẩy mạnh phát triển các loại hình trang
trại chăn nuôi, trồng rau màu, mở rộng diện tích trang trại, nâng cao tay
nghề lao động, phát triển dịch vụ thú y…

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng đồng bằng của Nghệ An gồm 4 huyện và 1 thành phố: huyện Nam Đàn, Yên
Thành, Đô Lương, Hưng Nguyên và thành phố Vinh. Diện tích tự nhiên của vùng là
1.461,32 km2, chiếm 8,9% diện tích toàn tỉnh. Dân số 1.045,704 nghìn người, chiếm
33,5% dân số toàn tỉnh (năm 2009) [1].
Vùng đồng bằng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại: Diện tích
đất phù sa màu mỡ, thích hợp trồng lúa và cây công nghiệp ngắn ngày, rau màu; Cơ
sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật tốt nhất so với các vùng khác trong tỉnh; lao động
nông nghiệp có nhiều kinh nghiệm; có nhiều cơ sở chế biến nông sản, hóa chất phục
vụ nông nghiệp, có các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, giống cây trồng… Tuy
nhiên, thực tế phát triển kinh tế trang trại ở đồng bằng đang còn nhiều vấn đề đặt ra
về: hiệu quả sản xuất, vấn đề môi trường... Trong bài viết này, thông qua phân tích
thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồng bằng, làm rõ những khó khăn,
thách thức trong quá trình phát triển trang trại, chúng tôi đề xuất các giải pháp phát
triển bền vững kinh tế trang trại ở vùng đồng bằng tỉnh Nghệ An.
2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VÙNG ĐỒNG


BẰNG NGHỆ AN
2.1. Số lượng và cơ cấu trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An
Tính đến năm 2010, vùng đồng bằng có 348 trang trại, trong tổng số 1.859 trang trại,
chiếm 18,7% tổng số trang trại của tỉnh. So với năm 2005, số lượng trang trại vùng
đồng bằng Nghệ An tăng thêm 43 trang trại. Số lượng trang trại phân theo loại hình
như sau.

Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 117-125


118

NGUYỄN THỊ TRANG THANH

Bảng 1. Số lượng trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An phân theo loại hình [2]
Loại hình trang trại
Tổng số
1. Trang trại trồng cây hàng năm
2. Trang trại trồng cây lâu năm
3. Trang trại chăn nuôi
4. Trang trại lâm nghiệp
5. Trang trại thuỷ sản
6. TT kinh doanh tổng hợp

Năm 2005
Số lượng
Cơ cấu %
305
100,0

58
19,0
43
14,1
48
15,7
58
19,0
28
4,2
70
23,0

Năm 2010
Số lượng
Cơ cấu %
348
100,0
48
13,8
7
2,0
87
25,0
64
18,4
52
14,9
90
25,9


Trong các loại hình trang trại, trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp có số lượng lớn
nhất, năm 2010 là 90 trang trại, chiếm 25,9% tổng số trang trại toàn vùng và đang có
xu hướng gia tăng. Tiếp đến là trang trại chăn nuôi tăng tỉ trọng từ 15,7% (năm 2005)
lên 25% năm 2010. Số lượng trang trại trồng cây lâu năm và trồng cây hàng năm có
xu hướng giảm.
Trong số các huyện của vùng đồng bằng, số lượng trang trại tập trung nhiều nhất ở
huyện Nam Đàn. Năm 2010, số lượng trang trại của huyện Nam Đàn là 118 trang trại,
chiếm 33,9% tổng số trang trại toàn vùng. Tiếp đến là huyện Đô Lương số liệu tương
ứng là 105 và 30,2%; huyện Yên Thành 99 và 28,4%.
2.2. Tình hình sử dụng đất đai
Tổng diện tích đất đai của các trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An năm 2005 là 3391
ha (kể cả diện tích mặt nước), bình quân 11,1 ha/trang trại, cao hơn so với bình quân
của tỉnh (8,5 ha/ trang trại). Đến năm 2010, diện tích đất của các trang trại giảm xuống
2.510,32 ha và bình quân 7,2 ha/trang trại, thấp hơn so với mức bình quân của cả tỉnh
(năm 2010 bình quân của tỉnh là 9,0 ha/trang trại). Trong đó, bình quân diện tích đất
trên một trang trại của loại hình trang trại lâm nghiệp lớn nhất, tiếp đến là trang trại
trồng cây lâu năm. Diện tích đất bình quân của trang trại kinh doanh tổng hợp và trang
trại chăn có xu hướng tăng lên.
Bảng 2. Tình hình sử dụng đất của các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An [2]
Loại hình trang trại
Tổng số
1. Trang trại trồng cây hàng năm
2. Trang trại trồng cây lâu năm
3. Trang trại chăn nuôi
4. Trang trại lâm nghiệp
5. Trang trại thuỷ sản
6. TT kinh doanh tổng hợp

Năm 2005

Tổng diện
Bình quân
tích (ha)
(ha/TT)
3.391
11,1
594
10,2
283
6,6
62
1,3
1.671
28,8
401
14,3
380
5,4

Năm 2010
Tổng diện
Bình quân
tích (ha)
(ha/TT)
2.510,32
7,2
244,35
5,1
100,55
14,4

135,00
1,6
945,6
14,8
381,4
7,3
703,36
7,8


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG TỈNH NGHỆ AN

119

2.2.3. Lao động của trang trại
Năm 2005, tổng số lao động của các trang trại là 2.568 người, trong đó lao động
thường xuyên là 1.230 người, còn lại là lao động theo thời vụ, bình quân là 4 lao động
thường xuyên/trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An. Đến năm 2010, tổng số lao động
của các trang trại là 2.704 người, trong đó, lao động thường xuyên là 1.252 người,
bình quân mỗi trang trại là 3,6 lao động thường xuyên và 4,2 lao động thời vụ. So với
cả nước thì lao động bình quân 1 trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An thấp hơn nhiều
(cả nước là 5,6 lao động/trang trại). Các trang trại chủ yếu thuê lao động thời vụ, giải
quyết việc làm cho hàng nghìn lao động trên địa bàn.
Nhìn chung lao động của các trang trại trình độ chưa cao, tỉ lệ lao động có trình độ đại
học, cao đẳng rất ít chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo. Tỉ lệ lao động nông nghiệp
có chuyên môn kỹ thuật cũng rất thấp ở các huyện như: thành phố Vinh lao động nông
nghiệp có trình độ chuyên môn kĩ thuật chiếm 5,66% tổng số lao động nông, nghiệp
của thành phố; Hưng Nguyên 4,71%, Nam Đàn 4,41%, Yên Thành 4,22%... [3]
2.2.4. Vốn của trang trại
Tổng số vốn đầu tư của các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An là 52.122 triệu đồng

năm 2005. Vốn đầu tư bình quân của 1 trang trại đạt 170,9 triệu đồng/trang trại cao
hơn mức bình quân của cả tỉnh (trung bình của toàn tỉnh là 139,5 triệu đồng). Năm
2010, tổng số vốn đầu tư của các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An là 89.468,5
triệu đồng, chiếm 22,0% tổng số vốn đầu tư của các trang trại toàn tỉnh. Bình quân
vốn đầu tư mỗi trang trại là 257,1 triệu đồng/TT, tăng hơn so với vốn đầu tư năm 2005
và so với trung bình của tỉnh Nghệ An năm 2010 (trung bình của tỉnh là 218,4 triệu
đồng/TT). Bình quân vốn đầu tư của các loại hình trang trại năm 2010 đều tăng so với
năm 2005, trừ hai loại hình trang trại nuôi trồng thủy sản và trang trại trồng cây lâu
năm.
Bảng 3. Vốn đầu tư của các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An phân theo loại hình trang trại
năm 2005 và 2010 [2]

Loại hình trang trại
Tổng số
1. TT trồng cây hàng năm
2. TT trồng cây lâu năm
3. Trang trại chăn nuôi
4. Trang trại lâm nghiệp
5. Trang trại thuỷ sản
6. TT kinh doanh tổng hợp

Năm 2005
Tổng số vốn Bình quân vốn/
1 trang trại
52.122
170,9
3.968
68,4
5.358
124,6

9.921
206,7
5.297
91,3
13.258
473,5
14.320
204,6

Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2010
Tổng số vốn
Bình quân
vốn/1 TT
89.468,5
257,1
7.188
149,8
8.36,5
119,5
36.123
415,2
9.669
151,1
10.824
208,2
24.828
275,9

Vốn đầu tư giữa các loại hình trang trại không giống nhau. Vốn đầu tư bình quân của

trang trại chăn nuôi lớn nhất, rồi đến trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, còn ít
nhất thuộc về trang trại trồng cây lâu năm.

Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted Table


120

NGUYỄN THỊ TRANG THANH

2.2.5. Giá trị hàng hoá và dịch vụ của trang trại
Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ của các trang trại năm 2005 là 23.473 triệu đồng.
Bình quân một trang trại 76,9 triệu đồng, thấp hơn mức bình quân của cả tỉnh (giá trị
hàng hóa và dịch vụ trang trại bình quân của tỉnh là 98,3 triệu đồng/ trang trại). Năm
2010, tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ của các trang trại vùng đồng bằng là 78.399,5
triệu đồng, chiếm 21,2% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ các trang trại toàn tỉnh. Bình
quân mỗi trang trại là 225,1 triệu đồng, cao hơn nhiều lần so với năm 2005 và so với
cả tỉnh (trung bình của cả tỉnh là 199,4 triệu đồng/TT).
Bảng 4. Giá trị hàng hoá và dịch vụ của các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An phân theo
loại hình năm 2005 và 2010 [2]

Loại hình trang trại
Tổng số
1. TT trồng cây hàng năm
2. Trang trại trồng cây lâu năm
3. Trang trại chăn nuôi
4. Trang trại lâm nghiệp
5. Trang trại thuỷ sản
6. TT kinh doanh tổng hợp


Năm 2005
Tổng giá trị
Bình quân
hàng hoá và giá trị hàng
dịch vụ
hoá và dịch
vụ/1 TT
23.473
76,9
2.412
41,6
2.716
63,2
4.591
95,7
2.820
48,6
3.724
133,0
7.210
103,0

Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2010
Tổng giá trị
Bình quân
hàng hoá và giá trị hàng
dịch vụ
hoá và dịch

vụ/1 TT
78.339,5
225,1
4.887
101,8
1.000,5
142,9
36.754
422,5
6.832
106,8
8.566
164,7
20.300
225,6

Tất cả các loại hình trang trại đều tăng về giá trị hàng hóa và dịch vụ giai đoạn 20052010, trong đó trang trại chăn nuôi có bình quân giá trị hàng hoá và dịch vụ cao nhất
và tăng nhanh trong vòng 5 năm qua, còn bình quân giá trị hàng hoá của các trang trại
trồng cây hàng năm và lâm nghiệp là thấp nhất.
2.2.6. Thu nhập của trang trại
Tổng thu nhập của các trang trại trong năm 2005 là 10.499 triệu đồng, bình quân mỗi
trang trại 34,3 triệu đồng. Năm 2010, tổng thu nhập của các trang trại vùng đồng bằng
Nghệ An là 34.237,7 triệu đồng, bình quân 98,4 triệu đồng/TT. So với mức bình quân
của cả tỉnh thì thu nhập của các trang trại vùng đồng bằng cao hơn (thu nhập bình
quân mỗi trang trại của tỉnh là 81,8 triệu đồng năm 2010).
Nhìn chung, thu nhập bình quân của các loại hình trang trại tăng không nhiều, trong
đó, trang trại chăn nuôi có thu nhập bình quân mỗi trang trại cao nhất và tăng nhanh
nhất trong giai đoạn 2005-2010.

Nha Dien 12/22/11 9:20 PM

Formatted: Font:Not Bold, Not Italic
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold, Not Italic
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold, Not Italic
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold, Not Italic
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted Table
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Deleted:

Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold
Nha Dien 12/22/11 9:20 PM
Formatted: Font:Not Bold


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG TỈNH NGHỆ AN

121

Bảng 5. Thu nhập của các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An
phân theo loại hình năm 2005 và 2010 [2] (Đơn vị: Triệu đồng)
Loại hình trang trại
Năm 2005

Năm 2010
Tổng thu
Bình quân
Tổng thu
Bình quân
nhập của các thu nhập/1 nhập của các
thu nhập/1
trang trại
trang trại
trang trại
trang trại
Tổng số
10.449
34,3
34.237,7
98,4
1. TT trồng cây hàng năm
1.365
23,5
2.226
46,4
2. TT trồng cây lâu năm
1.056
24,6
430,2
61,5
3. Trang trại chăn nuôi
1.342
27,9
14.851

170,7
4. Trang trại lâm nghiệp
1.539
26,5
4.787
74,8
5. Trang trại thuỷ sản
1.275
45,5
3.680
70,8
6. TT kinh doanh tổng hợp
3.872
55,3
8.263,5
91,8

Tuy thu nhập chưa cao, nhưng phần lớn các trang trại đó bù đắp đủ chi phí và có lãi.
Đặc biệt một số trang trại chăn nuôi đó có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Lợi
nhuận thu được trên một đồng vốn bỏ ra ngày càng cao, thu nhập trên một đơn vị diện
tích tăng dần và tốc độ quay vòng đồng vốn nhanh hơn.
2.2.7. Hiệu quả sử dụng đất và vốn
Thu nhập bình quân trên một ha đất của các trang trại vùng đồng bằng còn thấp, trung
bình 13,6 triệu đồng/ha. Mặc dù giá trị hàng hóa và dịch vụ trên một ha cao (31,2 triệu
đồng/ha), nhưng do chi phí nhiều, nên thu nhập trung bình không cao. Hiệu quả sử
dụng đất khác nhau giữa các loại hình trang trại do đặc trưng từng loại hình. Hiệu quả
sử dụng đất cao nhất thuộc về trang trại chăn nuôi 110 triệu đồng/ha và trang trại kinh
doanh tổng hợp (11,8 triệu đồng/ha).
Hiệu quả sử dụng vốn trung bình mỗi trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An là 0,38.
Nghĩa là bình quân một đồng vốn đầu tư tạo ra 0,38 đồng lãi. Như vậy, hiệu quả sử

dụng vốn của các trang trại chưa cao và có sự phân hóa giữa các loại hình trang trại.
Trang trại chăn nuôi mặc dù giá trị hàng hóa và dịch vụ trên vốn cao, nhưng do chi phí
sản xuất cao, nên hiệu quả sử dụng vốn còn thấp.
Bảng 6. Hiệu quả sử dụng đất và vốn bình quân một trang trại phân theo loại hình của vùng
đồng bằng Nghệ An năm 2010

Bình quân
1. TT trồng cây hàng năm
2. TT trồng cây lâu năm
3. Trang trại chăn nuôi
4. Trang trại lâm nghiệp
5. TT thuỷ sản
6. TT kinh doanh tổng hợp

Hiệu quả sử dụng đất
Giá trị hàng
Thu nhập
hoá và dịch
(Tr.đ/ha)
vụ (Tr.đ/ha)
31,2
13,6
21,8
9,1
10,0
4,3
272,3
110,0
7,2
5,1

22,5
9,7
28,9
11,8

Hiệu quả sử dụng vốn
Giá trị hàng
Thu nhập/
hóa và dịch
1đồng vốn
vụ/1đồng vốn
0,88
0,38
0,68
0,31
1,19
0,51
1,02
0,41
0,71
0,49
0,79
0,34
0,82
0,33


122

NGUYỄN THỊ TRANG THANH


2.3. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An
2.3.2. Những thành tựu đạt được
Phát triển kinh tế trang trại góp phần khai thác những tiềm năng lợi thế của địa
phương đưa vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo ra những vùng sản xuất
tập trung với khối lượng hàng hoá lớn, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi.
Phát triển kinh tế trang trại tạo điều kiện sử dụng tài nguyên đất hợp lí hơn. Qua
phỏng vấn các chủ trang trại chúng tôi nhận thấy việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất từ kinh tế hộ sang phát triển kinh tế trang trại mang lại hiệu quả hơn nhiều. Hệ số
sử dụng đất nâng lên rõ nét. Một số vùng đất trước đây bỏ hoang vì ngập úng, nhiễm
phèn các chủ trang trại đã sử dụng có hiệu quả nguồn đất này như: cải tạo đất, ve bờ
chống ngập để nuôi cá, trồng lúa nước... Ở vùng bán sơn địa với đất đồi trơ sỏi đá mà
trước đây không thể sản xuất, các chủ trang trại đã tận dụng để trồng các loại cây có
giá trị về kinh tế nhưng không yêu cầu cao về dinh dưỡng như: keo, tràm, bạch đàn…
Phát triển kinh tế trang trại tạo điều kiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như đưa cơ giới vào sản xuất.
Các chủ trang trại có sự đầu tư về nguồn vốn do đó, trong quá trình sản xuất đã áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ như máy trộn thức ăn trong chăn
nuôi, máy ủ thức ăn… đưa cơ giới vào sản xuất như việc sử dụng máy cày, máy bừa,
máy tuốt lúa đa năng… các loại giống mới có chất lượng cao... Từ đó, nâng cao chất
lượng sản phẩm hàng hoá, tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Việc phát triển kinh tế trang trại, tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận nhanh hơn
với nền kinh tế thị trường. Nhiều chủ trang trại đã có kinh nghiệm trong quản lý kinh
tế và sản xuất kinh doanh, có ý chí vươn lên làm giàu chính đáng trong cơ chế thị
trường. Ngoài ra, các chủ trang trại còn đi tham quan các mô hình trang trại làm ăn có
hiệu quả, học hỏi cách thức làm ăn trên các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo.
Từ đó, trình độ người lao động trang trại nói riêng và trình độ dân cư nói chung tăng
lên một cách rõ nét.
Kinh tế trang trại phát triển, giúp người chủ trang trại và lao động trong trang trại

nâng cao thu nhập. Qua khảo sát một số trang trại trên địa bàn huyện Nam Đàn, chúng
tôi nhận thấy thu nhập của lao động trong trang trại thường trên 3 triệu đồng/tháng cao
hơn nhiều so với thu nhập chung của dân cư trên toàn huyện. Mặt khác, phát triển
trang trại đã tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động trên địa bàn vùng đồng bằng,
góp phần xoá đói, giảm nghèo ở vùng nông thôn, tạo ra xu thế và nhu cầu hợp tác mới
trong nông nghiệp.
2.3.2. Một số tồn tại, khó khăn
Một trong những khó khăn lớn nhất là quy mô của các trang trại nhỏ. Số lượng trang
trại tăng, nhưng quy mô bình quân diện tích 1 trang trại lại giảm, do diện tích đất nông
nghiệp manh mún, lại đang bị thu hẹp do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Vì
vậy, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến là rất khó khăn, làm hạn chế khả năng


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG TỈNH NGHỆ AN

123

chuyên môn hoá, cũng như việc sản xuất ra những sản phẩm có khối lượng lớn, có khả
năng cạnh tranh cao.
Trình độ sản xuất của người lao động nói chung và các chủ trang trại nói riêng còn
thấp, người lao động có trình độ cao đẳng, đại học còn rất ít, mà chủ yếu là chưa qua
đào tạo hoặc một số ít có trình độ sơ cấp, trung cấp; việc quan tâm đầu tư kỹ thuật,
công nghệ cho trồng trọt và chăn nuôi còn hạn chế. Qua khảo sát và tìm hiểu các mô
hình trang trại trên địa bàn chúng tôi nhận thấy: các chủ trang trại sản xuất kinh doanh
trên vốn kinh nghiệm sẵn có hoặc tự tìm hiểu qua các mô hình khác chứ không phải là
qua các lớp đào tạo.
Hiệu quả sản xuất của các trang trại chưa cao, do chi phí sản xuất lớn, quy mô sản
xuất nhỏ. Những loại hình trang trại có thu nhập cao như trang trại chăn nuôi, trang
trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, nhưng vốn đầu tư lớn.
Các trang trại ở vùng đồng bằng Nghệ An gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh hay xảy

ra, nhất là dịch cúm gia cầm, dịch lợn tai xanh… Tuy nhiên, việc phòng chống dịch lại
gặp rất nhiều khó khăn vì trình độ của người lao động còn ở mức thấp, cơ sở vật chất
còn nhiều hạn chế không đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Do đó, dịch bệnh rất dễ xảy ra và khi
có dịch bệnh xảy ra việc cách li giữa vật nuôi bị bệnh và không bị bệnh là rất khó nên
việc dập dịch tốn nhiều thời gian. Ngoài ra, chi phí cho việc phòng trừ dịch bệnh lại
khá cao. Theo lời một chủ trang trại “một con lợn trong cả quá trình nuôi phải tiêm
tới 7 loại vacxin và có những loại vacxin khá đắt tiền nên việc tiêm phòng cho đàn lợn
là rất tốn kém”. Do đó, chỉ có các trang trại chăn nuôi lớn mới có thể tiêm phòng đầy
đủ cho vật nuôi.
Một trong những khó khăn lớn nhất mà các chủ trang trại gặp phải là thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Vấn đề tiếp cận thị trường, cũng như sản xuất ra những sản phẩm đáp
ứng được yêu cầu của thị trường hầu như ít trang trại làm được.
Trong quá trình phát triển kinh tế trang trại, các chủ trang trại đã không chú ý đến vấn
đề môi trường. Chỉ có các trang trại chăn nuôi quy mô lớn mới có hệ thống xử lí chất
thải, còn phần lớn các trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ đều làm ô nhiễm môi trường vì
chất thải của chăn nuôi không được xử lí mà thải trực tiếp xuống ao nuôi cá, vịt hoặc
thải ra bên ngoài làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường xung quanh. Mặt khác, sản
xuất nông nghiệp ở các trang trại vùng đồng bằng Nghệ An vẫn sử dụng nhiều thuốc
bảo vệ thực vật, thức ăn tăng trọng làm chất lượng sản phẩm không cao, gây ảnh
hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và môi trường.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do các trang trại ở vùng đồng bằng phát triển tự
phát trước, công tác quy hoạch đi sau nên chưa đồng bộ; một số chính sách của Nhà
nước đối với kinh tế trang trại chưa thông thoáng như: hạn mức giao, thời hạn sử dụng
đất, chính sách vay vốn, mức cho vay còn hạn chế; kinh nghiệm phát triển kinh tế
hàng hóa của phần lớn chủ trang trại trong cơ chế thị trường còn hạn chế…


124

NGUYỄN THỊ TRANG THANH


2.3.3. Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại
Để phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng một cách có hiệu quả và bền vững,
chúng tôi đưa ra định hướng và một số giải pháp sau:
- Do diện tích đất vùng đồng bằng không nhiều và đang có xu hướng thu hẹp dần,
nên định hướng phát triển trang trại của vùng là phát triển các trang trại chăn
nuôi gia súc (nuôi lợn), gia cầm, các trang trại trồng rau an toàn, trồng hoa trên
cơ sở chuyển hướng sản xuất từ đất lúa sang đất rau ở vùng phụ cận các đô thị.
- Áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất và sản lượng
cây trồng đáp ứng nhu cầu mới về chất lượng nông sản do sự phát triển của đô
thị và khu công nghiệp đặt ra.
- Đẩy mạnh công tác “dồn điền đổi thửa” để có thể sản xuất nông nghiệp trên quy
mô lớn hơn, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Nâng cấp, mở rộng các
trang trại nhỏ lên quy mô lớn hơn.
- Tăng cường đào tạo các kiến thức về kỹ thuật, tay nghề cho chủ trang trại và lao
động tại các trang trại. Tổ chức sơ kết, tổng kết thường niên về kinh tế trang trại,
hoặc tổ chức đối thoại giữa các chủ trang trại với các nhà khoa học, quản lý,
thương mại... để trao đổi kinh nghiệm, tìm ra các giải pháp thiết thực khắc phục
những khó khăn mà các trang trại gặp phải.
- Tăng cường công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại nhằm cung cấp
kịp thời cho chủ trang trại về giá cả nông sản, nhu cầu thị trường. Cụ thể như:
mở hội chợ hàng nông sản để giới thiệu và quảng bá các hàng hoá nông sản có
chất lượng cao, có ưu thế cạnh tranh của tỉnh, tổ chức tham quan học tập kinh
nghiệm sản xuất trong và ngoài nước, khuyến khích các trang trại xây dựng
thương hiệu sản phẩm có chất lượng, uy tín cao trên thị trường...
- Kết hợp phát triển các dịch vụ nông nghiệp, đặc biệt là dịch vụ thú y nhằm tránh
những tổn thất trong chăn nuôi do dịch bệnh. Đầu tư các hệ thống xử lí nước
thải trong các trang trại chăn nuôi, tránh gây ô nhiễm môi trường.
3. KẾT LUẬN
Phát triển kinh tế trang trại đã thúc đẩy nông nghiệp vùng đồng bằng chuyển dịch theo

hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra được nhiều sản phẩm với chất lượng ngày càng nâng
cao. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các trang trại đang gặp nhiều khó khăn. Vì
vậy, cần phải có sự hỗ trợ của các cấp chính quyền thông qua các chính sách về vốn,
kĩ thuật, đất đai, xây dựng các mô hình khuyến nông, chuyển giao các tiến bộ khoa
học kĩ thuật, công nghệ, giống mới có năng suất, chất lượng và giá trị kinh tế cao,…
thì trang trại mới có thể phát triển bền vững được.
Nha Dien 12/22/11 9:21 PM
Formatted: Space Before: 0 pt


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG TỈNH NGHỆ AN

125

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]

Cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2009). Niên giám thống kê Nghệ An năm 2009. Tỉnh
Nghệ An.
Cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2005, 2010). Số liệu thống kê về trang trại Nghệ An
phân theo các huyện năm 2005, 2010. Nghệ An.
Tổng Cục Thống kê (2006). Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy
sản năm 2006. Phiên bản CD Rom.
UBND tỉnh Nghệ An (2008). Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh
Nghệ An đến năm 2020.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Nghệ An (2008). Báo cáo rà soát,

điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
Nghệ An.

Title: THE DEVELOPMENT OF FARM ECONOMY IN PLAIN AREA OF NGHE AN
PROVINCE
Abstract: The Delta in Nghe An has many favorable conditions for developing farm
economy: The area of fertile alluvial soil, best infrastructure and technical facilities compared
to other regions in province, agricultural labors have more experience... However, the actual
development of farm economy in the delta is still many issues: production efficiency,
environmental issues... In this article, by analysing the economic situation of farms in the
plains, clarifying the difficulties and challenges in the development of the farm, we propose
solutions for sustainable economic development farms in the delta province of Nghe An.

ThS. NGUYỄN THỊ TRANG THANH
Khoa Địa lý, Trường Đại học Vinh – Nghệ An
ĐT: 0383.832155; DĐ: 0989.456.628. Email:



×