Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.98 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH ĐỨC

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN
NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH ĐỨC

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN
NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH

Hà Nội, năm 2019




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ SƠ THẨM ................................................................................................6
1.1. Khái niệm ........................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng.
1.1.2. Khái Khái niệm về phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.1.3. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòahình sự sơ thẩm
1.2.1.Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
1.2.2.Ý nghĩa tranh tụng phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.3. Cơ sở của việc quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ................13
1.4. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển quy định về tranh tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm từ trước năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 .......................................................................................................................14
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH
PHƯỚC ....................................................................................................................21
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm ......................................................................................................21
2.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã Bình
Long, tỉnh Bình Phước ...........................................................................................33
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.......................................................................48
3.1. Nhu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ...........48
3.2. Một số giải pháp cụ thể ..................................................................................51
KẾT LUẬN ..............................................................................................................66



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Theo nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”, chủ trương đề cao vai trò tranh tụng tại phiên tòa nói chung và tranh
luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, tiếp
tục đề cập tới nội dung này và một lần nữa lại khẳng định: “Nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp”.
Việc tranh tụng tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo cho đại diện Viện
kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị hại, bị hại và những người tham gia tố tụng khác được phân tích, đánh giá
chứng cứ của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất với pháp
luật., qua đó giúp cho Hội đồng xét xử có những định hướng, nhận định khách
quan, toàn diện về toàn bộ vụ án, giúp cho việc tranh tụng đi đúng trọng tâm, nghị
án và tuyên án một cách khách quan, chính xác và đầy đủ.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thời gian qua đã cho thấy về mặt lý luận cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các quy định về trình tự tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự còn một số bất cập, hạn chế như: Đối với vụ án mà bị cáo
có người đại diện hợp pháp thì chưa quy định người đại diện hợp pháp của bị cáo
trình bày bào chữa cho bị cáo và đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
lẽ ra người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ sẽ trình bày buộc tội đối với bị cáo trước khi người bào chữa bào

chữa cho bị cáo hoặc trước khi bị cáo trình bày bào chữa cho mình (nếu không có
người bào chữa) thì mới phù hợp với chức năng của bên buộc tội và bên bào chữa
trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, tranh tụng chưa phát huy đúng mức, nhiều vụ án
chưa phát huy hết khả năng tranh luận của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên
1


tòa; một số Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa chưa xem trọng quá trình tranh tụng tại
phiên tòa, chưa tạo điều kiện cho các bên tham gia tranh luận và đối đáp một cách
tích cực, thường khống chế thời gian tranh luận; trình độ chuyên môn và kỹ năng
một số kiểm sát viên còn hạn chế, chưa am hiểu nhiều lĩnh vực, chưa tương xứng
với nhiệm vụ được giao; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác hoặc
người đại diện hợp pháp của họ phần lớn rất hạn chế về hiểu biết pháp luật và
không có kỹ năng tranh luận…
Để khắc phục những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng
hình sự và trong thực tiễn áp dụng pháp luật về trình tự tranh tụng tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm, giúp cho Hội đồng xét xử có những định hướng, nhận định khách quan,
toàn diện về toàn bộ vụ án, để từ đó đưa ra những nhận định và phán quyết đúng
đắn về vụ án, phát huy tính dân chủ, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con
người mà Hiến pháp đã ghi nhận, góp phần tích cực trong công cuộc cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước đang đặt ra. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước” làm đề tài luận văn Thạc sĩ
Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình nghiên cứu thấy rằng trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề đã có nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh với phạm vi khác nhau. Chẳng hạn như:
- Luận văn Thạc sĩ “Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam - Những lý luận và thực tiễn” của tác giả Ngô Huyền Nhung (năm 2012);

- Luận văn Thạc sĩ “Thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo Luật
tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Văn
Chung (năm 2015).
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có liên
quan đến tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm như: “Một số vấn đề tranh tụng
trong tố tụng hình sự” của Lê Tiến Châu (Tạp chí Khoa học pháp lý số 01 năm
2003); “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và
2


phương hướng hoàn thiện” của tác giả Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh toà hình sự,
TANDTC (năm 2011);
Hầu hết các công trình đó là những công trình nghiên cứu cơ bản và trực
diện về tổ chức và hoạt động của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;
về xét xử sơ thẩm và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm trong vụ án hình sự nói chung;
còn về trình tự tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân
thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước thì chưa được khoa học pháp lý Việt Nam quan
tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng trong vụ án hình sự mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vị trí, vai trò của
những chủ thể này trong hoạt động tố tụng hình sự và nghiên cứu về những đổi mới
trong việc tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; những đổi mới về tổ chức
phiên tòa sơ thẩm và thủ tục xét xử sơ thẩm mang tính chất chung chung mà chưa
được triển khai nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn trong một
công trình khoa học độc lập; chưa đánh giá một cách toàn diện về trình tự tranh
tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Như
vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên
cứu đề tài Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước” là đòi hỏi
khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

- Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm đánh giá một cách có hệ thống và toàn
diện về trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, chức năng và vai trò của các chủ thể cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
So sánh, đối chiếu giữa Bộ luật Tố tụng năm 2003 với Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 để tìm ra những quy định còn bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra những đề
xuất, kiến nghị những giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện các quy định của
3


pháp luật về trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Đồng thời, đánh giá thực trạng qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại một số Tòa
án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh, từ đó có những kiến nghị cụ thể để việc áp dụng
pháp luật về Tố tụng hình sự, nhất là về trình tự tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm, để xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tham gia
tranh tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự, nhằm đảm bảo cho Hội đồng xử xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để có những nhận định và quyết định
chính xác hơn, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan người
không phạm tội hoặc bỏ lọt người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu đề tài
Các quy định của pháp luật về trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, khảo sát các phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án
nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.
- Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi là một luận văn Thạc sĩ Luật học thuộc chuyên ngành

Luật hình sự và Tố tụng hình sự, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề
chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến trình tự tranh tụng tại phiên tòa
sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nhất là về thực tiễn áp dụng pháp luật
về trình tự tranh tụng, thực trạng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm tại
Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.
5. Cơ sở lý luận vàPhương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu để làm sáng tỏ những nội dung trong đề tài: Phần
mở đầu và Chương 1, được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng mác-xít; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối
chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa
học luật hình sự. Ở Chương 2, Chương 3 được thực hiện trên cơ sở phương pháp
4


phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê và khảo sát thực tiễn để tìm ra luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trong tiến trình cải cách tư pháp, việc nâng cao chất lượng tranh tụng (phần
tranh luận, đối đáp giữa bên buộc tội và bên bào chữa) có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định sự thật, hạn chế oan sai, đúng người đúng tội. Người viết đã phân tích
thực trạng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bình
Long, tỉnh Bình Phước. Từ thực tiễn xét xử, người viết lần lượt phân tích vai trò,
trách nhiệm và những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể
tham gia hoạt động tranh tụng. Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, người viết đã
trình bày những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án nhân dân
thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề chung về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Chương 2: Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thị xã Bình
Long, tỉnh Bình Phước.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng
Trong từ điển Tiếng Việt, tranh tụng là “Thưa kiện nhau để dành lẽ phải” [1,
tr.1966]. Trong tiếng Anh, tranh tụng (litigation) là thuật ngữ được sử dụng để mô
tả thủ tục tố tụng được khởi xướng giữa hai bên đối lập nhau để buộc thi hành hoặc
bào chữa về một quyền hợp pháp [36]. Như vậy, xét về góc độ từ ngữ, tranh tụng là
sự cáo buộc, kiện tụng, đấu tranh giữa hai bên có những lợi ích đối lập theo quy
định của pháp luật.
Xét về mặt thuật ngữ pháp lý, “Tranh tụng xuất hiện khi có sự xung đột lợi
ích giữa hai chủ thể trong một quan hệ pháp lý nhất định mà bản thân các chủ thể
đó không tự giải quyết được phải cần đến chủ thể thứ ba làm trọng tài phân xử”
[27]. Có thể hiểu, tranh tụng diễn ra khi hai chủ thể trong cùng một quan hệ pháp lý
có lợi ích trái ngược nhau không ngừng mâu thuẫn, đấu tranh, phủ định ý kiến, lập
luận của nhau. Tranh tụng có thể diễn ra trong tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố
tụng hành chính. Nhưng trong phạm vi bài viết, người viết chú trọng đến tranh tụng
trong tố tụng hình sự, cụ thể là tranh tụng tại phiên tòa hình sự - đỉnh điểm của quá
trình tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Trong khoa học pháp lý khái niệm “tranh tụng” không còn quá mới mẻ đối

với Việt Nam. Nhưng trước năm 2002, vấn đề tranh tụng ở nước ta còn là một vấn
đề khá mới, nhiều ý kiến tỏ rõ quan điểm không thừa nhận “tranh tụng” trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Kể từ sau Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây xin gọi tắt là
Nghị quyết 08) được ban hành. Ngày càng nhiều tác giả đề cập đến vấn đề tranh
tụng trong tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng.
Ta có thể kể đến một số quan điểm nổi bật sau:

6


Thứ nhất, có khá nhiều quan điểm đã nhận định tranh tụng chính là cuộc
tranh luận (tranh cãi) về vụ án mà trong đó các bên đưa ra lý lẽ, chứng cứ hoặc các
văn bản pháp luật nhằm bảo vệ sự buộc tội hoặc bào chữa của mình: Trong chuyên
đề: “Tranh tụng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Viện Kiểm Sát
nhân dân tối cao đã khẳng định: “Tranh tụng được hiểu với nghĩa không phải là một
kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự, cụ thể là tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự,
bao gồm cả phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm…”[31]. Hoặc “Tranh tụng là chỉ cuộc
tranh luận về vụ án bằng cách các bên tham gia đưa ra các lý lẽ, chứng cứ và các
văn bản làm cơ sở cho sự buộc tội hay bào chữa của mình để người thứ ba đứa
giữa hai bên là tòa án làm trọng tài phân xử” [10, tr.31] hoặc “Tranh tụng cần
phải được hiểu là sự tranh luận theo thủ tục quy định của luật tố tụng” [11, tr.4].
Theo tôi, các quan điểm trên chưa thật sự phù hợp. Bởi vì các quan điểm này đã
đồng nhất khái niệm tranh tụng với khái niệm tranh luận. Về bản chất, tranh tụng và
tranh luận có mối quan hệ mật thiết nhưng không thể đồng nhất. Tranh luận là một
thủ tục độc lập của phiên tòa hình sự, đứng sau phần xét hỏi. Trong tranh luận, các
bên bằng lời nói hay tư duy của mình để tổng hợp, đánh giá giá trị chứng cứ hay các
nội dung liên quan đến vụ án đã được trình bày trong phần xét hỏi trước đó. Trong

phần tranh luận tại phiên tòa, tính tranh tụng thể hiện rất rõ nhưng tranh luận không
bao quát được hết bản chất tranh tụng. Tranh tụng không chỉ gói gọn trong những
lời nói qua lại tại tòa mà rộng hơn là tranh tụng còn thể hiện qua các hoạt động tố
tụng khác. Vì vậy tôi không đồng tình với các quan điểm trên.
Thứ hai, có quan điểm cho rằng tranh tụng là “Quá trình xác định sự thật
khách quan về vụ án, đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích Tố
tụng hình sự có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng của mình ở tất cả
các giai đoạn của quá trình Tố tụng hình sự”[9, tr.23-24]. Theo ý kiến của tác giả,
quan điểm này vừa có điểm hợp lý, vừa có điểm chưa hợp lý. Chưa hợp lý ở chỗ
tranh tụng không phải quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án. Nhưng tác
7


giả Nguyễn Đức Mai đưa ra được điểm tiến bộ đó là tranh tụng là phương tiện, tiền
đề quan trọng để xác định sự thật vụ án đồng thời cũng là phương tiện bảo đảm cho
các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự có thể thực hiện một cách có hiệu
quả chức năng của mình. Bởi lẽ, khi tranh tụng được bảo đảm, quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể được phân định một cách rõ ràng, từ đó việc thực hiện chức năng tố
tụng của các bên cũng sẽ đạt hiệu quả cao. Trong các hoạt động tố tụng nếu thiếu
mất đi sự tranh tụng, thì các hoạt động tố tụng trở nên phiến diện, một chiều. Chính
vì vậy, tranh tụng là tiền đề quan trọng để xác định sự thật khác quan của vụ án.
Thứ ba, có quan điểm trình bày tranh tụng là “quá trình cọ sát các quan
điểm, lập luận về vụ án giữa các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào
quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khác quan của vụ án” và “quá
trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ của các bên
buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án”[3, tr.41-42]. Tác giả
đồng tình với khái niệm của tác giả Lê Tiến Châu. Tranh tụng là quá trình mà trong
đó các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa cọ sát, tiếp xúc các quan điểm, lập luận
về các vấn đề liên quan đến vụ án với nhau nhằm xác định sự thật khác quan của vụ
án.

Từ những quan điểm trên, có thể hiểu tranh tụng là quá trình tồn tại, vận
động và đấu tranh giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội..Tranh tụng thể hiện rõ ràng
nhất trong thủ tục tranh luận tại phiên toà nhưng tranh tụng và tranh luận không
hoàn toàn đồng nhất. Tranh tụng cũng là phương tiện, tiền đề quan trọng cho quá
trình xác định sự thật khách quan của vụ án diễn ra công bằng, đảm bảo các quyền
của công dân, quyền con người đồng thời vừa kiểm soát tốt tội phạm, tạo nên lòng
tin cho nhân dân về sự công bằng, chính trực của các cơ quan tiến hành tố tụng,
cũng như nhận thức đúng về vai trò của người bào chữa trong hoạt động tố tụng
hình sự.
1.1.2. Khái niệm về phiên tòa hình sự sơ thẩm

8


Phiên tòa hình sự sơ thẩm là hình thức tố tụng của xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự; đó là hình thức hoạt động của Tòa án ở cấp thấp nhất để xem xét và ra phán
quyết lần đầu về toàn bộ vụ án hình sự theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
1.1.3. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng là một giai đoạn của tranh
tụng trong tố tụng hình sự và ở giai đoạn này tranh tụng cũng là sự đối trọng nhằm
phủ định lẫn nhau giữa bên buộc tội và gỡ tội nhưng sự khác biệt ở đây là đã có sự
xuất hiện của Tòa án với vai trò là trọng tài của hai bên tranh tụng. Vì vậy, buộc tội,
bào chữa và xét xử là kết quả tranh tụng tại tòa chính là căn cứ để Hội đồng xét xử,
bên buộc tội và bên bào chữa xác định sự thật vụ án được khách quan nhất.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, chức năng buộc tội trực tiếp do kiểm sát viên,.
Bị hại được quyền trình bày ý kiến, đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Chức năng bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chủ yếu do
bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của (bị cáo, pháp nhân thương
mại) thực hiện. Từ sự phân tích nêu trên cho thấy, tranh tụng tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm là tổng hợp những hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng

hình sự được các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa thực hiện công khai tại phiên
tòa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận của mình và
phản bác chứng cứ, lập luận của bên kia về vụ án dưới sự điều khiển, quyết định của
Hội đồng xét xử nhằm thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của mình
trong việc giải quyết vụ án.
1.2 . Đặc điểm, ý nghĩa tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
1.2.1.Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
- Thứ nhất, về chủ thể tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Ba chức năng của tố tụng hình sự (buộc tội, gỡ tội, xét xử) là ba chức năng
tất yếu, tiền định.
- Nhóm chủ thể có chức năng tranh tụng gồm:
+ Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội: Viện kiểm sát (đại diện là Kiểm sát
viên)- là chủ thể buộc tội nhân danh Nhà nước (quyền công tố);
9


+ Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại (trường hợp vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của bị hại) - là chủ thể buộc tội nhân danh cá nhân (quyền tư tố).
Buộc tội nhân danh nhà nước là nội dung chủ yếu của chức năng buộc tội,
thực hiện việc xét hỏi, đề nghị Hội đồng xét xử quan điểm giải quyết vụ án bằng
bản luận tội; tranh luận, đối đáp với bên gỡ tội và người tham gia tố tụng...
Buộc tội nhân danh cá nhân gồm có bị hại, nguyên đơn dân sự; người đại
diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự.
+ Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa: Bị cáo, người bào chữa; người đại
diện cho bị cáo hoặc pháp nhân thương mại đưa ra các chứng cứ, các căn cứ pháp lý
và lập luận để bác bỏ sự buộc tội, đưa ra các kết luận, yêu cầu và đề nghị với
HĐXX về việc giải quyết vụ án.
- Nhóm chủ thể có chức năng xét xử: Gồm có Hội đồng xét xử (Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa, thẩm phán, hội thẩm) giữ vai trò trọng tài giữa bên buộc tội và
bên bào chữa.

- Nhóm các chủ thể khác tham gia vào hoạt động tranh tụng nhằm giúp Tòa
án xác định sự thật khách quan, giải quyết đúng đắn các vấn đề của vụ án (Thư ký
phiên tòa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án; người làm chứng, người giám định, người phiên dịch; người dịch thuật;
đại diện cơ quan, tổ chức xã hội..).
- Thứ hai, về nội dung tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là thực hiện
việc xét hỏi để chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa
điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Ai là người thực hiện hành vi
phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự
hay không. Mục đích, động cơ phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của bị cáo. Tính chất, mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Lúc này, nội dung
tranh tụng mới chỉ xoay quanh các vấn đề chứng minh tính hợp pháp và giá trị
chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án (thu thập, kiểm tra, đánh
10


giá) chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại tòa giữa bên buộc tội với
bên gỡ tội mà chưa bộc lộ rõ quan điểm của bên buộc tội và bên bào chữa - là hai
bên của cuộc tranh tụng về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án.
Dựa trên kết quả chứng minh về chứng cứ tại tòa, Hội đồng xét xử chỉ lắng
nghe để ghi nhận đầy đủ ý kiến của các bên trong cuộc tranh luận; Chủ tọa phiên
tòa không được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho các bên trình
bày, đối đáp hết các ý kiến của họ giúp Hội đồng xét xử có được những đánh giá
khách quan, toàn diện về các vấn đề cần giải quyết của vụ án làm cơ sở giải quyết
vụ án được chính xác, đúng pháp luật.
- Thứ ba, về phạm vi tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Phạm vi tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chính giữa các bên được bắt
đầu sau khi Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa, tức là bắt đầu từ thủ tục bắt đầu

phiên tòa đến xét hỏi, tranh luận, nghị án và kết thúc khi Hội đồng xét xử tuyên án.
- Thứ tư, về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Mục đích của tranh tụng là để xác định sự thật khách quan của vụ án nhằm
đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tranh tụng là: kiểm tra sự có mặt
của những thành phần được triệu tập đến phiên tòa; giải quyết yêu cầu đề nghị thay
đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, về sự vắng mặt của người tham gia tố
tụng; giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho người tham gia tố tụng; yêu cầu cam
đoan của người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định,
người định giá tài sản. Xem xét giải quyết yêu cầu về việc triệu tập thêm người làm
chứng và đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét tại phiên tòa.
Tiếp đó là thủ tục công bố bản cáo trạng của Viện kiểm sát, phát sinh thủ tục
các bên theo quy định của pháp luật để chứng minh các chứng cứ nhằm làm rõ các
tình tiết về vụ án. Quá trình xét hỏi; Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào
chữa có thể kết hợp công bố các lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi các vấn đề liên quan đến vụ án đã được
làm sáng tỏ và các bên tranh tụng không có ý kiến gì thì Chủ tọa phiên tòa chuyển
sang tranh luận đối đáp các ý kiến của Kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan
11


về những vấn đề, quan điểm đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật để giải quyết vụ
án. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã được xét hỏi công khai tại phiên tòa và kết
quả tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội; Hội đồng xét xử tiến hành nghị án,
sau đó ra bản án phán quyết về các nội dung đã được tranh tụng tại phiên tòa và
đồng thời kết thúc thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
1.2.2.Ý nghĩa tranh tụng phiên tòa hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, Tranh tụng là sự phản biện cần thiết cho hoạt động chứng minh
của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án.
tranh tụng còn hạn chế được các tiêu cực trong tố tụng như việc ép cung, nhục hình,
hối lộ,…. Đồng thời, các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cũng

được bảo đảm. Như vậy có thể nói, tranh tụng góp phần bảo vệ tốt quyền con người
trong các hoạt động tố tụng.
Thứ hai, Tranh tụng còn tạo ra môi trường đỏi hỏi các bên trong tố tụng phải
luôn rèn luyện, hoàn thiện sự am hiểu, trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ để
chứng minh, bảo vệ những quan điểm, chứng cứ, luận cứ của mình, nâng cao hiệu
quả thực hiện chức năng tố tụng của mình để tìm ra sự thật khách quan của vụ án,
đồng thời nâng cao nhận thức, niềm tin của người dân vào vai trò của luật sư cũng
như cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ ba, mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa được
xác định rõ ràng hơn. Thẩm phán không gánh vác quá nhiều trách nhiệm: vừa thực
hiện chức năng xét xử, vừa chứng minh tội phạm và có thể còn thực hiện luôn cả
chức năng bào chữa. Thẩm phán chỉ thực hiện duy nhất chức năng xét xử. Có sự
phân công quyền và nghĩa vụ phù hợp cho các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội
và chức năng bào chữa thực hiện tốt chức năng của mình. Điều này tạo nên thế
“kiềng 3 chân” cân bằng trong các hoạt động tố tụng nhằm bảo vệ tốt các quyền con
người đồng thời kiểm soát được tội phạm.
Từ những phân tích trên cho thấy, tranh tụng mang ý nghĩa to lớn trong hoạt
động chứng minh tội phạm trên cơ sở vẫn đảm bảo các quyền con người. Vì vậy,
chúng ta cần ngày càng hoàn thiện và nâng cao chất lượng trong tố tụng hình sự nói
12


chung và tại phiên toà xét xử nói riêng bằng cách nghiên cứu vấn đề tranh tụng tại
các quốc gia khác và học hỏi những nhân tố, thủ tục tích cực phù hợp với nước ta.
1.3.Cơ sở của việc quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.3.1.Theo yêu cầu của cải cách tư pháp
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một trong những nội dung có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo
tính công bằng dân chủ giữa người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, là căn cứ để
xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách

quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết
luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… đã xác định tầm quan trong của tranh tụng
trong xét xử, coi nội dung này là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách
tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp.
1.3.2 Theo yêu cầu của Hiến pháp
Trong tố tụng hình sự quyền con người dễ bị xâm phạm nhất và hậu quả của
sự xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần.
Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng đã được thể chế hóa ở
Hiến pháp 2013.
Hiến pháp quy định rõ ràng, đầy đủ quyền của người bị buộc tội. Với nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử, quyền của bị cáo sẽ được đảm bảo đầy đủ, bị cáo được
quyền tự bào chữa cho mình hoặc nhờ người bào chữa, được quyền tranh luận, đối
đáp với luận tội của đại diện Viện kiểm sát để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Theo đó, bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc đặc biệt quan
trọng để công bằng và công lý của một quốc gia được thể hiện. Có thể nói thực hiện
quyền tư pháp và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có quan hệ chặt
chẽ với nhau như hình với bóng, Không thể thực hiện quyền tư pháp nếu thiếu tranh
tụng trong hoạt động xét xử. Ngược lại, chỉ có tranh tụng được bảo đảm thì quyền
tư pháp mới được thể hiện. Nếu thừa nhận mối quan hệ hữu cơ như vậy thì phải có
13


một sự đổi mới về tư duy và nhận thức; phải coi trọng tranh tụng; tạo lập cho được
môi trường thật sự dân chủ và bình đẳng tại phiên tòa.
1.3.3 Đảm bảo theo nguyên tắc tố tụng hình sự
Nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ
thể trong việc thực hiện quá trinh tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định
của pháp luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó

tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội thông qua, nguyên tắc
tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự
để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo,
xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình
bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào
kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Như vậy, đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong Bộ
luật Tố tụng hình sự, đồng thời từ đó vấn đề tranh tụng cũng đã được thể hiện trong
một loạt các quy định khác nhau của Bộ luật, với mục đích tăng cường tranh tụng
trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng
xác định sự thật khách quan của vụ án.
1.4 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển quy định về tranh tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003
1.4.1.Quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm giai đoạn
từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước những năm 1960, các quy định của
14


pháp luật về tổ chức phiên tòa và tiến hành tố tụng tại phiên tòa của Tòa án chưa
được hệ thống hóa trong một văn bản quy phạm pháp luật nào nhất định, mà các
quy định này nằm rải rác trong các văn bản như Sắc lệnh, Luật hoặc các Thông tư.
Trong Sắc lệnh số 51/ST ngày 17/04/1946 về ấn định thẩm quyền các Tòa án

và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án cũng có quy định thể hiện nội
dung thủ tục tranh luận tại phiên tòa thời kỳ đó. Tại Điều 26 Sắc lệnh này quy định:
“Ông Công tố ủy viên Tòa án nhân dân tỉnh hoặc thành phố bắt buộc phải có mặt
tại các phiên tòa hình và hộ. Khi ra phiên tòa, ông Công tố ủy viên cũng như bên bị
cùng bên dân sự nguyên cáo, có quyền yêu cầu Tòa thi hành mọi phương sách cần
thiết để chứng tỏ sự thật. Khi cuộc thẩm vấn ở phiên tòa xong rồi, ông Công tố ủy
viên thay mặt xã hội buộc tội bị can. Bao giờ ông Công tố ủy viên cũng nói sau dân
sự nguyên cáo. Bên bị can được nói sau cùng, trước khi Tòa án tuyên án. Tòa
không bắt buộc phải xử theo lời yêu cầu của ông Công tố ủy viên” [5, Điều 26].
Theo Thông tư số 22- ngày 8/12/1957 của Bộ tư pháp trả lời một số điểm về quyền
bào chữa. Tại mục III của Thông tư này có hướng dẫn: “Sau khi Công tố viên luận
tội, người bào chữa được trình bày lời bào chữa của mình, đề ra những điểm không
đồng ý với Công tố viên và biện bác, xuất phát từ quan điểm bảo vệ pháp luật,
chính sách và quyền lợi chính đáng của bị can. Sau khi người bào chữa nói xong
mà Công tố viên đáp lại thì người bào chữa có quyền trả lời” [2, tr.44].
Đến đầu những năm 1960, sau khi Hiến pháp 1959 ra đời, cùng với đó là sự
ra đời của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/07/1960; Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân ngày 15/07/1950 và Pháp lệnh quy định nhiệm vụ quyền hạn của Cảnh
sát nhân dân ngày 16/07/1962, quy định tách bạch chức năng xét xử và chức năng
buộc tội do hai cơ quan khác nhau thực hiện (Toà án và Viện kiểm sát)…đây là
những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên toà
hình sự, trong đó bao gồm cả thủ tục liên quan đến tranh tụng tại phiên toà.
Hoạt động tố tụng tại phiên toà cũng còn nhiều tồn tại, như việc các thẩm
phán chỉ dựa vào hồ sơ mà coi nhẹ việc thẩm vấn, tranh luận công khai trước Toà,
nhiều vụ việc thẩm phán không chú ý, không lắng nghe bị cáo trình bày do đó
15


không làm rõ được các tình tiết khách quan của vụ án do đó chỉ ra phán quyết theo
chủ trương đã duyệt án trước đó... Để khắc phục những tồn tại và bất cập trên, Toà

án nhân dân tối cao đã ban hành Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm ban
hành kèm theo Thông tư số 16 - TATC ngày 27/9/1974, trong đó phần thứ 4 quy
định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa của Tòa án nhân dân quy định: “Đối với
những vụ án phải đưa ra xét xử, việc xét xử tại phiên tòa là giai đoạn quyết định vụ
án. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ trình tự tố tụng hình sự vì trong
phiên tòa, Tòa án nhân dân thẩm tra lại toàn bộ chứng cứ, nghe tranh cãi và cuối
cùng quyết định việc xử lý vụ án” [28, tr.132]. Có thể nói đây là những quy định rất
tiến bộ về thủ tục tố tụng tại phiên toà và nó vẫn còn nguyên giá trị pháp lý cho đến
ngày nay.
Quy định về thủ tục tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã đánh dấu một bước phát triển mới của khoa
học Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của đời sống
xã hội lúc bấy giờ. Trên cơ sở một số nguyên tắc tố tụng được ghi nhận trong Hiến
pháp, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân phù hợp hơn với
xu thế tự do, dân chủ, phù hợp với chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng.
Theo quy định tại Điều 191 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 để mở đầu
cho phần tranh luận, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, qua đó “đề nghị kết tội bị
cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ
hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề
nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội” [16, Điều 191].
Trong quá trình tranh tụng, việc hỏi, đối đáp của Kiểm sát viên chủ yếu là
đưa ra những lập luận để phản bác những ý kiến không phù hợp của bị cáo, người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác về các nội dung được Kiểm sát viên
đưa ra trong lời luận tội. Kết quả tranh luận giữa các bên có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với việc giải quyết vụ án của Toà án. Việc phán quyết của Toà án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị hại, của người bào chữa, bị cáo,
16



nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật và có sức thuyết phục cao.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 tuy là bộ luật đầu tiên về tố tụng hình sự
của nước ta, nhưng những quy định của bộ luật về thủ tục tranh luận tại phiên toà
hình sự sơ thẩm cũng tương đối chặt chẽ và đầy đủ, tuy vậy bản thân nó cũng vẫn
còn một số điểm hạn chế nhất định, những hạn chế này sẽ được khắc phục trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003.
1.4.2 Các quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tranh tụng
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ghi nhận một số nguyên tắc như: Nguyên
tắc: "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật” (Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự); nguyên tắc: "Bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự);
nguyên tắc: "Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia” (Điều 15 Bộ luật Tố
tụng hình sự); "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
(Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự); nguyên tắc: "Xét xử công khai” (Điều 18 Bộ luật
Tố tụng hình sự); nguyên tắc: "Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án” (Điều 19
Bộ luật Tố tụng hình sự).
Về chủ thể thực hiện tranh tụng: Chủ thể thực hiện việc tranh tụng tại Toà án
chủ yếu được diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì Viện kiểm sát có các
quyền và nghĩa vụ sau: có trách nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10); áp dụng
mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ; làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội;
những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; bảo đảm
cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa (Điều 11); giải thích và bảo đảm cho
những người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ (Điều 62); thu thập,
xem xét và đánh giá chứng cứ (các Điều 65 và 66); Điều 37 BLTTHS đã quy định
cụ thể về các hoạt động của KSV tại phiên tòa: "đọc cáo trạng, quyết định của Viện
17



kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc
luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa”. Song hành với quyền công tố, KSV tham gia phiên
tòa còn có quyền "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà
án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà
án”.Ngoài ra, người bị hại, nguyên đơn dân sự tham gia tố tụng thực hiện chức năng
buộc tội ở một mức độ nhất định. Để các chủ thể này có thể thực hiện chức năng
của mình trong tố tụng hình sự, pháp luật quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ
tố tụng nhất định được quy định tại các Điều 51, Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự
như quyền "trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp”; quyền "khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng”.
Về trình tự, thủ tục tranh tụng tại phiên toà, phần lớn các quan điểm khoa
học hiện nay đều xác định hoạt động tranh tụng được bắt đầu ngay từ phần thủ tục
bắt đầu phiên tòa. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo, công bố
thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích quyền nghĩa vụ của bị cáo, chủ
toạ phiên toà phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai đề
nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu ra
xem xét hay không.Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết
định.Như vậy, việc các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa
ra vật chứng, tài liệu mới để Hội đồng xét xử xem xét chính là những đảm bảo cho
việc xét hỏi và là cơ sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa. Trên thực tế, hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa bắt đầu rõ nét nhất bằng việc Kiểm sát viên đọc bản
cáo trạng trong phần xét hỏi tại phiên toà. Điều 207 Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định: "Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau
đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Có thể xem đây là giai đoạn trung tâm của

quá trình tranh tụng. Bởi vì, trong phần này các bên buộc tội và gỡ tội, trước sự
18


chứng kiến của Hội đồng xét xử, công khai thực hiện chức năng của mình bằng việc
đưa ra các lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. Điều 217 Bộ luật Tố
tụng hình sự quy định:"Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu,
chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà”.
Đây là điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Như vậy, căn cứ vào kết
quả xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên sẽ trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị
cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu
thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Bộ luật
Tố tụng hình sự tuyên bị cáo vô tội. Để việc luận tội của mình bảo đảm đúng đắn,
chính xác và có sức thuyết phục, Kiểm sát viên phải tổng hợp, phân tích, đánh giá
một cách logic các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại tòa, xác
định bốn yếu tố của cấu thành tội phạm, xem xét tính chất, mức độ và hậu quả của
vụ án cũng như tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ để việc đề xuất mức án cho tội danh của bị cáo được chính xác.
Theo Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng: "kết quả tranh tụng” chính là cơ sở để Hội đồng xét xử ra
phán quyết.Điều luật cũng quy định rõ: "Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm
sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên
tranh luận”.
Từ những phân tích nội dung một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 có thể thấy rằng Tố tụng hình sự nước ta là tố tụng thẩm vấn nhưng đã
đan xen các yếu tố tranh tụng trong quá trình tố tụng, nổi bật là tranh tụng tại phiên
tòa. Mặc dù vậy, tranh tụng vẫn chưa được quy định là một trong những nguyên tắc
cơ bản của Tố tụng hình sự Việt Nam.

Kết luận chương 1
Chương 1 đã trình bày một cách khái quát và cơ bản hai vấn đề mang tính
nền tảng lý luận và cơ sở pháp lý đối với việc nghiên cứu đề tài luận văn là “hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” như sau:
19


1. Người viết đã phân tích được khái niệm tranh tụng, phạm vi tranh tụng và
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Từ đó, người viết cũng đã trình bày
những quan điểm khác nhau về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như
giới hạn nội hàm khái niệm tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm bao gồm: công
bố bản cáo trạng; xét hỏi bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người
làm chứng; xem xét vật chứng; hỏi người giám định, điều tra viên, tranh luận.
2. Người viết đã lần lượt trình bày và phân tích các mô hình tố tụng trên thế
giới bao gồm hai mô hình tố tung cơ bản là mô hình tố tụng tranh tụng của thông
luật (common law) và mô hình tố tung thẩm vấn của luật lục địa (civil law). Từ đó,
người viết phân tích mô hình tố tụng hỗn hợp của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam trong tiến trình cải cách tư pháp, đẩy mạnh hoạt động tranh tụng tại Tòa.

20


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm
2.1.1. Quy định về xét hỏi tại tại phiên tòa sơ thẩm
Thủ tục xét hỏi là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự nói chung và của

hoạt động xét xử nói riêng. Trong giai đoạn này Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và
những người khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành kiểm tra các
chứng cứ, tài liệu của vụ án một cách công khai bằng cách trực tiếp xét hỏi bị cáo,
người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác, xem xét vật
chứng, công bố lời khai, xem xét tại chỗ…nhằm làm rõ các nội dung, tình tiết của
vụ án, qua đó có những định hướng, nhận định khách quan, toàn diện về toàn bộ vụ
án giúp cho việc tranh luận đi đúng trọng tâm, nghị án và tuyên án một cách chính
xác và đầy đủ.
Thứ nhất, quy định về bổ sung cáo trạng của Kiểm sát viên
Theo quy định tại Điều 306 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì tại phần
xét hỏi, sau khi đọc bản cáo trạng, Kiểm sát viên được quyền trình bày ý kiến bổ
sung và ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
Thứ hai, về trình tự xét hỏi
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gộp chung phần xét hỏi và tranh luận
thành phần tranh tụng để phù hợp với yêu cầu của công tác tranh tụng tại phiên tòa.
Tại Điều 307 Bộ luật Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì chủ tọa
phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán (trường
hợp Hội đồng 3), Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.

21


×