Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thực trạng nhận thức của cư dân huyện Cần Giờ về biến đổi khí hậu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.48 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 62 (02/2019)
No. 62 (02/2019)
Email: ; Website:

THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA CƯ DÂN HUYỆN CẦN GIỜ
VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU HIỆN NAY
Current situation of awareness of Can Gio district residents on climate change
ThS. Nguyễn Minh Nhựt
Ban Đô thị Hội đồng Nhân dân TP.HCM
Tóm tắt
Bài viết này đánh giá thực trạng nhận thức của cư dân huyện Cần Giờ về biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện
nay dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá: nhận thức về mức độ nghiêm trọng và những biểu hiện của
BĐKH; các nguồn tiếp nhận thông tin về BĐKH của người dân địa phương và nhận thức về tác hại của
BĐKH tới các hộ gia đình (HGĐ). Người dân đã cảm nhận, lo lắng đến các hiện tượng thiên tai, thời
tiết bất thường đang diễn ra ngày càng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của từng HGĐ. Mặt
khác, phần lớn người dân chưa tiếp cận được các thông tin về BĐKH qua các kênh truyền thông đại
chúng và từ chính quyền địa phương. Sự trao đổi, chia sẻ thông tin về BĐKH tại cộng đồng còn khá rời
rạc, thụ động. Bên cạnh đó, các tác hại của BĐKH đã ảnh hưởng nặng nề đến việc làm/sinh kế, làm
mất/hư hỏng nhà cửa, tài sản và ảnh hưởng đến sức khỏe của các HGĐ. Những vấn đề này làm cho
người dân nhận thấy các tác hại của BĐKH tới các HGĐ đang có xu hướng tăng hơn là giảm đi và làm
tăng thêm gánh nặng đối với họ.
Từ khóa: Thực trạng, Nhận thức, Biến đổi khí hậu, huyện Cần Giờ.
Abstract
This article assesses the current situation of Can Gio district residents on climate change based on the
analysis and evaluation: awareness of the severity and manifestations of climate change; sources of


receptive information on climate change of local people and awareness of the impacts of climate change
on households. The people have felt and worried about natural disasters, abnormal weather events
which have been increasingly happening and directly affecting the livelihood of every household. On
the other hand, most people do not have access to information on climate change through mass media
channels and from local authorities. The exchange and sharing of information on climate change in the
community is quite sporadic and passive. In addition, the impacts of climate change have seriously
affected the employment or livelihoods, loss or damage of houses, assets and health of households.
These issues make people realize that the impacts of climate change on households tend to ascend rather
than descend, increasing their burden.
Keywords: Current situation, Awareness, Climate change, Can Gio district.

Email:

142


NGUYỄN MINH NHỰT

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

dịch hại mới và các đợt dịch bùng phát trên
diện rộng [4].
Ở một khía cạnh khác, BĐKH toàn
cầu đã tác động bất lợi đến lớp người thu
nhập thấp, đặc biệt là những nước kém
phát triển. Trái đất nóng lên hầu hết do khí
thải công nghiệp của những nước phát
triển. Cái giá phải trả cho BĐKH cho dù
khó lượng định, song đang ngày một gia
tăng. Trong 16 quốc gia cực kỳ rủi ro, dẫn

đầu là ở Nam Á, tiếp đó là Đông Phi và
Đông Nam Á, Việt Nam đứng vị trí 13
trong nhóm này [8].
Các tác giả đã nhấn mạnh rằng: BĐKH
đã và đang là một hiểm họa đe dọa trực
tiếp đến sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước, đe dọa đến đời sống của nhân
dân và theo dự báo sẽ còn tiếp tục diễn
biến phức tạp, mức độ ngày càng nặng nề
hơn và hậu quả nghiêm trọng hơn [1].
Dưới tác động của BĐKH, tình hình thiên
tai ngày càng diễn biến phức tạp và có dấu
hiệu gia tăng. Nước biển dâng đã có những
tác động xấu và đang đe dọa đến sự phát
triển bền vững của đất nước. Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD) xếp Việt
Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh
hưởng nặng nề do hiện tượng BĐKH và
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong danh
sách 10 Thành phố trên thế giới bị đe dọa
nhiều nhất bởi BĐKH [3].
BĐKH là sự thay đổi cơ bản nhất các
hệ thống môi trường của trái đất bao gồm
cả nhiệt độ và lượng mưa. Chẳng hạn như:
lưu thông thủy văn và tài nguyên nước,
hiểm họa về nước và bờ biển, hệ sinh thái
trên cạn và trên biển, nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, sức khỏe con người và
công nghiệp [2]. Ở Việt Nam, trong những
năm gần đây, nhiều diễn biến khí hậu bất

thường đã xuất hiện thường xuyên hơn

1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện đang là
một vấn đề cấp bách và mang tính toàn
cầu. Đối phó với sự thay đổi này đòi hỏi
nhiều nỗ lực không chỉ của các dân tộc, các
quốc gia trên toàn thế giới mà đó còn là
nhiệm vụ của từng cá nhân. Nhưng các
nghiên cứu hiện nay đang chỉ ra rằng
BĐKH còn khá xa lạ đối với bộ phận lớn
dân cư; mức độ hiểu biết và quan tâm của
người dân đối với BĐKH còn thấp [6].
BĐKH là sự thay đổi của khí hậu do
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt
động con người. Cùng với suy thoái tài
nguyên, ô nhiễm môi trường BĐKH đã,
đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc
các hệ sinh thái tự nhiên, đời sống kinh tế xã hội, quá trình phát triển, đe dọa an ninh
môi trường, năng lượng, nguồn nước,
lương thực trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy,
con người cần phải có những hành động
thiết thực để ngăn chặn những biến đổi đó
bằng chính những hoạt động phù hợp của
con người [7].
Bên cạnh đó, các nghiên cũng chỉ ra: ở
Việt Nam, những lĩnh vực/đối tượng được
đánh giá là dễ bị tổn thương do BĐKH bao
gồm: nông nghiệp và an ninh lương thực,
tài nguyên nước, sức khỏe, nơi cư trú, nhất

là ven biển và miền núi. Các cộng đồng dễ
bị tổn thương bao gồm: nông dân, ngư dân,
người dân các dân tộc thiểu số ở miền núi,
người già, phụ nữ, trẻ em và các tầng lớp
nghèo nhất ở các đô thị [5]. BĐKH sẽ ảnh
hưởng lớn đến việc nuôi trồng thủy sản
theo hướng thu hẹp dần do nước bị nhiễm
mặn khi nước biển dâng và điều kiện sống
thích nghi bị thay đổi. Nước biển dâng lên
còn đẩy quá trình xâm nhập mặn sâu vào
nội địa, làm ảnh hưởng đến sản xuất, sinh
hoạt của dân cư, làm gia tăng một số loại
143


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)

khiến mọi người bắt đầu chú ý và đã có
những hoạt động ban đầu nhằm ứng phó
với hoàn cảnh mới. Cần Giờ là huyện ven
biển duy nhất của Thành phố Hồ Chí Minh,
được xem là khu vực chịu tác động nặng nề
nhất của BĐKH. Đây cũng là địa bàn xung
yếu, có nhiều hộ dân sống ở ven sông, ven
biển trong rừng phòng hộ, vùng trũng thấp,
luôn có nguy cơ bị sạt lở, nhà cửa không
đảm bảo an toàn… và nhìn chung luôn có
nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề bởi tác động

của BĐKH.
Từ đây có thể thấy tầm quan trọng của
việc tìm hiểu, phân tích và đánh giá một
cách khách quan về thực trạng nhận thức
của cư dân huyện Cần Giờ về BĐKH hiện
nay ở nhiều góc nhìn xã hội khác nhau là
một yêu cầu cấp thiết nhằm đề xuất các
định hướng chính sách, giải pháp ứng phó
với BĐKH hiện nay tại các cộng đồng dân
cư ven biển huyện Cần Giờ.
Địa bàn nghiên cứu
Đảo

2. Phương pháp nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Thực trạng
nhận thức của cư dân huyện Cần Giờ về
BĐKH hiện nay.
- Khách thể nghiên cứu: Các đại diện
hộ gia đình (HGĐ) được chọn mẫu tại các
cộng đồng dân cư thuộc huyện Cần Giờ,
Thành phố Hồ Chí Minh; đại diện cán bộ
lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực tại các sở
ngành có liên quan; đại diện chính quyền
và các cơ quan chức năng huyện Cần Giờ.
- Phương pháp điều tra bằng bảng
hỏi: Nghiên cứu sẽ tiến hành phỏng vấn
bằng bảng hỏi 614 đại diện HGĐ, được
chọn theo cách lập mẫu ngẫu nhiên phân
tầng tại 6 xã và 1 thị trấn của huyện Cần
Giờ. Dữ liệu định lượng được xử lý bằng

phần mềm SPSS với các dạng số liệu phân
bố tỉ lệ. Phân bố mẫu trên địa bàn nghiên
cứu cụ thể như sau:

Số ấp Số HGĐ Số HGĐ được khảo sát


xã Thạnh An

3 ấp

1125

102

5 ấp

2500

139

4 ấp

2375

50

xã An Thới Đông

6 ấp


2750

78

xã Lý Nhơn

3 ấp

1125

38

xã Bình Khánh

8 ấp

4000

140

xã Tam Thôn Hiệp

4 ấp

1250

67

33 ấp


15125

614 HGĐ

Bán đảo (Vùng duyên Thị trấn Cần Thạnh
hải)
xã Long Hoà

Tổng số

6 xã, 01 thị trấn

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Dữ liệu
định tính được thu thập chọn lọc từ 10 cuộc
phỏng vấn sâu bán cấu trúc bao gồm đại
diện chính quyền địa phương các cấp và
người dân địa phương. Những thông tin từ
phỏng vấn sâu này sẽ giúp nắm bắt thêm

tình hình kinh tế xã hội của thành phố, tình
hình của địa phương, nhận thức của người
dân và ý kiến của cán bộ địa phương về
nhận thức của người dân đối với BĐKH
hiện nay tại huyện Cần Giờ.
- Phương pháp thảo luận nhóm tập
144


NGUYỄN MINH NHỰT


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

trung: Tổ chức 3 cuộc thảo luận nhóm ở 2
địa bàn nghiên cứu đặc trưng như: đảo, bán
đảo (vùng duyên hải) của huyện Cần Giờ để
thu thập thông tin các vấn đề về nhận thức,
chiến lược ứng phó với thiên tai, các hiện
tượng thời tiết bất thường và BĐKH. Mỗi
nhóm có 8 người trong đó tỉ lệ phụ nữ tham
gia là 50%. Một nhóm từ 45 đến 65 tuổi và
hai nhóm còn lại từ 20 đến 44 tuổi. Thành
phần tham gia thảo luận nhóm là người dân
trong xã, chủ yếu là lao động nông lâm ngư

nghiệp (trồng trọt, nuôi trồng, đánh bắt thủy
sản, công việc liên quan đến rừng).
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Nhận thức về tầm quan trọng và
những biểu hiện của biến đổi khí hậu
Để tìm hiểu nhận thức của người dân
về BĐKH, trước hết cần biết hiện nay
người dân đang quan tâm, lo lắng đến
những vấn đề bức xúc nào nhất ở địa
phương, trong đó có vấn đề BĐKH. Kết
quả của câu hỏi này như sau:

Biểu đồ 1: Vấn đề nghiêm trọng/đáng lo lắng nhất tại địa phương hiện nay (n=614)
Dựa trên kết quả khảo sát thực tế,
trong bốn vấn đề người dân nhận thấy

nghiêm trọng/đáng lo lắng nhất (gồm:
nghèo đói, ô nhiễm môi trường, BĐKH,
thất nghiệp/thiếu việc làm) thì vấn đề
BĐKH có tỷ lệ người dân quan tâm cao
nhất (28,6%). Điều này chứng tỏ thiên tai,
thời tiết bất thường đã hiện hữu tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới sinh kế, ô nhiễm
môi trường, vấn đề nghèo đói của người
dân huyện Cần Giờ ở nhiều lĩnh vực và
ngành nghề khác nhau tạo nên sự lo lắng.
Người dân xem đây là vấn đề nghiêm trọng

mà các cấp chính quyền, cộng đồng, dân cư
nơi đây cần quan tâm, có thái độ và hành vi
đúng mức để thích ứng và giảm nhẹ đối với
các ảnh hưởng của BĐKH.
Vấn đề “thất nghiệp/thiếu việc làm”
(17,9%), thứ ba là vấn đề “ô nhiễm môi
trường” (15,6%) và thứ 4 là vấn đề “nghèo
đói” (14,7%). Tỷ lệ cho 3 vấn đề sau không
chênh lệch nhiều và chiếm khoảng trên dưới
15% các ý kiến trả lời. Dữ liệu định tính
phỏng vấn người dân và cán bộ lãnh đạo địa
phương cũng đều khẳng định những lo ngại
của hiện tượng BĐKH, mà biểu hiện cụ thể
145


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY


No. 62 (02/2019)

là tình trạng thời tiết cực đoan gia tăng với
tần suất và mức độ nghiêm trọng.
“Thực tế thì những năm trở lại đây,
tình hình thiên tai có nhiều diễn biến phúc
tạp. Ví dụ như mưa bão nhiều hơn so với
trước đây. Rồi ấp thấp nhiệt đới, nước biển
dâng kết hợp với triều cường trong những

năm gần đây lên khá đều, thời xưa thường
rằm tháng 7 còn bây giờ hầu như tháng
nào cũng có triều cường, có mực nước rất
cao” (Nam, cán bộ UBND xã Thạnh An).
Nguồn: Nguyễn Minh Nhựt, khảo sát ứng
phó BĐKH dựa vào cộng động tại huyện
Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018.

Biểu đồ 2: Nhận thức của người dân về các biểu hiện của biến đổi khí hậu (n=614)
Có 5 hiện tượng cụ thể của BĐKH
được người dân nhắc đến nhiều nhất. Tuy
nhiên, tỷ lệ nhận biết các hiện tượng này
còn rất thấp. Hiện tượng “Bão nhiều hơn”
chiếm tỷ lệ cao nhất chỉ có 24,5%. Các hiện
tượng còn lại như: “Mưa, nắng trái mùa”
(23%), “Thời tiết nóng hơn” (12,8%),
“Mực nước biển tăng” (11%), “Mưa
nhiều/nắng hạn ít hơn” (10,1%) ghi nhận.
Trong một cuộc phỏng vấn sâu cán bộ
Biên phòng có thâm niên công tác lâu năm

tại địa phương và thường xuyên quan sát
tiếp xúc với vùng biển Cần Giờ đã khẳng
định hiện tượng thời tiết không còn sự
phân ranh rõ ràng hai mùa vốn đặc trưng
của khí hậu Nam Bộ.“Mỗi một năm, tình

hình biến đổi khí hậu càng thêm phúc tạp,
thực tế trước kia rõ ràng có 2 mùa mưa và
mùa khô rõ rệt, bây giờ thực ra mùa khô
mùa mưa không thể phân biệt nữa rồi”
(Nam, cán bộ Hải Đội 2). Nguồn: Nguyễn
Minh Nhựt, khảo sát ứng phó BĐKH dựa
vào cộng động tại huyện Cần Giờ, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2018.
Cùng quan điểm trên những người
dân địa phương cũng khẳng định sự “thất
thường” của thời tiết đang trở nên rõ rệt
khó lường hơn. “Trong 10 năm trở lại
đây, thời tiết không phải như hồi xưa nữa,
hồi xưa thì nắng thì cũng có tháng có
năm, mưa thì cũng có tháng có năm. Còn
bây giờ thì mưa nắng thất thường. Cái
146


NGUYỄN MINH NHỰT

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

không khí lạnh nó khác ngày xưa, hồi xưa

nó lạnh cũng bình thường bây giờ nó lạnh
quá, như mấy ngày nay gần tết không có
mưa, giờ không biết ngày nào nắng ngày
nào mưa” (Nữ, người dân Cần Thạnh).
Nguồn: Nguyễn Minh Nhựt, khảo sát ứng
phó BĐKH dựa vào cộng động tại huyện
Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018.
Như vậy, hai hiện tượng của BĐKH là
“Bão nhiều hơn” và “Mưa nắng trái mùa”

đã có gần 1/4 người được hỏi nhận biết,
trong khi các biểu hiện khác tỷ lệ nhận biết
chỉ khoảng trên dưới 10%. các hiện tượng
của BĐKH đã bắt đầu được người dân Cần
Giờ nhận biết.
3.2. Các nguồn thông tin về biến đổi
khí hậu
Kết quả phân tích dữ liệu khảo sát từ
phỏng vấn bán cấu trúc về các nguồn tiếp
nhận thông tin được thể hiện tại biểu đồ 3:

Biểu đồ 3: Nguồn thông tin về biến đổi khí hậu (n=614)
Trong số 6 nguồn thông tin chính về
BĐKH mà người dân đã tiếp cận được
trong thời gian qua, “Nghe trên truyền
thông đại chúng” chiếm khoảng 1/3 ý kiến
người được hỏi (33,5%), trong khi “Từ
chính quyền địa phương” chỉ chiếm khoảng
hơn 1/5 (22,3%), và qua “Các tổ chức, đoàn
thể” chỉ chiếm 6,4% (thấp nhất).

Kết quả trên cho thấy các kênh truyền
thông đại chúng (Tivi, Radio, loa phát
thanh, internet…) và kênh từ chính quyền
địa phương vẫn là những nguồn cung cấp
thông tin về BĐKH chủ yếu, quan trọng
nhất cho người dân địa phương. Điều này

được củng cố thêm trong dữ liệu định tính:
“Khi thiên tai xảy ra, người dân bây
giờ cũng rất ý thức xem thông tin trên đài,
khi có thông báo người ta cập nhập thông
tin trên ti vi rất nhanh coi bão đi tới đâu.
Bên cạnh đó chính quyền thông tin trên
mạng truyền thông cho người dân biết.
Như vậy chính quyền cũng quan tâm báo
cho người dân biết đồng thời cũng cử
những Đoàn đến hỗ trợ người dân chằng
chống nhà cửa, đối với những hộ gần biển
thì di dời tài sản, di dời dân đến những nơi
tập kết, khi xong rồi có xe đến chở người ta
về nhà luôn” (Nữ, người dân Cần Thạnh).
147


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)

Nguồn: Nguyễn Minh Nhựt, khảo sát ứng
phó BĐKH dựa vào cộng động tại huyện

Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018.
Tuy nhiên, các kênh thông tin phi
chính thức trong cộng đồng, hay giữa
người dân với nhau vẫn còn hạn chế. Hay
nói cách khác các HGĐ còn ít quan tâm
đến các thông tin về BĐKH và dường như
sự trao đổi, chia sẻ thông tin tại cộng đồng
còn khá rời rạc, còn thụ động trong việc
trao đổi, tiếp nhận thông tin lẫn nhau. Điều
này rất quan trọng cho việc xây dựng và
phát triển phương thức ứng phó với BĐKH
dựa vào cộng đồng. Bởi lẽ việc chia sẻ,
thảo luận trao đổi thông tin chính là bước
đầu tiên trọng việc tập hợp, huy động sự
tham gia qua đó cùng nhau hành động.
3.3. Nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực
của biến đổi khí hậu tới các hộ gia đình
Đối với cảm nhận ảnh hưởng của thời
tiết bất thường/BĐKH, vấn đề “Mất/ảnh
hưởng đến việc làm/sinh kế chiếm tỷ lệ
tương đối cao (30,2%). Cần chú ý là gần
1/3 cư dân Cần Giờ sống chủ yếu bằng
nghề nuôi trồng và đánh bắt hải sản. Đây là

nghề mang lại thu nhập chủ yếu cho các hộ
gia đình nên sự “nhạy cảm” của họ về ảnh
hưởng của thời tiết bất thường/BĐKH ở
nơi đây là dễ hiểu. Khi đánh giá về những
tác động tiêu cực từ hiện tượng BĐKH, các
cán bộ địa phương cũng cho rằng hoạt

động sản xuất bị tổn thương trực tiếp và
nặng nề nhất.
“Ở đây người dân sống bằng 3 nghề
chính: một là đánh bắt, hai là nuôi trồng
thủy sản, ba là làm muối cho nên nếu như
có thiên tai diễn ra thì ảnh hưởng hết toàn
bộ. Thứ nhất là đánh bắt nếu như có thiên
tai diễn ra thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
đánh bắt của các phương tiện. Thứ hai là
nuôi trồng, Thạnh An chủ yếu là nuôi hàu,
nuôi cá bóp mà những cái nuôi này chủ
yếu phụ thuộc vào tự nhiên cho nên nếu có
sự thay đổi, biến đổi về điều kiện tự nhiên
thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất
của người dân” (Cán bộ UBND xã Thạnh
An). Nguồn: Nguyễn Minh Nhựt, khảo sát
ứng phó BĐKH dựa vào cộng động tại
huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh,
2018.

Biểu đồ 4: Ảnh hưởng của thời tiết bất thường/BĐKH đến từng hộ gia đình (n=614)
148


NGUYỄN MINH NHỰT

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Không chỉ ảnh hưởng tới sinh kế, thời
tiết bất thường/BĐKH còn làm tăng thêm

gánh nặng đối với các hộ gia đình thu nhập
từ trung bình trở xuống như: “Mất/hư hỏng
nhà cửa, tài sản” (16,5%), “Ảnh hưởng đến
sức khoẻ” (16,1%), “Tăng thêm chi phí
sinh hoạt” (10%). Mặc dù các tỷ lệ này
chưa cao và những ảnh hưởng cũng không
thường xuyên, nhưng nếu những cảnh báo
này của chính quyền chưa được lắng nghe
và người dân chưa quan tâm, chưa có

những giải pháp thích ứng thì trong tương
lai gần, những ảnh hưởng này sẽ tác động
ngày càng mạnh, cuộc sống của người dân
sẽ càng mong manh và khó khăn hơn. Di
cư vì khí hậu sẽ trở thành một giải pháp
ứng phó với thời tiết bất thường/BĐKH.
Để đo lường sự đánh giá của người dân
về xu hướng thay đổi của những ảnh hưởng
đó trong tương lai. Dữ liệu tại biểu đồ 5 thể
hiện tỉ lệ đánh giá 4 khía cạnh ảnh hưởng
theo hai xu hướng tăng lên, hoặc giảm đi.

Biểu đồ 5: Biến đổi khí hậu có xu hướng ảnh hưởng xấu đến
hộ gia đình trong thời gian tới (n=614)
Như vậy, có 4 nhóm yếu tố sẽ tác động
ngày một xấu hơn đến các hộ gia đình
trong thời gian tới, mà cụ thể là: “Mất/ảnh
hưởng đến việc làm/sinh kế” (xu hướng
giảm đi 20,8% người được hỏi, trong khi
xu hướng tăng lên tăng là 31,4%), “Mất/hư

hỏng nhà cửa, tài sản” (xu hướng giảm đi
9,4%, tăng lên lên -19,7%), “Tăng thêm
chi phí sinh hoạt” (xu hướng tăng lên 15,0%). Riêng trường hợp “Ảnh hưởng đến
sức khỏe” (xu hướng giảm đi - 15,6% tăng
lên - 12,5%).

Như vậy, từ BĐKH đến vấn đề
“Mất/ảnh hưởng đến việc làm/sinh kế” sẽ
tiếp tục ảnh hưởng xấu đến tình trạng của
các thành viên hộ gia đình. Xu hướng này
tăng lên khá rõ so với các ảnh hưởng khác
và đây là vấn đề nghiêm trọng mà người
dân cảm nhận được qua thực tiễn. Qua quan
sát tại thực tiễn việc tuần tra bảo vệ trên
biển, một cán bộ Bộ đội Biên phòng cho
rằng nguồn lợi thủy hải sản tại các vùng
biển địa phương đã suy giảm nhiều và ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống người dân.
149


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)

“BĐKH ảnh hưởng tới nguồn lợi thủy
sản, trước kia thì cá mắm nó nhiều lắm đến
bây giờ thì cá mắm rất cạn kiệt. Người dân
ở đây chủ yếu sinh nhai bằng cái nghề
đánh bắt hải sản gần bờ thôi, chứ xa bờ thì

không có điều kiện… đánh bắt quanh
quanh ở đây có chuyến được chuyến
không. Ngoài việc đánh bắt hải sản để nuôi
sống gia đình, thì cũng không còn cái nghề
nào khác hơn thành thử ra người ta nói lực
bất tòng tâm là chỗ đó, nó cũng từ BĐKH
tác động vào” (Nam, cán bộ Hải Đội 2).
Nguồn: Nguyễn Minh Nhựt, khảo sát ứng
phó BĐKH dựa vào cộng động tại huyện
Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018.

chúng và từ chính quyền địa phương. Sự
chia sẻ thông tin tại cộng đồng còn khá rời
rạc, thụ động. Từ đó, hành động của người
dân còn mang tính tự phát, đơn lẻ và chưa
tạo được sức mạnh của cộng đồng.
Cảm nhận của người dân cho ta thấy
ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH tới gia đình
họ đang có xu hướng tăng hơn là giảm đi.
Không chỉ ảnh hưởng tới sinh kế, còn làm
tăng thêm gánh nặng đối với các HGĐ có
thu nhập thấp. Vấn đề “Mất/ảnh hưởng đến
việc làm/sinh kế” sẽ tiếp tục ảnh hưởng
xấu đến tình trạng của các thành viên
HGĐ. Xu hướng này tăng lên khá rõ so với
các ảnh hưởng khác và đây là vấn đề
nghiêm trọng mà người dân cảm nhận
được qua thực tiễn.

Nếu như chính quyền địa phương, các

hộ gia đình và cộng đồng dân cư Cần Giờ
không nhận thức đầy đủ về tình hình thời
tiết bất thường/BĐKH ngay từ bây giờ thì
trong tương lai sẽ không có sự thay đổi nào
và vấn đề này sẽ càng trầm trọng hơn. Bởi
lẽ, vấn đề sinh kế bị ảnh hưởng còn được
cộng hưởng bởi các vấn đề khác như:
“Mất/hư hỏng nhà cửa, tài sản”, “Tăng
thêm chi phí sinh hoạt”, “Ảnh hưởng đến
sức khỏe”... mà người dân cũng bắt đầu
cảm nhận được trước những biến đổi bất
thường của thời tiết và BĐKH.

4.2. Kiến nghị
Cần có giải pháp (tổ chức, tài chính,
kỹ thuật,…) để nâng cao khả năng tiếp cận
các kiến thức ứng phó BĐKH dựa vào
cộng đồng, mở rộng hoạt động đào tạo, tập
huấn, truyền thông BĐKH.
Các cơ quan truyền thông đại chúng
cần có chiến lược tuyên truyền các chủ đề
liên quan đến BĐKH có trọng tâm, trọng
điểm để thu hút người dân quan tâm theo
dõi, để từng bước nâng cao nhận thức của
người dân và cộng đồng ở các giải pháp
ngắn hạn. Về lâu dài thì cần xây dựng, phổ
biến các thiết chế văn hóa và thường xuyên
tổ chức theo hướng mở để người dân có
điều kiện tham gia các hoạt động cộng
đồng, là nền tảng quan trọng để gắn kết,

tạo thói quen chia sẽ thông tin giữa các
thành viên trong cộng đồng.
Cần cơ chế, chính sách để mời gọi,
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, phát
huy thế mạnh, tiềm năng về rừng ngập mặn
để phát triển kinh tế nông nghiệp và dịch vụ.

4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận
Vấn đề BĐKH đã hiện hữu và có tác
động trực tiếp, gián tiếp đến sinh kế và ô
nhiễm môi trường. Song công tác tập huấn,
truyền thông về BĐKH ở địa phương chưa
được sâu rộng, liên tục với các phương
thức chưa phù hợp với đặc điểm của người
dân Cần Giờ.
Người dân tiếp cận thông tin về
BĐKH còn quá ít, chỉ có một bộ phận quan
tâm từ các phương tiện truyền thông đại
150


NGUYỄN MINH NHỰT

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

ứng phó với biến đổi khí hậu”, Tạp chí
Giáo dục lý luận, số 213, tr.52-55, 2014.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Hải, “Vấn đề giáo dục ứng phó với
biến đổi khí hậu trong khối các trường cao
đẳng cộng đồng Việt Nam”, Tạp chí Giáo
dục, số 308 (kỳ 2), tr.20-22, 2013.

5. Lê Thanh Sang, Bùi Đức Kính, “Đồng bằng
sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí
hậu”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 11+12
(147+148), tr.41-54, 2010.

2. Trần Quang Minh (Chủ biên), Đối sách của
các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á
về Biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường
giai đoạn 2001-2020, Viện Nghiên cứu Đông
Bắc Á, Nxb Từ điển Bách Khoa, 2013.

6. Lê Thanh Sang, “Biến đổi khí hậu và sự
quan tâm của người dân đồng bằng sông
Cửu Long”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 09
(133), tr.36-44, 2009.

3. Huỳnh Thái Ngọc, “Biến đổi khí hậu tại
Thành phố Hồ Chí Minh - Kế hoạch ứng
phó”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 197,
tr.68 – 71, 2012.

7. Tạ Văn Việt, “Một số giải pháp tăng cường
ứng phó với Biến đổi khí hậu”. Tạp chí
Quản lý Nhà nước, số 231, tr.76-79, 2015.
8. Lê Thành Ý, “Biến đổi khí hậu toàn cầu:

Giải pháp thích ứng ở nước ta”, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 2, tr.25-27, 2011.

4. Nguyễn Việt Phương, Nguyễn Đức Chính,
“Nông nghiệp duyên hải Nam Trung Bộ

Ngày nhận bài: 19/12/2018

Biên tập xong: 15/02/2019

151

Duyệt đăng: 20/02/2019



×