Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tìm hiểu đường lối đối ngoại của đảng trong tình hình đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.17 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------

--------------

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
Đề tài: “Tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng trong tình hình đổi
mới ( từ Đại hội VI đến Đại hội XII )”

GVHD : Ths. Trịnh Đình Thanh
SVTH : Thái Thanh Thủy
Lớp: HIC 361 SC
Đà Nẵng, tháng 6 năm 2018

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................2
0


B. NỘI DUNG.......................................................................................................................................3
Phần 1. Toàn cầu hóa và tính tất yếu của Đường lối đối ngoại rộng mỡ..........................................3
1.1 Toàn cấu hóa là xu thế của thế giới...................................................................................................3
1.2. Đổi mới Đường lối đối ngoại là đồi hỏi khách quan nhằm phù hợp với tình hình mới....................4
Phần 2. Đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới ( từ Đại hội IV đến Đại hội XII ).....5
2.1 Từ 1986 – 1996 Xác lập đường lối đội ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế................................................................................................................................5
2.1.1 Đại hội VI (12/1986) Đề ra các nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt trong quá trình đổi mới đề
cập đến tình hình các nước XHCH, sự phá hội của Chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng


ta.............................................................................................................................................................5
2.1.2 Đại hội VII (6/1991) “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng trên thế giới, phấn
đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”....................................................................................................7
2.1.3 Đại hội VIII (6/1996) Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ trên tinh thần Đại hội VII đề ra..........................................................................................................9
2.2 Từ 1996 đến nay. Đây là giai đoạn xây dựng đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế.......................11
2.2.1 Đại hội IX ( 4/2001) Đảng đề ra chủ trương: “ Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”.........................................11
2.2.2 Đại hội X (4/2006) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tình hình hợp tác quốc tế khu vực , chủ độc
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”........................................................................................................12
2.2.3 Đại hội XI ( 1/2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Chủ độc tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, là
bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.....................................13
2.2.4 Đại hội XII (1/2016)Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảm bảo lợi ích tối cao của quôc gia dân tộc
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”......................................................................17
C. KẾT LUẬN....................................................................................................................................18

A. MỞ ĐẦU

1


Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh, có lợi
thế rất lớn là tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, môi trường hoà bình. Nhằm phát huy
những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến hành công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà
nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn
sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức

quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền
nhiễm, đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, … Những
nỗ lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và
quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu “ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI ( từ Đại hội VI đến Đại hội
XII )” .

2


B. NỘI DUNG
Phần 1. Toàn cầu hóa và tính tất yếu của Đường lối đối ngoại rộng mỡ.
1.1 Toàn cấu hóa là xu thế của thế giới
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển
mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các nước xã hội
chủ nghĩa lâm vào khủng khoảng sâu sắc. Đến đầu những năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được
hình thành từ sau chiến tranh thê giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa
Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn,
nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Các quốc gia, các tổ chức
và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương
thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thê giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã
đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế ;
mở rộng và tăng cương liên kết , hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật,
công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.

Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ,
chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế
được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó: Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hoá là quá trình
lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới
quốc gia và khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin,
lao động… vận động thông thoáng ; sự phân cồng lao động mang tính quốc tế; quan hệ kinh
tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều. Những
tác động tích cực của toàn cầu hoá: trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi hàng hoá
tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp
tác. Mặt khác toàn cầu hoá làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các
quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các
nước. Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa: xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát
triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hoá tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế
và làm gia tăng sự phân cực giữa các nước giàu và nghèo.
1.2. Đổi mới Đường lối đối ngoại là đồi hỏi khách quan nhằm phù hợp với tình hình mới.
Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một xu thế tất yếu khách quan đối với một nước
nào trên con đường phát triển trong điều kiện thế giới hiện nay. Đối với nước ta, Đảng và Nhà
nước đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
Vì vậy, đã là nền kinh tế thị trường thì việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế là điều thực sự cần thiết và là một tất yếu khách quan.

3


Tình hình khu vực và thế giới tác động mạnh mẽ đến nước ta. Trước mắt chúng ta có cả
cơ hội và thách thức lớn. Vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nước ta là nắm bắt cơ hội, vượt
qua thử thách sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới. Từ tình hình quốc tế và trong

nước, Đảng ta đã nêu lên đường lối đối ngoại đó là: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, mở rộng chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, Việt Nam
muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình
độc lập và phát triển Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN,
bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái.
Trong chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế,
một trong những vấn đề quan trọng mà Đảng ta nêu lên trong những vấn đề chính sách đối
ngoại đó là: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Đây là một vấn đề có tầm quan
trọng lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, tuy có nhiều thuận lợi song cũng đặt ra
những thử thách hết sức gay gắt cho chúng ta.
Trên thực tế chúng ta đã bắt đầu quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới
từ hơn 1 thập niên trước đây. Với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước trong đó có hầu hết
các nước lớn và các trung tâm kinh tế chính trị thế giới. Trong thời gian qua chúng ta đã có
nhiều cố gắng khẩn trương hội nhập với các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như Hiệp hội
các nước ASEAN (AFTA), Diễn đàn Châu á Thái Bình Dương (APEC) và chuẩn bị hội nhập
với tổ chức thương mại thế giới WTO.
Mặt khác, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế còn là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, phát
triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Sự nghiệp này đòi hỏi phải có vốn, có kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến, là những yếu tố mà nước ta đang thiếu, trong khi đó ở các nước
phát triển lại có ưu thế, có tiềm lực khổng lồ. Nước ta phải biết tận dụng những yếu tố thuận
lợi của hoàn cảnh quốc tế, tận dụng tối đa “ngoại tệ” để phát huy nội lực.
Từ xuất phát trên, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, coi đó là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối đối ngoại
của mình.
Phần 2. Đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới ( từ Đại hội IV đến Đại hội
XII )

2.1 Từ 1986 – 1996 Xác lập đường lối đội ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế
2.1.1 Đại hội VI (12/1986) Đề ra các nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt trong
quá trình đổi mới đề cập đến tình hình các nước XHCH, sự phá hội của Chủ nghĩa đế
quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta.
Đổi mới toàn diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra
chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội khẳng định:
“Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị”. Về quan
hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước
4


trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng
tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”. Đại hội
VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “… tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”… và “cần hoà bình để phát triển kinh tế”.
Nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách
ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, phù hợp với lợi
ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi
chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là
một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu và những
chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là hòa bình và phát triển.
Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hòa hoãn, hợp tác giải quyết các
vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI đã khẳng định “chúng ta mong
muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải
Đường lối xây dựng hệ thống đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông
Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa
VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại
của Đảng ta. Nghị quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ hòa
bình và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng
vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả
năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ
Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối
trọng với các nước ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định không đối lập nhóm 3 nước Lào,
Việt Nam, Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách toàn diện với Đông Nam Á, trước hết là
tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái
Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu
vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị
quyết cũng nhắc lại lời cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu
chúng ta lại để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị thua kém về
mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng tình của thế giới, làm thất
bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát triển của khoa học – kỹ thuật,
đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm và ký Thông cáo
chung Việt Nam – Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/07/1987, vừa khai thông
quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia.
Việt Nam đã từng bước rút quân khỏi Campuchia từ 1984 – 1989. Như vậy vấn đề Campuchia
đi dần vào giải pháp hòa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu phát
triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào hợp tác khu
vực. Tháng 12/1987, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila ( Philipin )
5


Tổng thống Philipin C.V. Akinô tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin.

Tiếp đó tháng 2/1989 Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố “ không chống lại việc Việt
Nam gia nhập ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền tháng 8/1988,
đã đưa ra chủ trương “ Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”. Chính sách trên
của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ (6/1989).
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng luôn khẳng định lập
trường của Việt Nam là được chung sống hoà bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng hợp
tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Tháng
1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố
Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn
mạnh: Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước
trong khu vực.
Tại Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng
gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh
quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan
hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện
chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là Tổng thống Indonexia
Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN đầu tiên, thăm hữu nghị chính thức Việt Nam
tháng 10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt thăm hữu nghị chính thức Indonexia,
Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa Singapore từ ngày 24/10 đến ngày 01/11/1991.
Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung Quốc về vấn
đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi vào
cải thiện quan hệ với Việt Nam – Đông Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam – ASEAN đã
tăng từ 107 triệu đô la Mỹ năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số thành quả của
cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khai thông quan hệ với các
nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đông Nam
Á hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó có
điều kiện tăng cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác. Những thành tựu
đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời kỳ tiếp theo.
2.1.2 Đại hội VII (6/1991) “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng trên thế

giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VII chủ trương: "Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi
với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình", với phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển"
- Với Lào và Campuchia Thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên
tinh thần bình đẳng.
- Với Trung Quốc bình thường hoá quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung.
- Với các nước Đông Nam Á, Châu Á- Thái Bình Dương phấn đấu cho một Đông Nam Á
hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
- Với Hoa Kỳ thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ

6


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991
trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp:
- Tình hình quốc tế: có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta. Đang diễn ra cuộc
tấn công quyết liệt của các thế lực thù địch đế quốc và phản động vào các lực lượng hoà bình,
độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội nhằm tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn
thâm độc; cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự sụp đổ của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu (1989 - 1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng và dẫn tới sự thất bại vào nửa cuối năm
1991. So sánh lực lượng diễn ra bất lợi cho lực lượng cách mạng trên thế giới.
- Ở trong nước, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có
những chuyển biến tích cực, song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trước sự
khủng hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động không nhỏ tới lập
trường,tư tưởng và niềm tin vào chủ ng hội nghĩa xã hội của một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân.
Bối cảnh trên đây đặt ra cho Đại hội VII một nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải đề ra

đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nội dung cơ bản của Đại hội VII:
Đại hội đã đánh giá quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội và nhận định: Sau hơn 4 năm đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc
sống, các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại những kết quả nhất định: Tình hình
chính trị của đất nước: ổn định; nền kinh tế có những bước phát triển, đã đạt được những tiến
bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế (lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu); kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn về
quy mô, hình thức, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Quyền dân chủ của nhân dân ngày càng được phát huy. Quốc phòng được giữ vững, an
ninh quốc gia được bảo đảm, từng bước phá thế bao vây về kinh tế, chính trị. Quan hệ quốc tế
ngày càng mở rộng, tạo ra môi trường thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì những yếu kém và khó khăn còn rất lớn: Đất
nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng
chưa được giải quyết như lạm phát cao, lao động thiếu việc làm, nhiều cơ sở sản xuất đình
đốn kéo dài. Số lao động thiếu việc làm tăng. Chế độ lương bất hợp lý. Tốc độ dân số còn quá
cao; tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều; văn hoá xã hội có những mặt tiếp tục xuống cấp.
Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, bất công trong xã hội tăng thêm, an ninh trật tự và an tòan xã
hội còn phức tạp, vẫn còn nhân tố gây mất ổn định chính trị, bộ máy nhà nước, Đảng và các
đoàn thể nhân dân cồng kềnh, quan liêu, hoạt động kém hiệu quả.
Đại hội đã làm rõ nguyên nhân của khuyết điểm, yếu kém, đồng thời bước đầu rút ra năm
kinh nghiệm trong tiến hành công cuộc đổi mới:
Một là: Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới.
Hai là: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp.
Ba là: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nưóc về kinh tế - xã hội.
7



Bốn là: Phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm là: Quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề
mới nảy sinh, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở kiểm điểm việc thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra và căn cứ
vào đặc điểm tình hình đất nước, Đại hội tiếp tục đưa ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu
trong 5 năm 1991 - 1995.
+ Về mục tiêu: "... mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công
xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”.
+ Đại hội nêu lên bốn phương châm chỉ đạo là: tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn
dân; kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài hoà lợi ích cá nhân với lợi
ích tập thể và xã hội; tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới đi vào
chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời thúc đấy mạnh
mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác; tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi để mở rộng và tăng
cường quan hệ quốc tế về mọi mặt.
+ Đại hội nêu lên một số nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra như: ổn định
và phát triển kinh tế trên cơ sở tập trung đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu; xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế; kết hợp hài hoà phát triển kinh tế
với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến
tranh nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
+ Đại hội VII của Đảng đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chi nam cho hoạt động của Đảng.
+ Đại hội khẳng định đường lối đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỷ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tổng kết

cách mạng Việt Nam từ năm 1930, nêu lên những bài học và đặc biệt là xác định sáu đặc
trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng do nhân dân lao động làm
chủ: có một nền kinh tế phát triển cần dựa trên lực lượng sản xuất, hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các
dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
+ Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, phải
trải qua nhiều chặng đường.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 là mốc
đánh dấu sự phát triển tư duy chính trị của Đảng ta, thể hiện nhận thức sâu sấc về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, về công cuộc đổi mới.

8


Đại hội VII là cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước trưởng
thành của Đảng ta. Đại hội đã thực sự làm tròn trách nhiệm mà lịch sử giao phó, đó là "Đại
hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết".
Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt cơ sở và
quyết định những bước đi cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Từ đó củng cố them niềm
tin tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước.
+ Trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang diễn ra những biến đổi phức tạp thì “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” đã thể hiện bản lĩnh
vững vàng, sự kiên định về lập trường chính trị của Đảng ta trong qụá trình lãnh đạo cách
mạng và tạo niềm tin cho nhân dân ta về sự thắng lợi tất yếu của công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Lần đầu tiên trong lãnh dạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có một bản Cương

lĩnh toàn diện, khái quát và nêu lên những vấn đề cở bản trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hộ, an ninh quốc phòng của đất nước, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
trong công cuộc đổi mới.
2.1.3 Đại hội VIII (6/1996) Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ trên tinh thần Đại hội VII đề ra.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VIII khẳng định: tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế,
hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế; đồng
thời, chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà
Nội, từ ngàv 28-6 đến ngày 1- 7 1996. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu và nhiều đoàn đại biểu
quốc tế. Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng:Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII, Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 1996 - 2000, Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi) và Nghị quyết Đại hột đại bỉểu toàn quốc
lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội VIII của Đảng có nhiệm vụ quan trọng là kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII và tổng kết 40 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Đại hội khẳng định, sau 10 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã thu được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng: Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức
nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm; tạo ra được một số chuyển biến tích cực về mặt
xã hội; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện có kết quả một số
đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị: phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế bị
bao vây cấm vận, mở rộng hợp tác và tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Để bảo đảm thực hiện mục tiêu, Đại hội VIII đềra những định hướng phát triển các lĩnh
vực chủyếu:
+ Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tếtheo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quán triệt
các quan điểm và nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt coi trọng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.


9


+ Nắm vững chính sách đối với các thành phần kinh tế, nắm vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu
quả kinh tế nhà nước đểlàm tốt vai trò chủ đạo, đồng thời phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu thủcông, kinh tế tư bản tư nhân.
+ Tiếp tục đổi mới cơ chếquản lý kinh tế bao gồm việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, đổi
mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của
Nhà nước.
+ Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Giải quyết một sốvấn đềxã hội, trước mắt là tập trung sức tạo việc làm, xoá đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, đẩy mạnh công tác dân số, kế hoạch hoá
gia đình, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
+ Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng cơ chế
cụ thể, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
+ Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng.
+ Tăng cường quốc phòng và an ninh, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân, kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách rộng mở, đa phương hoá và đa
dạng hoá quan hệ đối ngoại
Đồng thời, Đại hội cũng chỉ rõ những tồn tại và yếu kém: Nước ta còn nghèo và kém phát
triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dành
vốn cho đầu tư, phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
Việc lãnh dạo xây dựng quan hệ sản xuất có phần vừa lúng túng, vừa buông lỏng. Quản lý nhà
nước về kinh tế, xã hội còn nhiều thiếu sót; hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.

Đại hội nhất trí đánh giá tổng quát: "Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm
1991 - 1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
2.2 Từ 1996 đến nay. Đây là giai đoạn xây dựng đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế
2.2.1 Đại hội IX ( 4/2001) Đảng đề ra chủ trương: “ Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát
triển”
Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc
khẳng định “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế.
Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị
quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội
nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ 1991 đến
nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh nghiệm về đối ngoại. Đây là

10


một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt
động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính sách và hoạt động đối
ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành tựu
rất to lớn, được thể hiện trên các mặt: “Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với
tất cả các nước, trung tâm chính trị – kinh tế lớn trên thế giới”.
Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi
ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực:

+ Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào không ngừng được củng cố và mở rộng,
hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu quả.
+ Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp
tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ
chức khu vực và quốc tế.
+ Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới
theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai”.
Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về
Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau
khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông – Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có
nhiều đóng góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ
bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp hội ở khu vực
và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền
thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước
thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung – Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình
nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời,
chúng ta đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung
Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có
lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù
địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác
lại quá khứ, hướng tới tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến
nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào

các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu
(ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ
với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB)… Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-1-2004) nhấn mạnh yêu
11


cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển đất nước
thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Đặc biệt là công tác nghiên cứu, tham
mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan
hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với các
mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam tại các
tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng
các nước có sử dụng tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại,
phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hòa bình và các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức,
Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách
rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài đã được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt
ở nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và
tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở
nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
2.2.2 Đại hội X (4/2006) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tình hình hợp
tác quốc tế khu vực , chủ độc tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”

Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thự hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời để ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế”.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối,chính sách
phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo được tình huống thuận lợi và
khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong,
từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoành chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà
nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều cơ hội song cũng
đầy thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích hợp, vừa phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức quốc tế mà ta tham gia. Sau hơn
11 năm chuẩn bị và đàm phán, tháng 11-2006, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

12


Việc gia nhập tổ chức quốc tế này là một cột mốc hết sức quan trọng, mở ra nhiều điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế. Đó là ta được hưởng sự đối xử bình
đẳng trong quan hệ thương mại với 150 thành viên WTO, những hàng rào thuế quan phi WTO
mà ta phải chịu trước đây đều được bãi bỏ tạo điều kiện cho ta tăng khả năng xuất khẩu. Cơ
hội để Việt Nam thu hút đầu tư của các nước cũng tăng lên. Hiện nay ta có quan hệ đầu tư với
khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Một nét mới khác của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới là ngoại giao văn hóa được

đẩy mạnh và nâng lên thành một trụ cột chính cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao
kinh tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Năm 2009 được lấy làm năm Ngoại giao văn hóa. Bộ
Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ban, ngành và nhiều địa phương triển khai nhiều hoạt
động văn hóa đối ngoại đa dạng, phong phú, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều hoạt
động văn hóa đối ngoại được tổ chức trong và ngoài nước, góp phần quảng bá rộng rãi hình
ảnh một nước Việt Nam hòa bình, phát triển và thân thiện với cộng đồng quốc tế. UNESCO
đã ra Nghị quyết kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, trao giải thưởng cho Hà Nội là
“Thành phố vì hòa bình”. Nhiều di sản của đất nước, như quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Kho mộc
bản triều Nguyễn… và nhiều thắng cảnh, như Cù Lao Chàm, Mũi Cà Mau v.v.. đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tháng 10-2009, Việt Nam đã được bầu vào
Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 – 2013.
2.2.3 Đại hội XI ( 1/2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Chủ độc tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế”
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VII),
“sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần
thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm từ là “thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt
Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ
chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng
cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao
song phương. Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một trong những ưu
tiên đối ngoại trong thời gian tới là “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”. Tuy vậy,
trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế nào luôn luôn cần được tính
toán kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của ta trong từng vấn đề, từng
giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo các cấp độ: trách nhiệm đối với dân tộc của
mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình; trách nhiệm đối với những vấn đề chung của
nhân loại.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội XI có những
bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện ở những nội dung chính dưới đây:

Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi ích quốc gia, dân
tộc” . Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm
lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

13


Xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân
tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong phần đối
ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Nói như vậy không có nghĩa
Đảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra
đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Nghị quyết 13 của
Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng
cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” . Nghị quyết Trung
ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu
then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .
Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại
hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch
định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng
định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định
lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi ích quốc gia,
dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích
quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước,
đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của
công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao
vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân

chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” . Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và
nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ
đổi mới.
Điểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an
ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia.
Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là một trong những
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp
ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự
nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, tái khẳng
định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu:
“bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”.
Bên cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại hội XI, phần định hướng giải quyết
các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước
liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn đề tồn tại trên cơ sở các “nguyên tắc ứng
xử của khu vực”.
Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại hội khẳng định:
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin

14


cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối
ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”.
Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông qua
tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với chủ trương này, hội nhập

quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả
chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội....
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất là khả
năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Cùng với hội nhập kinh tế, hội nhập
trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri thức tiên tiến của nhân loại,
gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của
khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn
cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cũng tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác
động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực.
Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển
sang hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Tác
động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả
về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta; các loại tội
phạm xuyên biên giới như: buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động,
văn hóa phẩm không lành mạnh và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây
tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Phạm
vi và tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và
hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân
lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao v.v... sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập
quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và
văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và bối cảnh tình
hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ
quốc XHCN và vị thế quốc gia.
Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu quả
các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, Đại hội XI
nêu định hướng về: giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ; ưu tiên đối tác và định
hướng quan hệ ASEAN; đối ngoại Đảng; ngoại giao nhân dân và; định hướng tổ chức thực
hiện. Về đối ngoại quốc phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, song

phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” . Với định hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ
tiếp tục phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu
rộng vào khu vực và thế giới.
Về định hướng tham gia trong ASEAN, Đại hội XI chỉ rõ: “Chủ động, tích cực và có trách
nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các
đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương” . Định hướng này là bước phát triển cao hơn từ định hướng: “Thúc đẩy quan hệ
15


hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á-Thái Bình Dương”
được thông qua tại Đại hội X. Bước phát triển này thể hiện, Đảng ta khẳng định rõ Việt Nam
là một thành viên trong ASEAN, Việt Nam tham gia các hoạt động trong ASEAN với tư cách
là một thành viên có trách nhiệm; chỉ rõ mục tiêu của các hoạt động của Việt Nam trong
ASEAN là xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN; xác định rõ đặc tính của Cộng đồng
ASEAN mà Việt Nam phấn đấu cùng các nước xây dựng là một cộng đồng vững mạnh, có
quan hệ chặt chẽ với các đối tác bên ngoài và có vai trò ngày càng quan trọng trong các cơ
chế hợp tác ở khu vực; đồng thời khẳng định, phương châm tham gia hợp tác ASEAN là chủ
động, tích cực và có trách nhiệm. Với định hướng này, việc tham gia trong ASEAN trở thành
một trong những trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, ngang với “quan hệ hợp
tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng chung biên giới”.
Thứ sáu, về triển khai các hoạt động đối ngoại, Đại hội XI nêu: “Triển khai đồng bộ, toàn
diện hoạt động đối ngoại”. Khi hội nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai
đối ngoại tất yếu phải toàn diện và để các hoạt động này không chồng chéo, không triệt tiêu
lẫn nhau thì việc triển khai phải được thực hiện đồng bộ. Tính toàn diện của đối ngoại Việt
Nam được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống
chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối ngoại; tính toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối
ngoại và; sự đa dạng của các mối quan hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập.

Triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt động đối ngoại, nói cách khác là xây dựng một
nền đối ngoại toàn diện, sẽ tạo nên xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, các loại hình, các
kênh đối ngoại, nhưng cũng tạo nên một số thách thức mới. Nếu không có kế hoạch tổng thể
và nếu không có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh, các lĩnh vực
đối ngoại thì sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm suy giảm hiệu quả của các hoạt động đối
ngoại.
Coi triển khai đồng bộ và toàn diện là phương châm ưu tiên trong triển khai đối ngoại, Đại
hội XI sẽ tạo ra nhận thức và đồng thuận lớn hơn trong Đảng và nhân dân về tính chất mới
của sự nghiệp đối ngoại cũng như nêu rõ hơn yêu cầu tham gia tích cực và chủ động hơn của
mọi lực lượng trong hoạt động đối ngoại, đồng thời đưa tới những bước tiến mạnh hơn theo
hướng thống nhất chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các Bộ/ngành và địa
phương.
Với những phát triển mới trong đường lối đối ngoại Đại hội XI, chúng ta càng tin tưởng
chắc chắn rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiếp tục thu được những
thắng lợi mới. Tuy nhiên, để đường lối sớm đi vào cuộc sống, cần phải có nỗ lực vượt bậc
trong tất cả các khâu, từ cụ thể hóa đường lối thành chính sách đến xây dựng và triển khai
chiến lược, kế hoạch, đề án đối ngoại. Là binh chủng chủ lực trong đối ngoại, Đảng bộ Bộ
Ngoại giao đã và đang triển khai học tập nghị quyết Đại hội XI trong toàn thể đảng bộ và cán
bộ của Bộ; tổ chức nghiên cứu để đóng góp vào quá trình cụ thể hóa đường lối đối ngoại, nhất
là những vấn đề liên quan đến việc xác định nội hàm, xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế trong
các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội. Bộ Ngoại giao cũng đang triển
khai kế hoạch nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ của Bộ, phối hợp với các địa phương bồi
dưỡng kiến thức đối ngoại cho các cán bộ đang công tác tại cơ quan ngoại vụ các tỉnh, thành
phố; đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai định hướng “thường xuyên bồi
dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp” đã được Đại hội XI thông qua. Tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các
16


cấp, các địa phương, Bộ Ngoại giao sẽ nỗ lực vượt bậc, góp phần thực hiện thành công đường

lối đối ngoại Đại hội XI.

2.2.4 Đại hội XII (1/2016)Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảm bảo lợi ích tối cao của quôc
gia dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh, mục tiêu của đối ngoại trong
5 năm tới là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”.
Mục tiêu này được đưa ra dựa trên những bài học có được từ 30 năm đổi mới, phù hợp với bối
cảnh và tình hình quốc tế mới.
5 năm qua, bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, phức tạp và khó lường. Thực
hiện tư duy đối ngoại đề ra từ Đại hội XI của Đảng, Việt Nam đã “triển khai đồng bộ, toàn
diện, có hiệu quả các hoạt động đối ngoại” trên tất cả các kênh song phương và đa phương,
dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội
và đối ngoại nhân dân.
Kết quả nổi bật của hoạt động đối ngoại trong 5 năm qua là đã hoàn thành việc xây dựng
khuôn khổ quan hệ đối tác với hầu hết các nước có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đã thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với 8 nước, nâng cấp lên đối tác chiến
lược toàn diện hoặc sâu rộng với 2 nước, lập quan hệ đối tác toàn diện với 3 nước…
Đặc biệt, 5 năm qua, Việt Nam đã hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực
và thế giới, hoàn thành 3 Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) với Hàn Quốc, Liên
minh kinh tế Á - Âu và Liên hiệp châu Âu.
Đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam đã tích cực triển khai các biện pháp
ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC...
Tháng 10/2015, Việt Nam cùng với các nước thành viên đã kết thúc đàm phán Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đối với các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đông, chúng ta cũng có nhiều chủ
trương, giải pháp xử lý, tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư
luận quốc tế ủng hộ.
Những thành quả trên có được là nhờ chúng ta đã kiên định mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh”.

Mục tiêu này sẽ được tiếp nối trong nhiệm kỳ khóa XII trên cơ sở cao hơn. Về chủ trương,
đường lối đối ngoại, Dự thảo Báo cáo Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: mục
tiêu của đối ngoại là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vứng
môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc” vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu đặt ra đối với
công tác đối ngoại trong 5 năm tới.
Trong bối cảnh hòa bình, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của nhiều quốc gia trên thế giới
đang bị đe dọa, một lĩnh vực hợp tác hết sức quan trọng trong chính sách đối ngoại chung của

17


chúng ta, đó là hợp tác quốc phòng. Đối ngoại quốc phòng của chúng ta cũng thực hiện nhất
quán chủ trương của Đảng và Nhà nước “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia
trong cộng đồng quốc tế”.
Việt Nam chủ trương hợp tác quốc phòng - quân sự với tất cả các nước láng giềng, các
nước lớn, các nước bạn bè truyền thống, đặc biệt là các nước trong Hiệp hội ASEAN.
Một trong các nguyên tắc của chúng ta là độc lập, tự chủ, quan hệ bình đẳng, cùng có lợi,
không đi với nước này để chống lại nước khác.
Với chủ trương hợp tác đúng đắn của mình, chính sách đối ngoại của Việt Nam đã góp phần
quan trọng trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đóng góp
tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững chủ quyền
lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc

C. KẾT LUẬN
Qua 25 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt

được những kết quả:
 Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc
tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề
Campuchia đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (ngày 10-11-1991); tháng 11-1992,
Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa quan hệ
với Hoa Kỳ (ngày 11-7-1995).
Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nuớc ta với khu vực
Đông Nam Á.
 Hai là, giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên
quan. Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp "gác tranh chấp, cùng khai thác" ở
vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tích tranh chấp vùng biển giữa ta và các
nước ASEAN. Đã ký với Trung Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định
phân định Vịnh Bắc bộ và Hiệp định họp tác về nghề cá.
 Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.
- Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5
nước ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng
vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung về hợp tác với EU (năm 1995);
năm 1999 ký thỏa thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ "Láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết hiệp định thương mại
song phương Việt Nam — Hoa Kỳ; tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (năm
2001); khung khổ quan hệ đối tác tin cậy và ồn định lâu dài với Nhật Bàn (năm 2002).
- Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 nước trên thế giới.
- Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường
trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008 — 2009.
Năm 2010 Việt Nam đã đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; tích cực
tham gia và có những đóng góp cho nhiều hoạt động đa phương khu vực và trên thế giới, như
18



tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu về an ninh hạt nhân và giải trừ vũ khí hạt nhân, phòng
chống tội phạm, biến đổi khí hậu....
 Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ
tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB); sau
khi gia nhập ASEAN (tháng 7-1995) Việt Nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA); tháng 3-1996, tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên
sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC); ngày 11-2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
 Năm là, mở rộng thị trường , tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quàn lý.
- Về mở rộng thị trường: Đến năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại, đầu tư với
khoảng 230 nước và vùng lãnh thổ, đưa tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP lên trên
170%. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền kinh tế thế giới. Nếu
năm 1986 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 789 triệu USD, đến nắm 2007 đạt 48 tỷ
USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD; năm 2010 ước đạt 71,6 tỷ USD.
- Hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến
được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua
các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được
nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
 Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi
trường cạnh tranh.
- Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý,
nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát
triển.
- Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà
doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đánh giá: "hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao".
Những kết quà trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài
kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh tổng họp, góp phần đưa đến
những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ, định hướng xã
hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) nhận định: nước ta "có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới".
 Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế
cũng bộc lộ những hạn chế:
 Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động.
Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.

19


 Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng
quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa, hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây
khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc tế.
 Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ
trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
 Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành
dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao bơn các
nước khác trong khu vực.
 Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nói chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số
lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh
doanh.
 Bài học kinh nghiệm

 Bài học quan trọng nhất: là phải luôn phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực
tự cường đi đôi với tăng cường đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; xác định đúng, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu; có cách nhìn đúng
đắn, linh hoạt về đối tượng và đối tác trong bối cảnh mới.
 Bài học về thường xuyên đổi mới tư duy đối ngoại: Điều này chỉ có thể có được bằng
việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận Mác – Lê-nin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh,
mà nổi bật là nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “thêm bạn bớt thù”. Quá trình đổi mới tư
duy phải luôn gắn chặt với hoàn cảnh thực tế, yêu cầu nhiệm vụ cấp thiết của đất nước, trên
quan điểm nhìn nhận Việt Nam là một bộ phận của thế giới, có sự gắn bó, tác động qua lại
mật thiết với thế giới bên ngoài. Đổi mới tư duy đối ngoại thể hiện ở cách nhìn nhận, tiếp cận
mới khi đánh giá, dự báo tình hình thế giới, xu thế của thế giới, thời đại.
 Bài học về công tác lý luận, nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình: Thực tiễn cho
thấy phải luôn luôn chú trọng công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình, tổng kết lý
luận và thực tiễn để kịp thời rút ra những bài học quý báu cho các giai đoạn tiếp theo của
công tác đối ngoại.
 Bài học về thống nhất đối ngoại: Phải không ngừng hoàn thiện cơ chế thống nhất quản
lý đối ngoại nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của cả nước trong
triển khai chính sách và hoạt động đối ngoại.
Bài học về công tác cán bộ: Phải luôn quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại
giao vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ mới.

20



×