Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ trong xử lý nước thải lò giết mổ gia súc bằng công nghệ keo tụ – tạo bông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.09 KB, 10 trang )

Số 59 - Tháng 7/2018

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ trong xử lý nước thải
lò giết mổ gia súc bằng cơng nghệ keo tụ – tạo bơng
A study on Auxiliary Coagulant Dosage for Slaughter-House Wastewater Treatment
by Coagulation-Flocculation Technology
ThS. Lê Hồng Việt, Trường Đại học Cần Thơ
Le Hoang Viet, M.Sc., Can Tho University
Nguyễn Thị Huyền Trân, Trường Đại học Cần Thơ
Nguyen Thi Huyen Tran, Can Tho University
Hồng Thị Hiếu, Trường Đại học Cần Thơ
Hoang Thi Hieu, Can Tho University
PGS.TS. Nguyễn Võ Châu Ngân, Trường Đại học Cần Thơ
Nguyen Vo Chau Ngan, Assoc. Prof., Ph.D., Can Tho University
Tóm tắt
Nghiên cứu này được tiến hành ở qui mơ phòng thí nghiệm nhằm khảo sát liều lượng chất trợ keo tụ
phù hợp để xử lý nước thải lò giết mổ - một loại nước thải chứa nhiều SS và chất hữu cơ dễ phân hủy
sinh học. Các kết quả nghiên cứu trên mơ hình Jartest cho thấy, hiệu quả keo tụ - tạo bơng nước thải lò
giết mổ với 225 mg/L PAC kết hợp 3 mg/L polymer là tốt nhất, hiệu suất loại bỏ COD đạt 84,91%, độ
đục đạt 99,55%. Áp dụng các thơng số lựa chọn trên vào mơ hình bể keo tụ - tạo bơng, chúng tơi thấy,
hiệu suất xử lý COD và Ptổng của nước thải lần lượt đạt 73,39% và 79,31%. Chất lượng nước thải sau xử
lý keo tụ - tạo bơng phù hợp để đưa sang cơng đoạn xử lý sinh học tiếp theo.
Từ khóa: bộ Jartest, chất trợ keo tụ, keo tụ - tạo bơng, nước thải lò giết mổ.
Abstract
This research was conducted at a lab scale model to find out the optimum quantity of auxiliary
coagulant for treating slaughter-house wastewater - a source of wastewater with high concentration of
SS and bio-degradable organic compounds. The results of the Jartest testing showed that slaughterhouse wastewater coagulated and flocculated with 225 mg/L PAC, combined with 3 mg/L cationicpolymer, getting the optimum removal efficiency of turbidity at 99.55%, and COD at 84.91%. Applied
the chosen parameters into the coagulation-flocculation pilot testing, the treatment efficiency of Ptotal
and COD were 79.31% and 73.39%, respectively. The treated wastewater after coagulation-flocculation


process has enough nutrients to access into the next biological treatment steps.
Keywords: Jartest apparatus, auxiliary coagulant, coagulation-flocculation, slaughter-house wastewater.

28


LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN

hành bể keo tụ - tạo bông trong xử lý nước
thải có nồng độ ô nhiễm cao từ các lò giết
mổ, góp phần bảo vệ môi trường.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng
nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại các
phòng thí nghiệm của Bộ môn Kỹ thuật
Môi trường, Khoa Môi trường và Tài
nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học Cần
Thơ trong khoảng thời gian từ tháng 01
đến tháng 4 năm 2017.
Đối tượng thí nghiệm là nước thải của
hoạt động giết mổ (chủ yếu giết mổ heo)
được thu thập từ hố thu nước thải của cơ
sở chế biến thực phẩm tại phường An
Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ. Thời gian lấy mẫu khoảng 5 giờ sáng
hàng ngày.
2.2. Hóa chất, thiết bị
2.2.1. Hóa chất
Chất keo tụ gồm phèn sắt

[FeCl3.6H2O] độ tinh khiết ≥ 99% và PAC
[Aln(OH)mCl3n-m] độ tinh khiết ≥ 30%; cả
hai đều có xuất xứ Trung Quốc.
Chất trợ keo tụ được sử dụng là
polymer cation specfloc C-1492 HMW,
Anh quốc.
2.2.2. Thiết bị
Thiết bị Jartest: các thí nghiệm xác
định thông số vận hành của chất keo tụ
thực hiện trên bộ Jartest ET750 Lovibond
với cốc chứa 1 L.
Mô hình bể keo tụ - tạo bông: thiết kế
với lưu lượng nước thải Q = 0,4 L/phút
bằng thủy tinh dày 5 mm, có hệ thống cánh
khuấy truyền động bằng motor. Mô hình có
hai phần kết hợp với nhau: (i) bể keo tụ
(gồm 1 ngăn khuấy trộn hóa chất và 2 ngăn
tạo bông), và (ii) bể lắng cơ học theo
phương ngang.

1. Giới thiệu
Hiện nay đời sống vật chất của con
người được nâng cao dẫn đến nhu cầu tiêu
thụ hàng hóa trong đó có lương thực, thực
phẩm ngày càng tăng. Một trong những
nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho
con người là các sản phẩm chế biến từ thịt
gia súc, gia cầm. Vì vậy, các hoạt động
nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm diễn ra
ngày càng nhiều với qui mô lớn để đáp ứng

nhu cầu này.
Lượng nước trung bình sử dụng để giết
mổ một con heo có thể lên đến 0,5 m3 sinh
ra nước thải chứa chất hữu cơ, các chất rắn
như vụn xương, thịt vụn, mỡ, lông, móng,
phân… Nồng độ BOD5 của nước thải giết
mổ gia súc, gia cầm có thể lên đến 1.800
mg/L, COD là 2.700 mg/L và SS là 810
mg/L (Lâm Minh Triết và ctv., 2008). Với
tải lượng các chất ô nhiễm cao, nước thải
giết mổ cần được xử lý phù hợp để không
gây ô nhiễm nguồn tiếp nhận. Nhưng hiện
nay, hầu hết các cơ sở giết mổ gia súc, gia
cầm chưa có hệ thống xử lý nước thải hoặc
đã có song vận hành chưa hiệu quả.
Ở Việt Nam, để loại bỏ phần lớn chất
rắn lơ lửng và dầu mỡ cùng một phần chất
hữu cơ trong nước thải lò giết mổ, Lâm
Minh Triết và ctv. (2008) đã đề xuất các
hình thức xử lý bao gồm tuyển nổi, keo tụ tạo bông. Hà và Hương (2017) đã nghiên
cứu xử lý nước thải lò giết mổ bằng quy
trình keo tụ và ghi nhận các loại phèn
nhôm có hiệu suất xử lý chất hữu cơ và
dưỡng chất trên 90%. Tuy nhiên, chưa có
ghi nhận về những nghiên cứu sử dụng
chất trợ keo tụ để làm tăng hiệu suất xử lý
nước thải lò giết mổ.
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm
tìm ra liều lượng chất trợ keo tụ phù hợp về
mặt kỹ thuật và kinh tế, để thiết kế và vận

29


KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC…

Bảng 1. Thông số thiết kế của mô hình
Bể keo tụ
Thông số

Ngăn trộn
hóa chất

Ngăn khuấy
nhanh

Ngăn khuấy
chậm

Ngăn lắng

Thời gian phản ứng (phút)

1-2

10 - 30

10 - 30

-


Thời gian lưu (phút)

1,5

13

13

60

Thể tích (L)

0,6

5,2

5,2

24

0,1 × 0,1

0,15 × 0,175

0,15 × 0,175

0,15 × 0,8

Chiều cao mực nước (m)


0,06

0,2

0,2

20

Vận tốc khuấy (vòng/phút)

150

80

40

-

Kích thước (m × m)

Hình 1. Sơ đồ bố trí các thí nghiệm định hướng trên bộ Jartest
30


LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN

Thiết bị phân tích mẫu: các chỉ tiêu
đầu vào và đầu ra của mẫu nước được
phân tích bằng những phương pháp phù
hợp với tiêu chuẩn theo quy định của

APHA, AWWA, WEF (2005) tại các
phòng thí nghiệm Kỹ thuật Môi trường,
Đại học Cần Thơ.
3. Kết quả - thảo luận

3.1. Thành phần và tính chất nước
thải lò giết mổ
Mẫu nước thải được lấy tại hố thu nước
thải của lò giết mổ trong 03 ngày liên tiếp
(từ 15 - 17/01/2017) để phân tích các chỉ
tiêu ô nhiễm làm cơ sở cho việc xem xét đặc
điểm của nước thải có phù hợp với phương
án xử lý được đề xuất hay không.

Bảng 2. Thành phần, đặc điểm của nước thải thí nghiệm
Chỉ tiêu
pH
DO
Độ đục
SS
BOD5
COD
TKN
Ptổng
Tổng Coliform

Đơn vị
mg/L
NTU
mg/L

mg/L
mg/L
mg/L
mg/L
MPN/100 mL

Nồng độ trung bình
(n = 3)

QCVN 62-MT:2016
/BTNMT (cột B)*

6,51 ± 0,02
0,13 ± 0,11
633,33 ± 34,12
214,80 ± 26,57
1523,30 ± 64,26
2649,00 ± 565,77
151,54 ± 36,15
32,00 ± 2,00
4,90×105 ± 0,75×105

5,5 - 9,0
150
100
300
150
5.000

Note: * Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi


Về cảm quan, nước thải có màu đỏ của
máu, nhiều cặn lơ lửng, mỡ, lông và có mùi
hôi. Kết quả phân tích cho thấy, nước thải
bị ô nhiễm hữu cơ, hàm lượng cặn lơ lửng
và máu cao cần phải có biện pháp xử lý sơ
cấp phù hợp để giảm tải cho công đoạn xử
lý sinh học. Nước thải có pH nằm trong
khoảng 6,5 - 7,5 thích hợp cho việc sử dụng
FeCl3.6H2O và PAC keo tụ nước thải.
3.2. Kết quả thí nghiệm định hướng
Thí nghiệm định hướng được thực
hiện một lần trên bộ Jartest để chọn loại và
liều lượng phèn thích hợp cho keo tụ nước
thải lò giết mổ. Thí nghiệm tiến hành với
liều lượng FeCl3.6H2O được thay đổi ở các
khoảng liều lượng biến thiên từ 400 đến

650 mg/L, đối với PAC là từ 150 đến 400
mg/L (mỗi mức liều lượng cách nhau 50
mg/L). Trong quá trình thí nghiệm, quan
sát bông cặn và quá trình lắng, lấy mẫu
nước đo độ đục để đánh giá hiệu quả keo tụ
và phân tích COD của mẫu nước thải có độ
đục thấp nhất để đánh giá khả năng loại bỏ
chất hữu cơ của biện pháp keo tụ.
Đối với thí nghiệm keo tụ bằng phèn
sắt, khi cho FeCl3.6H2O vào khuấy và để
lắng các bông cặn bắt đầu hình thành, từ
liều lượng 400 mg/L đến 550 mg/L

FeCl3.6H2O các bông cặn lớn dần và lắng
tốt, độ đục của nước thải sau keo tụ giảm
mạnh. Độ đục của nước thải giảm là do
FeCl3.6H2O tạo nên các ion Fe3+ có khả
31


KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC…

năng trung hòa điện tích các hạt keo, làm
mất tính ổn định của các hạt keo, do đó các
hạt keo có thể kết với nhau tạo thành bông
cặn và lắng xuống. Thêm vào đó,
FeCl3.6H2O còn tạo các phức hay phản ứng
với alkalinity của nước thải, hình thành
Fe(OH)3 kết tủa hấp phụ các hạt keo và kéo
theo chất rắn lơ lửng trong nước thải lắng
xuống. Ở liều lượng từ 550 mg/L đến 650
mg/L tạo các bông cặn lớn hơn và lắng
nhanh, tuy nhiên độ đục của nước thải sau
keo tụ tăng trở lại, điều này cho thấy hiệu
quả keo tụ của FeCl3.6H2O giảm khi liều

lượng phèn thêm vào bị dư. Điều này là do
khi sử dụng chất keo tụ quá liều, lượng
Fe3+ trong nước tăng cao các hạt keo hút
nhiều các ion Fe3+ sẽ tái ổn định (mang
điện tích dương của ion Fe3+); thêm vào đó
ở liều lượng cao các bông cặn phát triển
quá lớn, lắng nhanh và bỏ sót lại các bông

cặn nhỏ làm độ đục tăng.
Tương ứng với độ đục thấp nhất đạt
được ở liều lượng 550 mg/L FeCl3.6H2O,
khi đó COD giảm từ 2750 mg/L xuống còn
1150 mg/L, đạt hiệu suất loại COD là
58,18%.

Hình 2. Độ đục của nước thải và hiệu suất xử lý ở các mức liều lượng FeCl3.6H2O khác nhau

Hình 3. Độ đục của nước thải và hiệu suất xử lý ở các mức liều lượng PAC khác nhau
32


LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN

tăng giảm có cơ chế giống thí nghiệm
FeCl3.6H2O nhưng PAC tạo ra các ion Al3+
và Al(OH)3. Độ đục thấp nhất đạt được ở
liều lượng PAC là 250 mg/L, khi đó COD
giảm từ 2750 mg/L xuống còn 1250 mg/L
đạt hiệu suất loại COD là 54,55%.
Kết quả thí nghiệm cho thấy hiệu quả
loại bỏ COD và độ đục của FeCl3.6H2O tốt
hơn PAC, nhưng việc lựa chọn loại phèn
nào để áp dụng còn phụ thuộc vào chi phí
hóa chất. Tính toán chi phí hóa chất sử
dụng cho quá trình xử lý như Bảng 3.

Đối với thí nghiệm keo tụ bằng PAC,
khi cho PAC vào nước thải khuấy và để

lắng, các bông cặn hình thành và phát triển
dần: liều lượng PAC từ 150 mg/L đến 250
mg/L, cho các bông cặn lớn và khả năng
lắng tốt độ đục giảm rõ rệt; ở liều lượng
PAC từ 250 mg/L đến 400 mg/L, tạo các
bông cặn lớn hơn và lắng nhanh nhưng
trong nước còn nhiều cặn lơ lửng nhỏ
không kết vào bông cặn lớn nên độ đục của
nó tăng cao. Sau khi keo tụ nước thải vẫn
còn màu đỏ của máu. Độ đục của nước thải
3.2. Kết quả xử lý COD, TSS, độ màu

Bảng 3. So sánh chi phí hóa chất sử dụng cho thí nghiệm
Hóa chất keo tụ

Liều lượng sử dụng
(mg/L)

Đơn giá hóa chất
(đồng/kg)

Chi phí xử lý
(đồng/m3)

FeCl3.6H2O

550

42.000


23.100

PAC

250

17.000

4.250

COD của quá trình keo tụ. Thí nghiệm này
tiến hành trên bộ Jartest với liều lượng chất
keo tụ PAC cố định ở tất cả các cốc là 250
mg/L, liều lượng chất trợ keo tụ polymer
bổ sung vào các cốc biến thiên từ 2 - 4
mg/L. Trong quá trình thí nghiệm, quan sát
quá trình tạo bông, lắng, lấy mẫu nước đo
pH, độ đục và COD làm cơ sở để đánh giá
hiệu quả keo tụ của PAC kết hợp với
polymer.
Thông số pH của nước thải đầu vào là
6,3, sau khi qua xử lý keo tụ biến thiên
không nhiều, lần lượt đạt các giá trị 5,9;
6,0; 6,1; 5,8; 5,9; 5,8 tương ứng với các
ngưỡng liều lượng chất trợ keo tụ là 0,0
mg/L, 2,0 mg/L, 2,5 mg/L, 3,0 mg/L, 3,5
mg/L và 4,0 mg/L. Wang và ctv. (2005) ghi
nhận ngưỡng pH phù hợp để keo tụ nước
thải bằng phèn sắt là 4,0 - 6,5 và > 8,5. Như
vậy, các giá trị pH ghi nhận được trong thí


Tính toán so sánh trên cho thấy tuy
khả năng loại bỏ COD của FeCl3.6H2O cao
hơn PAC, nhưng chi phí hóa chất để keo tụ
bằng PAC rẻ hơn rất nhiều so với
FeCl3.6H2O. Do đó, PAC với liều lượng
250 mg/L được chọn làm chất keo tụ cho
các thí nghiệm định hướng tiếp theo. Chọn
lựa này cũng phù hợp với kết quả nghiên
cứu trước đó của Lê Hoàng Việt và ctv.
(2015), Đào Minh Trung và ctv. (2016).
3.3. Kết quả thí nghiệm Jartest
3.3.1. Thí nghiệm xác định liều lượng
polymer thích hợp hỗ trợ quá trình keo tụ
Hiệu quả của quá trình keo tụ bằng các
loại phèn có thể tăng cao khi sử dụng chất
trợ keo tụ là polymer. Giá thành của
polymer tuy cao, nhưng liều lượng sử dụng
rất thấp (chỉ vài mg/L), nên việc bổ sung
polymer không làm tăng đáng kể chi phí
nhưng làm tăng hiệu quả loại bỏ độ đục và
33


KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC…

nghiệm này đều nằm trong khoảng phù hợp
để tiến hành keo tụ nước thải.
Độ đục của nước thải đầu vào là 549
NTU, sau keo tụ giảm mạnh nhưng không

có chiều hướng rõ rệt. Khi cho polymer vào
theo cách tăng liều lượng thì bông cặn hình

thành càng lớn và nhiều, các bông cặn lắng
xuống làm giảm độ đục của nước thải. Tiếp
tục tăng lượng polymer, các hạt keo sẽ tái
ổn định, bông cặn được hình thành lớn hơn
và lắng rất nhanh nên có thể bỏ sót lại các
bông cặn nhỏ làm tăng độ đục của nước.

Hình 4. Độ đục của nước thải khi kết hợp PAC các mức polymer khác nhau

Hình 5. COD của nước thải khi kết hợp PAC các mức polymer khác nhau
Ở các cốc có chất trợ keo tụ liều lượng
từ 0,0 đến 2,5 mg/L hiệu quả keo tụ giảm,
COD của nước thải sau keo tụ cao hơn khi
không bổ sung polymer. Điều này do các
polymer cũng là các hợp chất hữu cơ, nếu
liều lượng chưa đủ sẽ không thể tạo cầu nối
các hạt keo, làm cho hiệu quả loại bỏ COD

giảm. Ở liều lượng polymer 3,0 mg/L cho
hiệu quả loại bỏ COD cao nhất (hiệu suất
xử lý đạt 72,87%), do lượng polymer đó đã
đủ để tạo cầu nối hạt keo làm tăng khả năng
lắng. Hiệu suất xử lý này thấp hơn kết quả
nghiên cứu của Ha và Huong (2017) nhưng
cao hơn ghi nhận của Metcalf & Eddy
34



LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN

(1991) từ 30 - 60%. Khi tiếp tục tăng liều
lượng polymer, các bông cặn nhỏ có thể bị
bỏ sót lại theo cơ chế đã giải thích ở trên
làm giảm hiệu quả loại bỏ COD.
Dựa vào kết quả trên, liều lượng
polymer 3,0 mg/L kết hợp với 250 mg/L
PAC được chọn để tiến hành thí nghiệm xác
định lượng chất keo tụ kết hợp với polymer.
3.3.2. Thí nghiệm xác định lượng chất
keo tụ ở khoảng thu hẹp kết hợp với polymer
Việc sử dụng polymer là chất trợ keo
tụ có thể làm thay đổi liều lượng PAC cần
sử dụng, do đó thí nghiệm này được tiến
hành để xác định lại liều lượng PAC. Kết
quả của thí nghiệm 1 đã ghi nhận liều

lượng PAC là 250 mg/L, nên trong thí
nghiệm này liều lượng PAC được cho biến
thiên từ 200 đến 300 mg/L; mỗi mức liều
lượng cách nhau 25 mg/L, riêng liều lượng
polymer được giữ cố định ở mức 3,0 mg/L.
Thông số pH của nước thải đầu vào là
6,5, qua xử lý keo tụ có biến thiên nhưng
không đều; lần lượt đạt các giá trị 5,7; 6,2;
6,1; 6,0; 5,9; 5,6 tương ứng với các ngưỡng
liều lượng chất keo tụ PAC là 200 mg/L,
225 mg/L, 250 mg/L, 275 mg/L và 300

mg/L. Như vậy, các giá trị pH đo được
trong thí nghiệm này đều nằm trong
khoảng phù hợp ghi nhận bởi Wang và ctv.
(2005) để tiến hành keo tụ nước thải.

Hình 6. Độ đục của nước thải sau keo tụ ở liều lượng polymer cố định kết hợp PAC 250 mg/L

Hình 7. COD của nước thải sau keo tụ ở liều lượng polymer cố định kết hợp PAC 250 mg/L
35


KHẢO SÁT LIỀU LƯỢNG CHẤT TRỢ KEO TỤ TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI LÒ GIẾT MỔ GIA SÚC…

Kết quả cho thấy, độ đục sau keo tụ
thấp nhất ở liều lượng 200 mg/L PAC kết
hợp 3 mg/L polymer (hiệu suất xử lý đạt
99,55%), còn COD sau keo tụ thấp nhất ở
liều lượng 225 mg/L PAC kết hợp với 3
mg/L polymer (hiệu suất xử lý đạt
84,91%).
Với mục tiêu chủ yếu là giảm tải nạp
chất hữu cơ cho các công đoạn tiếp theo
trong thực tế xử lý nước thải, liều lượng
PAC 225 mg/L kết hợp với 3 mg/L
polymer được chọn để tiến hành thí

nghiệm trên mô hình bể keo tụ - tạo bông.
3.4. Kết quả thí nghiệm chính thức
trên mô hình bể keo tụ - tạo bông
Thí nghiệm này được tiến hành trên

mô hình bể keo tụ - tạo bông để kiểm
chứng lại kết quả thí nghiệm đã thực hiện
trên bộ Jartest. Các thông số thí nghiệm
bao gồm liều lượng PAC 225 mg/L kết hợp
với 3 mg/L polymer. Do chỉ có một mô
hình thí nghiệm nên không bố trí lặp lại mà
nước thải đầu vào và đầu ra được thu thập,
phân tích ở 3 ngày liên tiếp.

Hình 8. COD, TP của nước thải trước và sau khi qua mô hình keo tụ - tạo bông
trong nước thải đầu ra của bể keo tụ đủ để
đưa vào công đoạn xử lý sinh học tiếp theo.
4. Kết luận - kiến nghị
Nghiên cứu này đã thực hiện thí
nghiệm Jartest xử lý nước thải lò giết mổ
với lượng chất keo tụ PAC là 225 mg/L,
kết hợp với 3 mg/L chất trợ keo tụ
polymer, hiệu suất xử lý nước thải đạt tối
ưu với độ đục loại bỏ 99,55% và COD đạt
84,91%.
Ứng dụng xử lý nước thải lò giết mổ
trên mô hình bể keo tụ - tạo bông với cùng
liều lượng chất keo tụ và trợ keo tụ, hiệu

Sau quá trình keo tụ - tạo bông, COD
trong nước thải giảm từ 1740,35 mg/L
xuống còn 463,16 mg/L, hiệu suất xử lý
đạt 73,39% cao hơn ghi nhận của Metcalf
& Eddy (1991) từ 30 - 60%. TP giảm từ 19
mg/L xuống còn 4 mg/L, hiệu suất xử lý

đạt 79,31% nằm trong khoảng 70 - 90%
ghi nhận bởi Metcalf & Eddy (1991). Tuy
nhiên, hiệu suất này thấp hơn ghi nhận của
Hà và Hương (2017).
Mặc dù hàm lượng COD còn khá cao
nhưng tỉ lệ COD/P trong nước thải sau xử
lý đạt xấp xỉ 100/1, nên lượng dưỡng chất
36


LÊ HOÀNG VIỆT - NGUYỄN THỊ HUYỀN TRÂN - HOÀNG THỊ HIẾU - NGUYỄN VÕ CHÂU NGÂN

suất loại bỏ COD là 73,39% và Ptổng là
79,31%. Nước thải sau xử lý phù hợp để đưa
sang các công đoạn xử lý sinh học tiếp theo.
Quá trình keo tụ - tạo bông sẽ tạo ra
bùn thải có thể chứa dư lượng hóa chất gây
độc, do đó cần có thêm những nghiên cứu
khác để đánh giá thành phần bùn thải, tìm
hiểu xử lý lượng bùn thải sinh ra từ quá
trình keo tụ - tạo bông, hạn chế ô nhiễm
cho nguồn tiếp nhận.

5. Lê Hoàng Việt, Nguyễn Võ Châu Ngân,
Nguyễn Thị Mỹ Phương, Đặng Thị Thúy
(2014), “Nghiên cứu xử lý nước thải lò giết
mổ bằng phương pháp keo tụ quy mô phòng
thí nghiệm và mô hình bể keo tụ tạo bông kết
hợp lắng”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ, 34a: 108-118.

6. Lê Hoàng Việt, Nguyễn Võ Châu Ngân,
Nguyễn Văn Ngâm, Trịnh Dương Sơn Tùng
(2015), “Xử lý sơ cấp nước thải chế biến cá
tra bằng phương pháp keo tụ”, Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, 40a: 101-109.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

7. Metcalf & Eddy (1991), Wastewater
engineering: Treatment, disposal, reuse,
McGraw Hill Inc.

1. APHA, AWWA, WEF (2005), Standard
methods for the examination of water and
waste-water, 21st ed, American Public Health
Association,
American
Water
Works
Association, Water Environment Federation,
Washington DC.

8. Sun M., Yu P. F., Fu1 J. X., Ji X. Q., Jiang T.
(2017), “Treatment of slaughter wastewater
by coagulation sedimentation - anaerobic
biological filter and biological contact
oxidation process”, IOP Conf. Ser.: Earth
Environ. Sci. 82 012021.

2. Bui Manh Ha, Duong Thi Giang Huong

(2017), “Coagulation in treatment of swine
slaughterhouse wastewater”, GeoScience
Engineering LXIII(1) 15-21.

9. Trịnh Xuân Lai (2011), Xử lý nước cấp sinh
hoạt và công nghệ, Nxb Xây dựng Hà Nội.

3. Đào Minh Trung, Nguyễn Võ Châu Ngân,
Ngô Kim Định (2016), “Hiệu quả xử lí nước
thải dệt nhuộm của chất trợ keo tụ hóa học và
sinh học”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư
Phạm TP. HCM, 9(87): 127-137.

10. Văn phòng Chính phủ (2016), Thông tư
04:2016/TT-BTNMT ban hành QCVN 62MT: 2016/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về nước thải chăn nuôi, Công báo số
349+350.

4. Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng,
Nguyễn Phước Dân (2008), Xử lý nước thải
đô thị và công nghiệp, Nxb Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh.

Ngày nhận bài: 24/10/2017

11. Wang L. K, Yung-Tse Hung, Nazih K.
Shamas (2005), Physico-chemmical treatment
processes, Humana Press.

Biên tập xong: 15/7/2018


37

Duyệt đăng: 20/7/2018



×