Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở tỉnh Bình Định hiện nayluanvan lehuythuc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.27 KB, 94 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Trần Ngọc Ngoạn.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn Thạc sĩ Chính sách công với Đề tài
“Thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở tỉnh Bình Định hiện nay”
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời khai này.
Học viên

Lê Huy Thục


MỤC LỤC
Chương 1 ..................................................................................................................
10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỦY ĐIỆN VỪA VÀ NHỎ CẤP TỈNH ............... 10
1.1. Tổng quan về thủy điện vừa và nhỏ ...............................................................
10
1.2. Một số vấn đề lý luận thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ...
15 1.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở một số
địa
phương
29

..................................................................................................................

Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 32
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỦY
ĐIỆN VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH ........................................................
33


2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định ................................
33
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở tỉnh Bình
Định
38

......................................................................................................................

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở tỉnh
Bình Định ..............................................................................................................
52
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 62
Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ
THỦY ĐIỆN VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH ........................................... 64
3.1. Quan điểm , định hướng về phát triển,quản lý thủy điện ..............................
64 3.2. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách quản lý thủy điện vừa và
nhỏ



tỉnh

Bình

Định ................................................................................................... 66
3.3. Một số kiến nghị ............................................................................................
74
Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 78



KẾT LUẬN ..............................................................................................................
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DVMTR

Dịch vụ bảo vệ môi trường rừng

ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

ĐCM

Đánh giá môi trường chiến lược

HĐND

Hội đồng nhân dân

KKT

Khu kinh tế

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn


TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

UBND

Uỷ ban nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Việt Nam đang trên đà phát triển vượt bậc trên hầu hết các lĩnh vực, kéo theo
đó là nhu cầu sử dụng năng lượng điện ngày càng nhiều để đáp ứng cho sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, phát triển du lịch và phục vụ sinh hoạt nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người dân. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn,
trình độ làm chủ công nghệ điện hạt nhân còn khiêm tốn; kinh phí đầu tư dự án điện
gió, điện mặt trời chưa nhiều, chi phí nguyên liệu cho nhiệt điện đắt đỏ thì với tiềm
năng sông suối vốn có của mình, thủy điện là sự lựa chọn hàng đầu để tạo ra năng
lượng điện cho Tổ quốc.
Trong thời gian qua, các dự án thủy điện được chú trọng phát triển, đặc biệt
là các dự án thủy điện vừa và nhỏ đã đi vào hoạt động phục vụ, đóng góp một sản
lượng điện khá lớn cho mạng lưới điện quốc gia. Không thể phủ nhận sự đóng góp
của thủy điện nói chung, thủy điện vừa và nhỏ nói riêng cho nền kinh tế - xã hội.
Năm 2015, thủy điện chiếm khoảng 32% trong tổng sản xuất điện của cả nước, điều
này chứng tỏ thủy điện có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh về lĩnh vực
năng lượng, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ khi đưa vào vận hành tại các địa phương

đã hỗ trợ rất lớn trong việc sử dụng các nguồn năng lượng thiên nhiên hiện có, cùng
với đó giúp tiết kiệm các nguồn nhiên liệu đang ngày càng khan hiếm như than, dầu,
khí; nông nghiệp thủy lợi, giao thông vận tải và sinh hoạt của người dân thông qua
điều hòa lượng nước tại các hồ chứa của nhà máy thủy điện, nhất là vào mùa khô;
đóng góp quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những vùng khó khăn,
bảo vệ an ninh - quốc phòng, giúp ích rất nhiều cho việc phát triển kinh tế xã hội
của các địa phương. Thủy điện vừa và nhỏ hỗ trợ rất lớn trong việc tham gia phòng
chống lũ vào mùa mưa, các hồ chứa thủy điện tích cực vận hành, chủ động điều tiết
lưu lượng, góp phần đáng kể trong việc cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất và bảo
vệ môi trường cho hạ du.
5
5


Bên cạnh những ưu điểm về mặt kinh tế thì phát triển thủy điện còn ẩn chứa
những nguy cơ khôn lường đối với môi trường và dân sinh trong vùng công trình
thủy điện. Việc phát triển ồ ạt thủy điện vừa và nhỏ từ vùng Tây Bắc đến miền
Trung lên thượng ngàn Tây Nguyên nhưng chưa chú trọng đến lợi ích xã hội, môi
trường sinh thái đã gây ra những hệ lụy không hề nhỏ. Thủy điện đã làm mất rừng
đẫn đến xói mòn đất, hạ thấp nước ngầm, tăng cường lũ, giảm độ phì nhiêu hạ lưu
do mất phù sa, làm hàng chục nghìn hecta đất, rừng bị ngập và tàn phá; sự cộng
hưởng của mưa lũ đã ảnh hưởng đến đời sống người dân vùng hạ du. Mặt khác, sự
yếu kém về năng lực quản lý của các chủ đầu tư, sự lơ là của cơ quan chức năng địa
phương đã dẫn đến hàng loạt sự cố về thủy điện như Sông Bung 2 ở Quảng Nam,
Đạ Dâng ở Lâm Đồng, Hố Hô ở Hà Tĩnh hay những nối ám ảnh mang tên “xả lũ”
làm người dân mất niềm tin và có thành kiến với thủy điện.
Trước thực trạng trên, ngày 27/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua
Nghị quyết số 62/2013/QH13 về Tăng cường công tác quản lí quy hoạch, đầu tư xây
dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
62/2013/QH13). Ngay sau đó, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết 11/NQ-CP ngày

18/02/2014 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
62/2013/QH13 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 11/NQ-CP). Động thái này đã thể hiện
được sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước và người dân trước những hiểm họa do
thủy điện gây ra. Thông qua đó, Chính phủ cùng với các Bộ, ngành, địa phương
nhìn nhận, đánh giá lại công tác chính sách quản lý thủy điện nói chung, thủy điện
vừa và nhỏ nói riêng trong thời gian qua để có những điều chỉnh hợp lý nhằm phát
huy hiệu quả tổng hợp của công trình thủy điện đồng thời bảo đảm cuộc sống của
người dân và bảo vệ môi trường sinh thái. Theo Đào Đình Châm (2019), do quy
hoạch phát triển thuỷ điện thiếu phối hợp, gắn kết giữa các ngành cùng khai thác
trên một lưu vực sông nên hiệu quả tổng hợp của công trình thuỷ điện hạn chế, thậm
chí gây tranh chấp, xung đột giữa các ngành sử dụng nước, giữa thượng lưu và hạ
lưu ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống và môi trường. Cũng do những hệ lụy do thủy
điện gây ra, đến nay cả nước đã dừng hơn 400 thủy điện, trong đó Lâm Đồng 28,
6
6


Kon Tum 21, Gia Lai 19, Đắk Lắk 20… Những nguyên nhân của tình trạng phát
triển thủy điện không bền vững ở lưu vực sông Srêpôk có nhiều, trong đó nguyên
nhân chủ yếu là do cách quản lý của con người [7].
Tỉnh Bình Định là một tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ vừa mang đặc điểm địa
hình của vùng ven biển và địa hình đồi núi Tây Nguyên vừa có hệ thống sông ngòi
dày đặc lại trong vùng nóng ẩm mưa nhiều nên có rất nhiều lợi thế để phát triển
thủy điện, nhất là thủy điện vừa và nhỏ. Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh
vực thủy điện thì trữ năng phát triển thủy điện của Bình Định vào diện cao trong
khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Tuy nhiên, công tác thực hiện chính sách quản
lý thủy điện của tỉnh còn nhiều bất cập: việc lập quy hoạch và quản lý quy hoạch
thủy điện vừa và nhỏ còn chưa khoa học phải thường xuyên rà soát điều chỉnh; quản
lý đầu tư xây dựng công trình thủy điện chưa thật sự hiệu quả dẫn đến nhiều công
trình bị chậm tiến độ thi công; công tác kiểm tra giám sát còn mang tính hình thức.

Có thể khẳng định rằng có được chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ
đúng đắn mới chỉ là “điều kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Việc tổ chức
thực thi là “điều kiện đủ” để chính sách đạt hiệu quả cao nhất, mang lại lợi ích thiết
thực nhất cho địa phương. Nói như vậy để thấy rõ mối quan hệ có tính quyết định
giữa các khâu trong quá trình thực thi chính sách. Do đó, xuất phát từ tầm quan
trọng và sự cần thiết của hoạt động quản lý cũng như mối quan tâm cá nhân đối với
thủy điện vừa và nhỏ, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách quản lý thủy điện
vừa và nhỏ ở tỉnh Bình Định hiện nay” để thực hiện luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Thủy điện và quản lý thủy điện nói chung, thủy điện vừa và nhỏ nói riêng là
đang là vấn để nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước, người dân,
doanh nghiệp đầu tư dự án thủy điện… Thông qua các chính sách quản lý về thủy
điện nói chung, chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ nói riêng, Đảng và Nhà
nước ta đã kịp thời nắm bắt tình hình phát triển, bên cạnh đó có hướng đi đúng đắn
và phù hợp trong thời gian tới nhằm tận dụng tối đa lợi thế về nguồn tài nguyên hiện
có. Chính vì vậy, đây là vấn đề được các cơ quan nhà nước, chuyên gia, nhà khoa
7
7


học nghiên cứu để đưa ra cách nhìn đúng đắn và khách quan nhất về thủy điện và
quản lý thủy điện vừa và nhỏ nhằm góp phần hoàn thiện chính sách quản lý thủy
điện nói chung đồng thời hướng đến mục tiêu xây dựng nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Có thể kể đến một số nghiên cứu có nội dung liên quan như sau:
“Những vấn đề cần lưu ý trong đầu tư phát triển thủy điện vừa và nhỏ”
(4/2017) là bài viết của tác giả Nguyễn Đức Đạt trên báo điện tử Năng lượng Việt
Nam. Qua góc độ nhìn nhận của mình, tác giả đã đưa ra những vấn đề cần lưu ý và
một số giải pháp để hoàn thiện việc quản lý và phát triển thủy điện vừa và nhỏ ở
nước ta.[13]
Hải Vân (08/2015) với bài viết “Phát triển thủy điện nhỏ: Tại sao không ?”

đăng trên Báo điện tử Năng lượng đã nêu bật tiềm năng, vai trò của thủy điện nhỏ
trong cơ cấu năng lượng điện của quốc gia nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội của đất nước.[37]
Phạm Văn Quang (2015), Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế với đề tài “Phát triển thủy điện vừa
và nhỏ trên địa bàn tỉnh Hà Giang”. Trong luận văn này, dựa trên thực trạng phát
triển thủy điện vừa và nhỏ của tỉnh Hà Giang, tác giả đã phân tích những vấn đề cần
quan tâm trong quá trình phát triển và quản lý thủy điện vừa và nhỏ. Đồng thời đưa
ra những giải pháp để nâng cao chất lượng của việc phát triển thủy điện vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, tác giả không đề cập trên phương diện lí luận về thực hiện chính sách
quản lý thủy điện vừa và nhỏ mà chỉ đề cập trên phương diện kỹ thuật là chủ yếu,
chưa thể hiện rõ vai trò của chính sách quản lý trong việc phát triển thủy điện vừa
và nhỏ.[25]
GS. TS. Phạm Hồng Giang với bài viết “Vài ý kiến về thủy điện nước ta” đã
nêu bật vai trò của thủy điện trong phát triển kinh tế - xã hội và đồng thời tác giả
cũng đưa ra những ý kiến cá nhân liên quan đến việc lập quy hoạch, vận hành khai
thác công trình thủy điện trong thời gian qua ở một số địa phương có dự án thủy
điện.[16]
8
8


“Nhìn lại công tác quản lý nhà nước về thủy điện ở Việt Nam” cũng là một
bài viết được đăng trên trang Báo Năng lượng (9/2014) của tác giả Nguyễn Tâm đã
nhìn nhận những nỗ lực của Nhà nước trong vai trò quản lý thủy điện và nêu rõ
những hạn chế của công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác
công trình thủy điện hiện nay.[28]
Nhân Hà với bài viết “Thủy điện vừa và nhỏ thúc đẩy phát triển năng lượng
tái tạo” được đăng trên Báo Nhà đầu tư (10/2017) với thông tin được đề cập tại
buổi Hội thảo "Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ, phát triển năng lượng tái tạo: An

toàn - hiệu quả - bền vững" do Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học
và Công nghệ, Viện Kinh tế Việt Nam được tổ chức ngày 5/10/2017 tại Hà Nội. Với
quan điểm “Để đảm bảo đủ nguồn điện cho phát triển kinh tế xã hội với mức tăng
trưởng cao, khuyến khích thu hút đầu tư phát triển nguồn điện, Bộ Công
Thương cũng đã tham mưu cho Chính phủ các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát
triển các nguồn năng lượng tái tạo khác. Điển hình là cơ chế giá điện mặt trời, điện
gió, điện sinh khối, chất thải rắn... theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2050 tại Quyết định số 2050/QĐ-TTg ngày 25/11/2015; Điều chỉnh Quy
hoạch phát triển Điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến 2030 tại Quyết
định 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016” đã cho thấy tầm quan trọng của việc phát triển
thủy điện vừa và nhỏ, cùng với đó là sự giảm tải gánh nặng cho các nhà máy thủy
điện với sự phát triển chung các nguồn năng lượng tái tạo khác.[17]
Đào Đình Châm (2019), Đánh giá ảnh hưởng của các công trình thủy điện
đến tài nguyên nước trên lưu vực sông Srêpốk, được đăng trên Tạp chí Địa lý nhân
văn số 2/2019, đã chỉ rõ những nguyên nhân của tình trạng phát triển thủy điện
không bền vững ở lưu vực sông có nhiều, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do cách
quản lý của con người. Cụ thể: Quy hoạch các nhà máy thủy điện ở lưu vực sông
thời gian qua không có sự lồng ghép giữa quy hoạch thủy lợi và quy hoạch thủy
điện; Không nên chia cắt theo địa giới hành chính: Trong các Quyết định về phê
duyệt quy hoạch các dự án nhà máy thủy điện vừa và nhỏ khu vực miền Trung như
9
9


Quyết định số 0643/QĐ-BCT ngày 09/02/2009 hay Quyết định số 1864/QĐ-BCT
ngày 14/04/2009 của Bộ Công Thương phê duyệt đều quy hoạch theo địa phương
từng tỉnh, không có sự liên hệ trên lưu vực sông, gây khó khăn cho việc quản lý
tổng hợp, hợp lý nguồn nước, thống nhất theo lưu vực sông; “Quy hoạch phải gắn
với việc bảo vệ và phát triển rừng và khả năng tái tạo nguồn nước”, Thực tế hầu hết

các hồ thủy điện đều có xâm phạm đất rừng (ngoài diện tích cho phép còn gián tiếp
tạo điều kiện cho bọn lâm tặc phá rừng), đặc biệt là rừng phòng hộ và rừng nguyên
sinh. Thậm chí có vi phạm vùng đệm hay lõi của các Vườn quốc gia hay Khu bảo
tồn thiên nhiên; Quy hoạch phải thực hiện khai thác, sử dụng tổng hợp an toàn và có
hiệu quả nguồn nước. Tuy nhiên, hầu hết các hồ thủy điện ở khu vực nghiên cứu
thường không có nhiệm vụ phòng chống lũ hạ du (thể hiện không có dung tích
phòng lũ); Không bảo đảm yêu cầu “dòng chảy tối thiểu”; Hầu hết các nhà máy thủy
điện vừa và nhỏ trên lưu vực là do các công ty tư nhân bỏ vốn ra xây dựng và hưởng
lợi trong quá trình khai thác. Do đó, mục đích đầu tư chỉ nhằm tối đa mục tiêu lợi
nhuận từ phát điện và không tính tới hiệu quả sử dụng tổng hợp nguồn nước đối với
các nhu cầu khác. Trong khi các công trình thủy lợi phát triển không kịp, tài nguyên
nước có giới hạn dẫn đến tranh chấp nguồn nước nhất là những năm mưa ít[7].
“Bộ Công Thương đề xuất tăng quy hoạch thuỷ điện công suất nhỏ” là một
bài viết được đăng trên trang Báo Lao Động (05/2019) của tác giả Phạm Dung đã
cho thấy việc quan tâm của Đảng và Nhà nước nói chung, Bộ Công Thương nói
riêng về vấn đề đẩy mạnh phát triển các dự án thủy điện có quy mô công suất nhỏ
hơn hoặc bằng 3MW. Bài viết đã đề cập đến vấn đề “Kinh phí chi trả cho các
chuyên gia hoặc đơn vị tư vấn thẩm tra có kinh nghiệm còn thấp” cùng với đó là
các khó khăn vấp phải khi thực hiện các dự án thủy điện nhỏ. Từ đó, chúng ta có
góc nhìn khái quát hơn về việc đưa ra chính sách quản lý thủy điện nhỏ phù hợp để
giải quyết dứt điểm các tồn đọng hiện còn.[11]
Tóm lại, thủy điện vừa và nhỏ được tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau
nhưng việc tiếp cận ở góc độ thực hiện chính sách còn chưa được đi sâu nghiên cứu
tìm hiểu. Mặt khác, trên địa bàn tỉnh Bình Định vẫn chưa có đề tài nghiên cứu nào
10
10


tiếp cận đến chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ. Chính vì vậy, đề tài “Thực
hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở tỉnh Bình Định hiện nay” sẽ là

một đề tài mới, bổ sung lý luận và thực tiễn cho thực hiện chính sách quản lý và có
tính ứng dụng thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
-

Hệ thống hóa cơ sở lí luận, kinh nghiệm thực tiễn về thực hiện chính sách quản lý
thủy điện vừa và nhỏ;

-

Đánh giá được thực trạng về thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở
tỉnh Bình Định; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế,
bất cập;

-

Đề xuất phương hướng và các giải pháp cho việc thực hiện hiệu quả chính sách
quản lý thủy điện vừa và nhỏ thời gian tới trên địa bàn tỉnh Bình Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, luận văn cần tập trung thực hiện nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về việc thực hiện
chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ.
Thứ hai, khảo sát, phân tích được thực trạng về thực hiện chính sách quản lý
thủy điện vừa và nhỏ hiện có trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian qua; đánh giá
được tác động của chúng đối với môi trường và kinh tế - xã hội của địa phương;
phân tích được những thành tựu, hạn chế bất cập trong việc thực hiện chính sách và
nguyên nhân của hạn chế bất cập;
Thứ ba, từ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất
cập, đề xuất cụ thể những được phương hướng và giải pháp thực hiện hiệu quả

chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
11
11


Luận văn tập trung phân tích thực trạng về thực hiện chính sách quản lý thủy
điện vừa và nhỏ ở tỉnh Bình Định thời gian qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách
quản lý thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian qua.
- Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bình Định.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2013 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về chính sách công đối với thủy điện vừa và nhỏ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ trên
ở tỉnh Bình Định hiện nay, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu: nghiên cứu sách, bài
báo, các công trình nghiên cứu, văn bản pháp luật, chính sách, tài liệu về thủy điện
vừa và nhỏ, chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ. Các phương pháp này chủ yếu
được sử dụng tại Chương 1 của đề tài.
Phương pháp thống kê các số liệu liên quan đến thực trạng quản lý thủy điện
vừa và nhỏ tại Chương 2. Từ đó, tác giả đề xuất kiến nghị, giải pháp để thực hiện
hiệu quả chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu những cách
làm, mô hình thực hiện chính sách thủy điện vừa và nhỏ ở các địa phương trong
nước với thực tế tỉnh Bình Định.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
12
12


Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về thủy điện vừa và nhỏ, công tác
thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ làm cơ sở cho các nhà quản lý
trong việc hoạch định chính sách phát triển thủy điện vừa và nhỏ.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về lý luận
và kinh nghiệm thực tiễn về thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở
vùng miền núi nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Đánh giá được thực trạng thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ
trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian qua; đánh giá được nội dung và tác động của
chúng đối với môi trường và kinh tế - xã hội của địa phương; phân tích được những
thành tựu, hạn chế bất cập trong việc thực hiện chính sách và nguyên nhân của hạn
chế bất cập;
Đề xuất phương hướng và các giải pháp đồng bộ có tính khả thi để góp phần
thực hiện hiệu quả chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình
Định thời gian qua và trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn được kết cấu trong ba chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong thực hiện chính sách
quản lý thủy điện vừa và nhỏ cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ ở

tỉnh Bình Định
Chương 3: Giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách quản lý thủy điện vừa và
nhỏ ở tỉnh Bình Định

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
13
13


THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỦY ĐIỆN VỪA VÀ NHỎ
CẤP TỈNH
1.1. Tổng quan về thủy điện vừa và nhỏ
1.1.1. Thủy điện vừa và nhỏ
Vào những năm 1950, việc sản xuất năng lượng điện năng hầu hết (trên 90%)
phụ thuộc lớn vào các nhà máy nhiệt điện. Cùng với sự phát triển của công nghệ,
việc sử dụng nguồn tài nguyên sạch được quan tâm hơn nên các nhà máy nhiệt điện
bị hạn chế sử dụng và các quốc gia quan tâm hơn đến nhà máy thủy điện, đặc biệt là
nhà máy thủy điện vừa và nhỏ. Thủy điện được ưu tiên trong việc tìm nguồn cung
năng lượng điện nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ của các việc xây dựng và khai thác thông
qua các công nghệ hiện đại, giúp đỡ rất nhiều trong việc đắp đập ngăn sông, sử dụng
các tổ máy công suất lớn.
Các công trình thủy điện vừa và nhỏ được xây dựng trên lưu vực các sông
suối nhằm tận dụng sức nước ở đây. Hiện nay, việc phân loại thủy điện vừa và nhỏ
là một khái niệm tương đối, tùy theo điều kiện thực tế của từng quốc gia. Ở Việt
Nam, việc phân loại thuỷ điện đã được quy định dựa vào tiêu chuẩn xây dựng Việt
Nam (TCXDVN số: 285-2002). Từ đó, các nhà máy thuỷ điện vừa và nhỏ được quy
định có cấp công trình là cấp IV, cấp III và một phần cấp II. Trong đó:
Từ 200 kW – 5000 kW là công trình cấp IV
Từ 5000kW – 50MW là công trình cấp III

Từ 50MW – 100MW là một phần công trình cấp 2.[6]
Theo quy định tại Quyết định số 2394/QĐ-BCN ngày 01 tháng 9 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) về việc phân loại công
suất lắp máy thủy điện nhỏ và siêu nhỏ trong tính toán quy hoạch phát triển các
nguồn năng lượng tái tạo thì thủy điện nhỏ có công suất lắp máy lớn hơn hoặc bằng
1MW và nhỏ hơn hoặc bằng 30MW.[3]
Từ đó, các công trình thủy điện nhỏ có công suất lắp máy lớn hơn hoặc bằng
1MW và nhỏ hơn hoặc bằng 30MW và các công trình thủy điện vừa có công suất
lắp máy lớn hơn 30MW và nhỏ hơn hoặc bằng 100MW.
14
14


1.1.2. Đặc điểm của thủy điện vừa và nhỏ
Nhìn chung, thủy điện vừa và nhỏ vừa có những nét tương đồng vừa mang
những đặc điểm rất khác biệt so với thủy điện lớn. Chính những đặc điểm này đã tạo
nên những nét riêng cho dạng thủy điện này.
Thứ nhất, thủy điện vừa và nhỏ có quy mô thủy điện không lớn.
Quy mô của các công trình thủy điện vừa và nhỏ thường là có các con đập
hình thành không cao, khối lượng xây dựng công trình thủy điện nhỏ cùng với các
đường hầm thấp và công suất lắp đặt của máy phát điện là dưới 30 MW. Tổ máy của
thủy điện vừa và nhỏ có số lượng thông thường từ 2 đến 3 tổ máy, máy biến áp,
trạm phân phối điện và cần đường dây tải điện là 35 kV hoặc 110 kV.
Với đặc điểm đó, các nhà đầu tư triển khai thi công và vận hành với mục tiêu
hoàn thành nhanh, sớm. Trong đó, thời gian thi công các nhà mày thủy điện vừa và
nhỏ ngắn vào khoảng 2 đến 3 năm là có thể đưa nhà máy vào vận hành phát điện.
Thứ hai, diện tích lưu vực của thủy điện là nhỏ.
Thủy điện vừa và nhỏ sử dụng các hồ chứa nhỏ với dung tích nước nhỏ hoặc
các nhà máy không sử dụng hồ chứa. Nhờ việc xây dựng trên các con sông, suối, đại
đa số các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ hoạt động nhờ lưu lượng nước cơ bản được

hình thành từ đập dâng.
Chính điểm này là “Gót chân Achilles” của thủy điện vừa và nhỏ. Do được
xây dựng trên các sông suối nhỏ nên thủy điện vừa và nhỏ thường không có hồ chứa
hoặc có hồ chứa với dung tích nhỏ nên chỉ làm được nhiệm vụ phát điện. Khi lượng
nước đổ về quá lớn, do hạn chế về mặt hồ chứa nên nhà máy thủy điện vừa và nhỏ
không tích nước cắt lũ được mà phải xả lũ trực tiếp xuống vùng hạ du. So với thủy
điện lớn vừa làm nhiệm vụ phát điện vừa có chức năng cắt lũ cho hạ du, thủy điện
vừa và nhỏ đang tồn tại với yếu điểm lớn nhất của mình. Chính vì vậy, khi xây dựng
nhà máy thủy điện vừa và nhỏ phải có sự khảo sát địa hình, quan trắc, đánh giá tác
động môi trường một cách toàn diện để tránh gây ra thiệt hại đáng tiếc cho hạ du.
Thứ ba, thủy điện vừa và nhỏ có mặt bằng xây dựng không lớn.
15
15


Thủy điện vừa và nhỏ có quy mô thủy điện nhỏ nên không cần nhiều diện
tích đất và khối lượng xây dựng trên các con sông, suối. Chính vì vậy, để xây dựng
thủy điện, các diện tích rừng phục vụ cho công trình là không nhiều so với thủy điện
lớn, hạn chế việc chặt phá, xâm lấn tới rừng.
Khi xây dựng thủy điện lớn, diện tích rừng, diện tích đất nông nghiệp và địa
bàn cư trú của người dân bị chiếm dụng rất lớn để tạo diện tích cho hồ chứa có khi
lên đến hàng nghìn hecta. Ngược lại, thủy điện nhỏ không chiếm dụng nhiều diện
tích đất nên thích hợp xây dựng ở các địa phương miền núi để tận dụng thế năng tại
đây.
Thứ tư, thủy điện vừa và nhỏ có hiệu quả đầu tư không cao.
Việc đầu tư các dự án thủy điện hầu hết rất phức tạp vì thường các nhà máy
thủy điện được xây dựng ở vùng sâu, vùng xa, nơi có các điều kiện đi lại khó khăn
ảnh hưởng lớn đến việc vận chuyển vật liệu xây dựng,… Khó khăn thêm nữa ở việc
truyền tải điện năng từ nơi các nhà máy thủy điện do hạ tầng không đồng bộ giữa
các khu vực. Vì vậy, làm thủy điện vừa và nhỏ phải cân đối giữa chủ trương đầu tư

và hiệu quả đầu tư.
1.1.3. Vai trò của thủy điện vừa và nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, hiệu quả về mặt kinh tế. Thủy năng là nguồn năng lượng rất dồi
dào. Các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ không phải phụ thuộc vào sự nhập khẩu và
giá thành của các loại nhiên liệu như than đá, dầu mỏ, khí hóa lỏng của nhiệt điện
hay nhiên liệu Uranium để vận hành nhà máy điện hạt nhân. Đồng thời, nhà máy
thủy điện sử dụng chi phí rất thấp khi đưa vào hoạt động do được tự động hóa cao.
Thứ hai, hiệu quả về môi trường. Thủy điện dùng năng lượng là năng lượng
tái tạo, không phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính như nhiệt điện ảnh hưởng khí hậu
toàn cầu. Một số công trình nghiên cứu đã xếp thủy điện vào vị trí ít tạo ra khí thải
nhà kính nhất, tiếp đến là điện gió, điện hạt nhân và cuối cùng là điện mặt trời. Do
đó có thể coi đây là nguồn năng lượng sạch.
Thứ ba, thủy điện vừa và nhỏ góp phần điều tiết nước sinh hoạt, sản xuất cho
hạ du, đưa những vùng đất hoang hóa cằn cọc thành những ruộng vườn màu mỡ,
16
16


xanh tốt. Các nhà máy thủy điện nhỏ đã cùng với các hồ thủy lợi làm tốt nhiệm vụ
cải tạo đất, điều tiết nước, dẫn nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, sinh
hoạt. Đây cũng là địa điểm thích hợp để phát triển du lịch sinh thái với phong cảnh
hữu tình góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Thứ tư, các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ đã góp phần cùng chính quyền địa
phương trong phong trào xây dựng Nông thôn mới. Do được phát triển ở địa bàn
vùng sâu vùng xa, vùng gặp nhiều khó khăn về kinh tế xã hội nên việc xây dựng nhà
máy thủy điện đã kéo theo việc xây dựng các công trình giao thông như đường xá,
cầu cống; đường dây dẫn điện… Đồng thời, thông qua xây dựng các nhà máy thủy
điện vừa và nhỏ, người dân địa phương nhận được cơ hội có công ăn việc làm, phát
triển các loại hình dịch vụ phục vụ cho công trình.
Do đó, không thể phủ nhận việc các nhà máy thủy điện đưa vào vận hành đã

đóng góp một phần lớn vào nguồn thu ngân sách của các tỉnh có công trình thủy
điện. Thêm vào đó, nguồn điện tạo ra đã góp phần điện khí hóa nông thôn, đưa điện
về tận các bản, làng, các địa phương có địa hình hiểm trở và trở thành trợ lực để
thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, các nhiệm vụ kinh tế xã hội quan trọng của địa
phương và đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, thủy điện vừa và nhỏ cũng ẩn
chứa những tác động tiêu cực khôn lường:
Thứ nhất, việc xây dựng thủy điện dù ít hay nhiều đều chiếm dụng diện tích
đất rừng, đất sản xuất, sinh hoạt. Rừng đầu nguồn bị ảnh hưởng nghiêm trọng đã để
lại những hậu quả vô cùng to lớn cho môi trường sinh thái, làm mất đi khả năng cản
lũ bảo vệ vùng hạ du, phá hủy môi trường sống của các loài động thực vật. Mất rừng
sẽ dẫn những hậu quả nghiêm trọng: lũ đầu nguồn sẽ diễn biến thất thường và
cường độ rất khó dự báo; mất cân bằng sinh thái và tác động rất lớn đến cuộc sống
của người dân trong vùng chịu ảnh hưởng từ công trình thủy điện.
Đồng thời, việc di dân, tái định cư cho người dân thuộc diện di dời để xây
dựng công trình thủy điện đã tác động không nhỏ đến văn hóa – xã hội của địa
phương. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử cùng với việc tạo việc làm tái
17
17


sản xuất cho người dân không phải là vấn đề đơn giản với việc phải tìm diện tích
canh tác lớn để bố trí và xây dựng nơi ở cho các hộ tái định cư. Đối với trường hợp
những người nông dân sau tái định cư phải kiếm sống bằng những nghề phi nông
nghiệp nếu không có chính sách dạy nghề, hỗ trợ việc làm thì cuộc sống của người
dân sẽ vô cùng khó khăn.
Thứ hai, việc thủy điện chặn dòng tích nước để phát điện đã làm cho dòng
sông sau đập của nhà máy thủy điện trở thành dòng sông chết, ảnh hưởng đến sinh
hoạt, sản xuất của người dân. Dòng sông trở thành con lạch nhỏ đã làm nhiều hộ
sống bằng nghề đánh bắt cá từ nhiều năm nay phải tìm kế khác để sinh nhai. Vấn

nạn thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô trở nên trầm trọng cùng với việc ô nhiễm
môi trường, lây lan dịch bệnh đã làm xáo trộn cuộc sống yên bình vốn có của người
dân miền núi.
Thứ ba, các sự cố, tai nạn không mong muốn trong quá trình thi công, xây
dựng, vận hành đều gây ra những thiệt hại không thể ước tính cho người dân và đất
nước, sự biến đổi địa chất kéo theo nguy cơ động đất luôn gây bất an cho cư dân
vùng hạ du công trình thủy điện. Thực tế chứng minh động đất đã xảy ra tại khu vực
huyện miền núi Bắc Trà My, Nam Trà My tỉnh Quảng Nam là động đất kích thích từ
việc tích nước của thủy điện Sông Tranh 2 gây ra.
Thứ tư, việc xây dựng các công trình giao thông dẫn vào nhà máy thủy điện
đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho lâm tặc phá rừng với tần suất và quy mô lớn
hơn. Nếu trước đây chúng phá rừng nhỏ lẻ thì với đường giao thông xây dựng sẵn,
lâm tặc có thể ngang nhiên dùng xe công nông kéo gỗ ra khỏi rừng một cách tiện lợi
và không phải lén lút luồn rừng như trước.
Trước những tác động trên, chính quyền địa phương cùng với các bộ ngành
phải có sự nghiên cứu kĩ lưỡng, cân đối giữa các lợi ích trước khi tiến hành quy
hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành, khai thác công trình thủy điện nói chung, thủy
điện vừa và nhỏ nói riêng.
1.2. Một số vấn đề lý luận thực hiện chính sách quản lý thủy điện vừa và
nhỏ
18
18


1.2.1. Một số khái niệm nghiên cứu
- Khái niệm chính sách:
Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Chính sách là các chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian
nhất định trên những lĩnh vực cụ thể.”[34]
Chính sách có khái niệm như là “một cách hay một quan điểm hành thực hiện

được đặt ra bởi cơ quan nắm quyền, tổ chức chính trị, cơ quan tổ chức hay cá nhân”
- Theo Từ điển Oxford.[38]
Chính sách là bất cứ việc làm do các tổ chức thực hiện việc hành pháp hoặc
các tổ chức công chọn để thực hiện, hoặc không thực hiện. Theo quan điểm của học
giả Colebatch, việc thực hiện hoặc không thực hiện cũng ảnh hưởng đến các vấn đề
diễn ra trong xã hội.[39]
Chính sách là những hoạt động thực hiện có sự lựa chọn với tầm nhìn đã có,
chọn việc thực hiện theo những gì đã được đặt ra - Theo học giả Considine. [40]
Như vậy, chúng ta rất khó trong việc xác định cụ thể khái niệm về chính sách.
Các chính sách được định nghĩa khác nhau trong từng thời điểm khác nhau và cách
tiến hành xây dựng cũng như thực thi khác nhau. Các chính sách có thể biểu hiện
thông qua những quyết định đơn lẻ hoặc bao gồm một chuỗi các quyết định có liên
quan đến nhau hoặc một định hướng rõ ràng nào đó. Chính sách cũng đang là vấn
đề nghiên cứu của các nhà khoa học nhằm đưa ra khái niệm chung nhất làm căn cứ
để xây dựng hệ thống luận cứ, luận điểm về chính sách rõ ràng.
- Khái niệm chính sách công:
Nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước do nhân dân trao cho nhằm
quản lý xã hội phục vụ sự phát triển chung của đất nước. Nhà nước sử dụng nhiều
công cụ nhằm thực hiện chức năng của mình trong đó một công cụ quan trọng chính
là chính sách. Chính sách của nhà nước không chỉ tác động đến một khu vực, một
bộ phận dân cư nhất định, mà tác động rộng khắp đến mọi đối tượng, mọi quá trình
19
19


trên phạm vi toàn quốc. Tác động của nhà nước đến các đối tượng có thể mang tính
chính trị, hành chính, kinh tế hay kỹ thuật được lồng ghép vào các cơ chế quản lý
điều hành thống nhất. Đồng thời trong những thời kỳ phát triển khác nhau, chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước cũng có sự thay đổi một cách thích hợp, vì thế mà
chính sách công cũng được tiếp cận từ các góc độ khác nhau.

Theo PGS.TS. Hồ Việt Hạnh, Chính sách công là những quyết định của chủ
thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của
cộng đồng.[21]
PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải quan niệm rằng: “Chính sách công là kết quả ý chí
chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan
với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn
đề công trong xã hội.[19]
Theo PGS.TS. Văn Tất Thu, Chính sách công là chính sách của nhà nước đối
với khu vực công cộng, phản ánh bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính
trị trong đó nhà nước tồn tại; đồng thời phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử
sự của đảng chính trị phục vụ cho mục đích của đảng, lợi ích và nhu cầu của nhân
dân. [29]
Theo Đỗ Phú Hải (2014), chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị
của một nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực
hiện để giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng chính
trị cầm quyền. [20]
Như vậy, có thể định nghĩa chính sách công là cách thức hành động do nhà
nước lựa chọn và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để giải
quyết một vấn đề phát sinh trong một giai đoạn nhất định, định hướng cho xã hội
phát triển một cách thống nhất theo mong muốn của nhà nước. Nội dung của một
chính sách có thể được ghi nhận lại dưới nhiều hình thức khác nhau (vật mang chính
sách) như các văn bản quy phạm pháp luật, các bài phát biểu của lãnh đạo, các báo
cáo tường trình…. Tuy nhiên hình thức thể hiện quan trọng nhất của các chính sách
20
20


công chính là pháp luật hay nói cách khác, pháp luật chính là sự thể chế hóa về mặt
nhà nước của chính sách.
Chính sách công được xem là một trong những công cụ thực hiện hiệu quả

công tác quản lý trên mọi mặt đời sống xã hội. Với một hệ thống có sự liên kết mật
thiết, chính sách công sẽ hướng tới hoàn thiện sự phát triển của quốc gia thông qua
giải quyết tốt nhất các vấn đề của xã hội, ảnh hưởng tới các hoạt động của các đối
tượng trong xã hội để định hướng cho các hoạt động này theo mong muốn của nhà
nước. Tuy nhiên, để chính sách công thực sự là công cụ thúc đẩy sự phát triển xã
hội, nhà nước khi ban hành và thực thi chính sách công cần nghiên cứu và xem xét
các quy luật vận động khách quan của xã hội, không chỉ dựa vào ý chí chủ quan của
nhà nước.
- Khái niệm, nội dung chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ trên địa
bàn cấp tỉnh
+ Từ khái niệm chung về chính sách công, khái niệm quản lý thủy điện vừa
và nhỏ có thể được hiểu như sau: Chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ là cách
thức hành động do nhà nước lựa chọn và được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành để đảm bảo các hoạt động thủy điện vừa và nhỏ diễn ra đúng quy
định của pháp luật góp phần bảo vệ cuộc sống của người dân, môi trường và khai
thác tối ưu các hiệu quả về kinh tế của lĩnh vực này.
Do đặc thù thủy điện là lĩnh vực được sự điều chỉnh, quản lý của nhiều cơ
quan từ Trung ương đến địa phương với nhiều chủ thể khác nhau; chính vì vậy,
trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc thực hiện
chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ của UBND cấp tỉnh.
Nội dung chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ:
Căn cứ Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về Tăng
cường công tác quản lí quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình
thủy điện và Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 18/02/2014 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 62/2013/QH13, đồng
21
21


thời dựa vào kiến thức lý luận của khoa học chính sách quản lý có thể khái quát một

số nội dung chính sách quản lý thủy điện vừa và nhỏ như sau:
Một là, tổ chức thực hiện và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý thủy điện vừa và nhỏ
Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật của Trung ương về quản lý an toàn
đập, công tác bảo vệ môi trường, vận hành hồ chứa, quản lý chất lượng công trình
thủy điện vừa và nhỏ.
Chính quyền địa phương trực tiếp xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật về quy hoạch phát triển thủy điện nhỏ trên
địa bàn, phương án phòng chống lũ lụt cho vùng hạ du của các nhà máy thủy điện
vừa và nhỏ do ngành Công thương tỉnh phụ trách quản lý.
Ban hành các phương án về bồi thường, hỗ trợ tái định cư trong việc thu hồi
đất để xây dựng công trình thủy điện và trồng rừng thay thế diện tích rừng đã mất
do làm công trình thủy điện và quản lý theo dõi việc đóng phí dịch vụ môi trường
rừng (DVMTR) của các chủ đầu tư.
Hai là, công tác lập quy hoạch và quản lý quy hoạch thủy điện vừa và
nhỏ
Công tác lập quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ được tiến hành nhằm khảo sát
các vị trí có trữ năng phát điện nhằm đưa vào quy hoạch thủy điện chung của địa
phương. Đồng thời, công tác này đảm bảo quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ của địa
phương phù hợp với quy hoạch bậc thang thủy điện và quy hoạch thủy điện chung
của cả nước đã được cấp có thẩm quyển phê duyệt.
Theo thẩm quyền được phân cấp, UBND tỉnh có thẩm quyền lập quy hoạch
thủy điện nhỏ trên địa bàn tỉnh. Đối với dự án thủy điện nhỏ nằm trên địa bàn từ 2
tỉnh trở lên, UBND tỉnh nơi dự kiến bố trí nhà máy thủy điện thống nhất với UBND
các tỉnh có liên quan để tổ chức lập quy hoạch. Trường hợp UBND các tỉnh liên
quan không thống nhất, UBND tỉnh nơi dự kiến bố trí nhà máy thủy điện có văn bản
báo cáo Bộ Công Thương xem xét giải quyết.
22
22



Lập quy hoạch và quản lý quy hoạch thủy điện phải dựa trên các quy định
hiện hành về xây dựng, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường và các quy định khác có
liên quan.
Trong quá trình quản lý quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ đã lập cần rà soát,
điều chỉnh, bổ sung, loại bỏ khỏi quy hoạch những dự án thủy điện không có tính
khả thi về kinh tế và không đảm bảo các điều kiện về môi trường.
Ba là, quản lý đầu tư xây dựng các dự án thủy điện vừa và nhỏ
Quản lý công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án, thi công xây dựng công
trình theo quy định của pháp luật. Đồng thời, quản lý việc thay đổi tư cách pháp
nhân, năng lực của chủ đầu tư về tài chính, quy mô, tiến độ của dự án trong quá
trình đầu tư.
Việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện phải đảm bảo: tuân thủ các quy
định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường và các
quy định có liên quan khác; tuân thủ quy hoạch thủy điện và phù hợp quy hoạch
phát triển điện lực được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các vấn đề liên quan đến thay đổi về tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, quy
mô, nhiệm vụ, tiến độ của dự án thủy điện trong quá trình đầu tư xây dựng phải
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan cho phép bằng văn bản trước
khi triển khai thực hiện.
Bốn là, quản lý vận hành, khai thác công trình thủy điện vừa và nhỏ
Quy trình vận hành hồ chứa thủy điện phải được cấp có thẩm quyền phê
duyệt trước khi hồ chứa tích nước hồ chứa lần đầu, trên cơ sở kết quả nghiên cứu
đầu tư và thiết kế xây dựng công trình, theo đúng quy định của pháp luật.
Việc lập quy trình vận hành hồ chứa do chủ đầu tư dự án chủ trì, phối hợp với
cơ quan tư vấn có chức năng thiết kế dự án thủy điện phù hợp thực hiện.
Quản lý vận hành, điều tiết việc xã lũ nhằm đảm bảo an toàn cho vùng hạ du.
Đồng thời tuân thủ quy trình vận hành hồ chứa đã được phê duyệt và giảm thiểu các
tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và xã hội. Trong đó, đặc biệt quan
23

23


tâm thực hiện các quy định về công tác chuẩn bị phòng, chống lũ; vận hành xả lũ,
phát điện; xả dòng chảy tối thiểu cho hạ du; chế độ phối hợp, thông tin, báo cáo theo
quy định.
Năm là, quản lý, bảo vệ môi trường tài nguyên đối với công trình thủy
điện vừa và nhỏ
Thực hiện việc thẩm định và phê duyệt Cam kết bảo vệ môi trường của các
công trình thủy điện vừa và nhỏ. Cam kết bảo vệ môi trường là hồ sơ pháp lý nhằm
ràng buộc trách nhiệm giữa nhà đầu tư về môi trường với cộng đồng và cơ quan
quản lý. Theo đó, các nguồn ảnh hưởng đến môi trường của dự án thủy điện vừa và
nhỏ được đánh giá chi tiết, từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi
trường.
Tổ chức thực hiện việc trồng rừng thay thế diện tích đất rừng đã mất do thực
hiện công trình thủy điện. Các dự án đầu tư thủy điện nếu chưa có phương án đầu
tư trồng rừng thay thế thì chưa chấp thuận đầu tư dự án thủy điện. Các dự án đầu tư
thủy điện phải bố trí vốn để trồng rừng, nếu không tự quản lý được thì ủy thác cho
quỹ bảo vệ phát triển rừng của tỉnh hoặc quỹ bảo vệ phát triển rừng Việt Nam thực
hiện. Về nguyên tắc, chưa có phương án đầu tư trồng rừng thay thế thì chưa chấp
thuận đầu tư dự án thủy điện. Rừng bị mất bao nhiêu thì phải trồng bù lại bấy nhiêu,
nếu trong huyện không còn đất để trồng rừng thì tỉnh bố trí trồng rừng thay thế ở
huyện khác; nếu tỉnh không còn đất để trồng rừng thì báo cáo Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn để bố trí đất ở tỉnh khác.
Sáu là, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, định canh đối với
người dân bị ảnh hưởng, thiệt hại do thi công xây dựng dự án thủy điện
Thực hiện chủ trương của nhà nước xây dựng các công trình thủy điện, người
dân sống trong vùng chịu ảnh hưởng của công trình phải nhường đất ở, đất sản xuất
từ bao đời nay của mình cho thủy điện. Vì thế các chủ đầu tư phải có trách nhiệm
bồi thường, tái định cư, định canh đối với người dân bị ảnh hưởng, thiệt hại do thi

công xây dựng dự án thủy điện.
24
24


Phần lớn các công trình thủy điện được xây dựng ở các khu vực miền núi
hiểm trở, nơi có đông đồng bào dân tộc ít người sinh sống thì vấn đề tái định cư
không chỉ đơn thuần là đưa bà con đến nơi ở mới mà phải hỗ trợ tái sản xuất, có
chính sách dài hạn để bà con ổn định cuộc sống. Đồng thời, cần phát huy bảo vệ các
giá trị văn hóa đáng quý của bà con nhân dân. Công việc này không chỉ là trách
nhiệm mà còn là nghĩa vụ, bổn phận của các chủ đầu tư dự án, công trình thủy điện.
Nhận thấy tầm quan trọng của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
định canh đối với nhân dân bị ảnh hưởng, thiệt hại do thi công xây dựng dự án thủy
điện; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về
Bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá
đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Bảy là, kiểm tra, giám sát đối với các dự án, công trình thủy điện vừa và
nhỏ
Công tác kiểm tra, giám sát thường tập trung vào các nội dung liên quan đến
việc thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng, vận hành khai thác
các dự án, công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh; việc phòng chống lụt bão của các
công trình thủy điện vừa và nhỏ, xử lý vi phạm về an toàn đập, hồ chứa thủy điện;
nhiệm vụ bảo vệ môi trường của các dự án, công trình thủy điện.
Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện những vi phạm của tổ
chức, cá nhân trong triển khai các dự án thủy điện để kiến nghị xử lý theo quy định;
nhằm phát hiện những sai sót trong công tác cấp phép và đề nghị khắc phục. Hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra sẽ góp phần làm giảm tình trạng sai phạm trong
phát triển và vận hành thủy điện; nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh
nghiệp cũng như của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đồng thời, thông qua công

tác thanh tra, kiểm tra nhiều bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật về phát
triển thủy điện vừa và nhỏ sẽ được phát hiện và kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp.
25
25


×