Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.49 KB, 2 trang )
Vị thuốc từ cây cau
Nhiều bộ phận của cây cau có tác dụng chữa bệnh tốt trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian.
Rễ cau: Thường dùng loại rễ màu trắng mọc lộ ra trên mặt đất, gọi là rễ cau nổi. Dược liệu được thu hái
quanh năm, rửa sạch, phơi hay sấy khô.
Chữa đái rắt, đái són: Rễ cau 10g, rễ trầu không 10g (có thể dùng thân và lá) thái nhỏ, phơi khô, sắc với
400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. Dùng liền vài ngày cho đến khi khỏi.
Phụ nữ có thai không được dùng.
Chữa thận hư, liệt dương: Rễ cau nổi dùng độc vị với liều 20 – 30g dưới dạng nước sắc. Hoặc rễ cau 8g,
ba kích 20g, thục địa 20g, hoài sơn 20g, sâm bố chính 40g, quế thanh 8g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sao vàng (trừ
quế), tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật hoặc sirô làm thành viên to bằng quả táo. Ngày uống 5 viên trước khi đi
ngủ. Dùng liền trong 1 tháng.
Chữa phù thũng: Rễ cau non 4g, rễ dứa dại 8g, nướng, vỏ cây đại 8g, sao vàng, hương phụ 8g, hoắc
hương 8g, tía tô 8g, hậu phác 8g, rễ si 8g. Sắc uống trong ngày. (Kinh nghiệm của nhân dân ở các tỉnh phía Nam).
Chữa hen suyễn: Rễ cau 30g, mốc cây cau 20g, sắc uống trong ngày.
Lá cau: Lá cau 20g và vỏ cây núc nác 10g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống; kết hợp lấy lá đinh lăng lót
giường nằm, dùng cho trẻ em hay khóc về đêm, kinh giật.
Quả cau: Hái quả già chưa ngả màu vàng đỏ, đem tước bỏ vỏ ngoài, bổ đôi (có thể đồ trước khi bổ), tách
hạt (để riêng), đập giập thành từng mảnh rồi phơi hay sấy khô làm đại phúc bì. Liều dùng hằng ngày 6 – 9g,
thường dùng phối hợp với nhiều vị thuốc khác trong những trường hợp sau:
Chữa phù thũng, mạch phù, bụng trướng: Đại phúc bì (chích), tang bạch bì (chích), phục linh bì, sinh
khương bì, trần bì, mỗi thứ lượng bằng nhau, thái nhỏ, phơi khô, tán rây bột. Mỗi lần uống 12g dưới dạng nước
sắc.
Chữa ngoại cảm, phong hàn, tức ngực, họng đau, nôn mửa, miệng nhạt khô: Đại phúc bì, bạch chỉ, tử tô,
phục linh mỗi vị 30g, bán hạ, bạch truật, trần bì, hậu phác, cát cánh mỗi thứ 60g, hoắc hương 90g, cam thảo chích
70g. Tất cả phơi khô, nghiền nhỏ, rây bột mịn. Mỗi lần uống 6g với nước sắc có 3 lát gừng và 1 quả đại táo.
Có nơi, người ta dùng mo cau làm đại phúc bì.
Hạt cau: Lấy hạt ở quả già, phơi hoặc sấy khô. Có người còn nhúng hạt vào nước sôi trước khi phơi hoặc
sấy khô. Khi dùng, ngâm hạt vào nước 2 – 3 ngày cho mềm, rồi thái mỏng, phơi trong râm cho khô (để sống), sao
vàng hoặc sao đen.
Hạt cau có vị đắng, chát, cay, tính ấm, có tác dụng trừ giun sán, giảm sốt, làm se. Tuệ Tĩnh (Nam dược
thần hiệu) đã dùng hạt cau khô 80g, đập nhỏ, nấu với 2 bát rượu, lấy một bát, uống dần cho đến hết trong một giờ