Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí luận văn học nước ngoài (từ sau thời kỳ đổi mới)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.57 KB, 12 trang )

Số 32 (57) - Tháng 9/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết
Mỹ học và Lí luận văn học nước ngồi
(từ sau thời kỳ đổi mới)
The introducers of aesthetics and foreign literature theory (after the reform period)
PGS.TS. Đinh Thị Minh Hằng, Viện Văn học,
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Dinh Thi Minh Hang, Assoc.Prof., Ph.D.,
Institute of Literature, Vietnam Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Từ năm 1986 trong q trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có nhiều thay đổi về cơ cấu xã hội,
nhưng thiết chế chính trị - xã hội vẫn ổn định. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, các lý thuyết
mĩ học và lí luận văn học đã được dịch và giới thiệu nhiều vào Việt Nam, cả lí luận văn học và mĩ học
Mác xít cũng như lí luận văn học và mĩ học phi Mác xít. Chúng ta đã có một đội ngũ rất đơng đảo
những dịch giả, những nhà nghiên cứu các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học thực sự có uy tín và có
ảnh hưởng đối với nền tư tưởng học thuật nói chung. Ở trong bài này, chúng tơi sẽ giới thiệu những nét
cơ bản về các cơng trình của các nhà nghiên cứu - dịch giả, đã có cơng lao giới thiệu các cơng trình mĩ
học và lí luận văn học nước ngồi vào Việt Nam từ sau năm 1986.
Từ khóa: thế hệ những người giới thiệu, lí thuyết Mỹ học, Lí luận văn học nước ngồi, từ sau thời kì đổi mới.
Abstract
In the process of reform and integration since 1986, Vietnam has experienced many changes in its social
structure, but the social institution has remained stable. From the 1990s to the present, aesthetic theories
and literary theories have been translated and introduced to Vietnam, including Marxist literary and
aesthetic theories as well as non-Marxist ones. Vietnam possesses a great number of translators,
researchers of aesthetic theories and literary theories that are truly reputable and influential in academic
thought. This article will introduce the basic features of the works of researchers - translators, who have
contributed to introducing the aesthetics and foreign literature theory into Vietnam since 1986.
Keywords: the introducers, Aesthetic Theories, Foreign Literature Theory, after the reform period.



Ở mỗi giai đoạn lịch sử, việc tiếp nhận
tư tưởng văn nghệ nước ngồi vào Việt
Nam thường nổi lên một số xu hướng chủ
đạo. Các xu hướng chủ đạo này được hình
thành dưới sự chi phối của những tình thế
chính trị, văn hóa, xã hội. Khi tìm hiểu về
các thế hệ những người giới thiệu các lí
thuyết mỹ học và lí luận văn học nước

ngồi, chúng tơi quan tâm đến những tình
thế chính trị, văn hóa, xã hội đã tác động
đến q trình tiếp thu tư tưởng lí luận văn
nghệ vào Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
Từ năm 1986 trong q trình đổi mới
và hội nhập, Việt Nam đã có nhiều thay đổi
về cơ cấu xã hội, nhưng thiết chế chính trị xã hội vẫn ổn định. Đại hội VI của Đảng
3


THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI…

cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đưa
ra đường lối “đổi mới “toàn diện cho đất
nước. Xóa bỏ hệ thống tập trung bao cấp,
xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
trong bối cảnh toàn cầu hóa trở thành xu
thế không thể đảo ngược, Việt Nam sẽ
tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu

rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hóa... Khi công cuộc đổi mới văn nghệ
được khởi động, trên các diễn đàn học
thuật, các nhà nghiên cứu đã thảo luận sôi
nổi về hàng loạt nguyên lí quen thuộc của
mỹ học Mác xít truyền thống. Nhưng cũng
từ khi đó, trong các công trình nghiên cứu
của giới khoa học, hệ thống lí luận văn học
và mĩ học Mác xít truyền thống đã không
còn là ưu tiên lựa chọn hàng đầu để tiếp
cận đề tài nữa. Từ những thập kỷ cuối của
thế kỷ XX, các xu hướng sáng tác hiện đại
và hậu hiện đại chủ nghĩa, nghệ thuật đa
phương tiện ngày càng chiếm ưu thế trong
đời sống văn hóa trên phạm vi toàn thế
giới. Cùng với đó là sự phát triển của kỹ
thuật số trong thời đại giao lưu và hội nhập
quốc tế. Và ở Việt Nam từ khi đổi mới và
hội nhập với thế giới, lí luận văn học và mĩ
học Mác xít tuy vẫn được xác định là cơ sở
lý luận nền tảng, nhưng đã không còn giữ
vị trí độc tôn như trước nữa. Điều đó đã
quyết định toàn bộ hướng tiếp nhận các tư
tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam.
Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến
nay, các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học
nước ngoài đã bắt đầu được dịch và giới
thiệu vào Việt Nam, cả lí luận văn học và
mĩ học Mác xít cũng như lí luận văn học và
mĩ học phi mác xít. Lí luận văn học và mĩ

học Mác xít và những biến thể của nó thời
kỳ hậu Xô viết vẫn giữ một vị trí quan
trọng. Các trường phái phi Mác xít tới
những năm gần đây đã được quan tâm dịch

và giới thiệu nhiều hơn. Ở Việt Nam hiện
nay đã có một đội ngũ rất đông đảo những
dịch giả, nhà nghiên cứu các lí thuyết mỹ
học và lí luận văn học thực sự có uy tín và
có ảnh hưởng đối với nền tư tưởng học
thuật chung.
Căn cứ vào nội dung các lí thuyết mĩ
học và lí luận văn học nước ngoài, chúng
tôi gộp các tư tưởng văn nghệ được giới
thiệu từ 1986 đến nay thành một số cụm
vấn đề và theo các cụm vấn đề đó, chúng
tôi sẽ nêu lên các thế hệ những người giới
thiệu các lí thuyết mĩ học và lí luận văn
học nước ngoài vào Việt Nam.
A. Giới thiệu tư tưởng Mỹ học
cổ điển phương Đông và phương Tây ở
Việt Nam từ năm 1986
1. Giới thiệu Mỹ học cổ điển phương Đông
Sau năm 1986 mỹ học cổ điển Trung
Hoa được giới nghiên cứu quan tâm sưu
tầm và dịch thuật. Điều này được thể hiện
qua hàng loạt các công trình dịch thuật,
giới thiệu, khảo cứu của Nguyễn Đức Vân,
Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Lê Tẩm, Hoàng
Mộng Khánh, Nguyễn Duy Hinh, Tạ Phú

Chinh, Nguyễn Khắc Phi, Phương Lựu,
Mai Xuân Hải…
a/ Trong những trước tác kinh điển,
có hai kiệt tác của mĩ học và thi học cổ
điển Trung Hoa được dịch ra tiếng Việt.
Đó là Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, do
Phan Ngọc dịch, Nhà xuất bản Văn học,
xuất bản năm 1997 và Tùy viên thi thoại
của Viên Mai, do Nguyễn Đức Vân dịch,
Nxb Văn học xuất bản năm 1999. Về cuốn
Văn tâm điêu long, Tuyển tập Đinh Gia
Khánh – tập II (Văn học trung đại), do
Đinh Thị Minh Hằng tuyển chọn, nhà xuất
bản Giáo dục xuất bản năm 2007, đã cho in
bổ sung thêm 4 thiên: thiên VII – Nhạc
phủ; thiên XVIII – Luận thuyết; thiên XX
– Hịch di; thiên XXV – Thư kí. Năm 1966,
4


ĐINH THỊ MINH HẰNG

như:
- Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc của Lương Duy Thứ, Nhà xuất
bản KHXH và Nxb Cà Mau xuất bản năm
1990.
- Về thi pháp thơ Đường của Nguyễn
Khắc Phi và Trần Đình Sử, Nxb Đà Nẵng
xuất bản năm 1997.

- Thơ văn cổ Trung Hoa – Mảnh đất
quen mà lạ của Nguyễn Khắc Phi, Nxb
Giaó dục xuất bản 1999.
- Thi pháp thơ đường của Nguyễn
Thi Bích Hải, Nxb Thanh Hóa xuất bản
năm 1995.
+ Loại thứ hai là các chuyên luận, tiểu
luận trực tiếp nghiên cứu di sản mĩ học cổ
điển Trung Hoa như:
- Tinh hoa lí luận văn học cổ điển
Trung Quốc của Phương Lựu, Nxb Giáo
dục xuất bản năm 1989
- Luận giải nhan đề tác phẩm “Văn
tâm điêu long “của Lưu Hiệp của Nguyễn
Phúc, Tạp chí Hán Nôm, số 6(85), 2007,
tr.65-71.
2. Giới thiệu mĩ học cổ điển phương Tây
Từ năm 1986, có 4 tác gia kinh điển
lỗi lạc nhất của mĩ học cổ điển phương Tây
được dịch ra tiếng Việt. Cụ thể như sau:
- Nghệ thuật thi ca của Aristoteles
(384 - 322 tr. CN). Tác phẩm này được Lê
Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ
Xuân Hà dịch. Tác phẩm này được in lần
đầu vào năm 1964, trải qua một thời gian
dài trên 30 năm đến cuối những năm 90
của thế kỷ XX, nó được liên tiếp tái bản 3
lần vào năm 1997 in ở Tạp chí văn học
nước ngoài và năm 1998, năm 1999, do
Nxb Văn học xuất bản.

- Những tùy bút về hội họa của
D.Diderot (1713 – 1784), được Phùng Văn
Tửu dịch và giới thiệu, Nxb Văn hóa xuất
bản năm 1988. Tiểu luận Nhìn lại một số

giáo sư Đinh Gia Khánh và giáo sư Phan
Ngọc đã dịch cuốn Văn tâm điêu long và
lưu ở thư viện khoa Ngữ văn, trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội. Phần dịch của giáo
sư Phan Ngọc đã xuất bản thành sách năm
1997. Phần dịch của giáo sư Đinh gia
Khánh lần đầu tiên được in ở trong Tuyển
tập Đinh Gia Khánh, gồm 4 thiên được chú
giải tường tận. Giáo sư Đinh Gia Khánh
chỉ dịch 4 thiên: Nhạc phủ, Luận thuyết,
Hịch di, Thư kí, mà ông đã chú giải đến
178 lần, có lời chú giải dài đến nửa trang.
Một tác phẩm quan trọng khác được
giới thiệu đó là cuốn: Lí luận văn học, nghệ
thuật cổ điển Trung Quốc của Khâu Chấn
Thanh do Mai Xuân Hải dịch, Nxb Giáo
dục xuất bản năm 1994.
b/ Có một số công trình nghiên cứu về
mĩ học và triết học cổ điển Trung Hoa, của
các tác giả Trung Quốc hoặc người nước
ngoài đã được các dịch giả người Việt
Nam dịch ra tiếng Việt. Đó là các cuốn
Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường của Cao
Hữu Công và Mai Tổ Lân đã được Trần
Đình Sử và Lê Tẩm dịch, Nhà xuất bản

Văn học, xuất bản năm 2000. Có thể kể
thêm các cuốn Tư tưởng văn học Trung
Quốc cổ xưa của I.S.Lísevich do Trần
Đình Sử dịch, Nhà xuất bản ĐHSP TP. Hồ
Chí Minh, xuất bản năm 1993 và cuốn
Triết học phương Đông do Trương Văn
Lập chủ biên, gồm 4 tập, được các dịch giả
Hồ Châu, Tạ Phú Chinh, Nguyễn Văn
Đức, Nguyễn Duy Hinh, Hoàng Mộng
Khánh dịch ra tiếng Việt, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, xuất bản năm 1998, năm
2000, năm 2001.
c/ Về các công trình khảo cứu chuyên
sâu hoặc giới thiệu về mĩ học cổ điển
Trung Hoa có hai loại
+ Loại thứ nhất là các chuyên luận,
tiểu luận bàn về văn thơ cổ điển Trung Hoa
5


THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI…

quan niệm của Đi-đơ-rô về nghệ thuật dài
gần 50 trang ở phần đầu cuốn sách đã giúp
độc giả thâm nhập được vào thế giới tư
tưởng của D.Diderot, một nhà mĩ học Khai
sáng vĩ đại.
- Phê phán lí tính thuần tuý của
I.Kant (1724 – 1804), được Bửu Văn Nam
Sơn dịch và chú giải, Nxb Văn học xuất

bản năm 2004
- Phê phán lí tính thực hành của
I.Kant, được Bửu Văn Nam Sơn dịch và
chú giải, Nxb Tri thức xuất bản năm 2006.
- Phê phán năng lực phán đoán của
I.Kant, được Bửu Văn Nam Sơn dịch và
chú giải, Nxb Tri thức xuất bản năm 2007.
- Hiện tượng học tinh thần của
V.F.Hegel (1770 – 1831), được Bùi Văn
Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb Văn học
xuất bản năm 2006.
- Mĩ học (2 tập) của V.F.Hegel, được
Phan Ngọc dịch và giới thiệu, Nxb Văn
học xuất bản năm 1999.
I.Kant là người mở đầu cho mĩ học cổ
điển Đức, ông được xem là triết gia lớn
nhất thời cận đại. Có thể nói I.Kant đã
nâng triết học Đức lên một giai đoạn mới.
Và nếu I.Kant là người mở đầu, thì
V.F.Hegel là người tổng kết và đưa mĩ học
cổ điển Đức lên đỉnh cao nhất của nó. Bởi
vậy sau năm 1986, việc dịch thuật và giới
thiệu các tác phẩm mĩ học kiệt xuất của
I.Kant và V.F.Hegel là sự kiện quan trọng
trong việc giới thiệu và tiếp thu tư tưởng
văn nghệ của nước ngoài vào Việt Nam.
Có thể thấy việc dịch thuật và giới
thiệu di sản mĩ học cổ điển phương Đông
cũng như di sản mĩ học cổ điển phương
Tây đã có khuynh hướng đi vào chiều sâu.

Cụ thể là mĩ học cổ điển phương Tây đã
giới thiệu cho độc giả Việt Nam ba nội
dung quan trọng:
- Thuyết “bắt chước” hay “mô phỏng”,

một triết thuyết lớn ở thời cổ đại Hy Lạp
được phân tích và giới thiệu trong cuốn
Nghệ thuật thi ca của Aristoteles
- Thuyết năng lực phán đoán. Đó là
thuyết của I.Kant
- Học thuyết về cái đẹp và ba hình
thái phát triển của nghệ thuật là nội dung
quan trọng nhất mà chúng ta có thể tiếp
nhận từ mĩ học của V.F.Hegel.
Việc giới thiệu hệ thống mĩ học cổ
điển của nhân loại ở cả phương Đông và
phương Tây, sẽ giúp cho nền lí luận văn
nghệ Việt Nam kiến tạo được kho tri thức
một cách có hệ thống, từ đó có thể gắn kết
với nguồn cội văn hóa lịch sử của dân tộc.
B. Giới thiệu tư tưởng mĩ học
Mác xít phương Tây ở Việt Nam từ năm 1986
Ở Việt Nam việc dịch thuật và giới
thiệu hệ thống mĩ học Mác xít phương Tây
chưa có bề dầy lịch sử. Sau năm 1986,
chuyên luận duy nhất của Mác xít phương
Tây được dịch ra tiếng Việt là cuốn Văn
học là gì của J.P.Sartre, được Nguyên
Ngọc dịch và chú giải, Nxb Hội nhà văn
xuất bản năm 1999. Còn hầu hết các bản

dịch khác đều là trích đoạn từ một chuyên
luận của tác giả khác hoặc chỉ là tiểu luận.
Có thể liệt kê cụ thể như sau: năm 2005
Trương Đăng Dung cho đăng bản dịch tiểu
luận Nghệ thuật và chân lí khách quan của
G.Lukacs và chương XIII rút từ cuốn Đặc
trưng mĩ học cũng của G.Lukacs, in trên
tạp chí Nghiên cứu văn học số 10 năm
2005.
Năm 2007, bộ Lí luận – phê bình văn
học thế giới thế kỷ XX (2 tập)(1) do Lộc
Phương Thuỷ chủ biên được Nxb Giáo dục
cho ra mắt bạn đọc. Bộ sách đã cho đăng
một loạt những tiểu luận hoặc những trích
đoạn rút từ chuyên luận của các nhà Mác
xít phương Tây như: Kafka của Roger
Garaudy, Kafka của Ernst Fischer, Ảo ảnh
6


ĐINH THỊ MINH HẰNG

Phương Ngọc, Phương Lựu là những nỗ
lực đầu tiên trong việc tiếp cận hệ thống
mĩ học Mác xít phương Tây, góp phần làm
phong phú kho tri thức và vốn kinh
nghiệm cho nền lí luận văn nghệ Việt Nam
truyền thống.
Mĩ học Mác xít phương Tây khác với
mĩ học Mác – Lênin ở chỗ, nó coi văn hóa

là động lực phát triển của nhà nước và xã
hội, chứ không phải là đấu tranh giai cấp.
Như vậy, từ nền tảng của một bộ phận khác
trong di sản của kinh điển chủ nghĩa Mác,
so với mĩ học Mác – Lênin truyền thống,
mĩ học Mác xít phương Tây là một hệ
thống lí thuyết hoàn toàn khác.
Để tiếp cận một cách tốt nhất hệ thống
lí thuyết mĩ học Mác xít phương Tây, cần
có thêm các công trình dịch thuật giới thiệu
về nó và các chuyên luận nghiên cứu
chuyên sâu mang tính đối thoại.
C. Giới thiệu các lí thuyết văn nghệ
Nga – Xô viết ở Việt Nam từ năm 1986
Từ giữa thế kỷ XX, mĩ học và lí luận
văn nghệ Nga – Xô viết đã luôn là nguồn
tiếp nhận chính của mĩ học và lí luận văn
nghệ Việt Nam. Nhưng từ khi có công
cuộc đổi mới, mọi phương hướng đã có
phần khác trước. Đặc biệt là từ sau khi
Liên Xô tan rã, các hệ thống lí thuyết phi
chính thống của nước Nga – Xô viết lại trở
thành đối tượng tiếp nhận chủ yếu của tư
duy lí luận, phê bình văn nghệ Việt Nam.
1. Từ năm 1986 nhiều dịch giả Việt
Nam đã bắt đầu chuyển tải tư tưởng khoa
học của trường phái hình thức Nga đến độc
giả. Trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 2
năm 1998, số chuyên đề dành cho văn học
Nga, Đỗ Lai Thuý đã dịch một số bài tiểu

luận của V.Shklovski, B.Eikhenbaum,
R.Jakobson. Sau đó cuốn sách Nghệ thuật
như là thủ pháp (Lí thuyết chủ nghĩa hình
thức Nga) của tập thể dịch giả Đỗ Lai

và hiện thực của Christopher Caudwell, Qui
tắc của nghệ thuật của Pierre Bourdieu…
Năm 2014, cuốn Xã hội học văn học
do Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương
Ngọc, Phùng Ngọc Kiên dịch và giới thiệu
được Nxb ĐHQG Hà Nội xuất bản. Trong
cuốn sách này hai công trình của Lucien
Goldmann là Quan niệm về thế giới và các
giai cấp xã hội và Tiểu thuyết Mới và hiện
thực đã được Lộc Phương Thuỷ dịch. Và
một công trình khác của Pierre Bourdieu
là Qui tắc của nghệ thuật – Ba trạng thái
của trường.
Việc diễn giải mĩ học Mác xít phương
Tây đã được các dịch giả Lộc Phương
Thủy, Trương Đăng Dung, Nguyễn Phương
Ngọc viết nhiều bài báo, tiểu luận trình bày
có hệ thống và phân tích sâu sắc. Các tiểu
luận Phê bình Mác xít Pháp trong thế kỷ
XX (2), Xã hội học văn học trong các công
trình nghiên cứu của Lucien Goldmann(3)
của Lộc Phuơng Thuỷ, Xã hội học văn học
của Pierre Bourdieu(4) của Nguyễn Phương
Ngọc, Những đặc điểm của hệ thống lí
luận văn học Mác xít thế kỷ XX(5) của

Trương Đăng Dung là những ví dụ cụ thể.
Cuốn Tư tưởng văn hóa văn nghệ của
chủ nghĩa Mác phương Tây(6) của Phương
Lựu là một chuyên luận diễn giải mĩ học
Mác xít phương Tây một cách có hệ thống.
Công trình dày 343 trang gồm 14 chương.
Chương đầu mô tả tổng quan lịch sử và
cấu trúc của chủ nghĩa Mác phương Tây.
Mười ba chương còn lại giới thiệu tư tưởng
triết học và mĩ học và lí luận văn học
của mười ba học giả và những môn phái
lớn như: G.Lukacs, R.Gruady, E.Fischer,
H.Lefebvre,
T.W.Adorno,
E.Fromm,
J.P.Sartre,
L.Goldmann,
A.Gramsci,
R.Williams, T.Eagleton, F.Jameson...
Các công trình nêu trên của Trương
Đăng Dung, Lộc Phương Thủy, Nguyễn
7


THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI…

phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX(10)
cũng đã dành một chương để trình bày về
quan điểm của trường phái hình thức Nga,
của các tác giả tiêu biểu như V.Shklovski,

Iu.Tynhianov, R.Jakobson, V.Propp. Về
người có công truyền bá trường phái hình
thức Nga phải kể đến Huỳnh Như Phương,
ông là người đã bỏ nhiều công sức nghiên
cứu trường phái hình thức Nga một cách có
hệ thống. Công trình trường phái hình thức
Nga của ông là một công trình nghiên cứu
chuyên sâu tập trung phân tích kỹ lưỡng
trường phái học thuật này từ nhiều góc độ
và bình diện khác nhau.
Trường phái hình thức Nga được các
nhà khoa học Việt Nam vận dụng khảo sát
các vấn đề khoa học như Vũ Tuyết Loan
với tiểu luận Lí thuyết hình thái học của
V.Propp và truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Campuchia(11), Tăng Kim Ngân với
chuyên luận Cổ tích thần kỳ người Việt –
Đặc điểm cấu tạo cốt truyện(12), Đỗ Bình
Trị với chuyên luận Truyện cổ tích thần kỳ
Việt đọc theo hình thái của truyện cổ tích
của V.Ja.Propp(13).
2. M.M.Bakhtin (1895 – 1975) là một
trong những nhà mĩ học, triết học, văn hóa
học và nghiên cứu văn học lỗi lạc nhất thế
kỷ XX. Việc giới thiệu và quảng bá tư
tưởng học thuật của M.M.Bakhtin bắt đầu
từ năm 1985, với bài tiểu luận của Trần
Đình Sử với nhan đề M.Bakhtin và thi
pháp của Dostoieski được đăng trên tạp
chí Văn nghệ quân đội, số 10. Nhưng phải

đến năm 1992 các tác phẩm của
M.M.Bakhtin mới được dịch ra tiếng Việt.
Cuốn Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (14) do
Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới
thiệu có các tiểu luận: Tiếng cười Rabelais
và văn hóa trào tiếu dân gian, Tiểu thuyết
như một thể loại văn học, Ngôn ngữ tiểu
thuyết, Tiểu thuyết phức điệu của

Thúy, Trương Đăng Dung, Huyền Giang,
Nguyễn Văn Quảng, Phạm Nguyên Phẩm,
Ngân Xuyên, đã được Nxb Hội nhà văn
xuất bản năm 2002. Cuốn Lí luận – phê
bình văn học thế giới thế kỷ XX (7) do Lộc
Phương Thủy chủ biên cũng dịch nhiều
tiểu luận của trường phái hình thức Nga:
Đào Tuấn Ảnh dịch các tiểu luận Về tính
thống nhất của nghệ thuật, Nghệ thuật như
là thủ pháp, Một lần nữa về bắt đầu và kết
thúc của tác phẩm văn học (của
V.Sklovski), Hiện tượng văn học, Về sự tiến
triển của văn học (của Iu.N.Tynhianov),
Song Hà dịch tiểu luận Lí thuyết về phương
pháp hình thức (của B.M.Eikhembaum).
Năm 2012, Lã Nguyên cũng dịch một phần
quan trọng trong chuyên luận nổi tiếng của
B.M.Eikhenbaum: Giai điệu câu thơ trữ
tình Nga - Những vấn đề phương pháp
luận(8).
Tuyển tập V.Ya.Propp (2 tập) giới

thiệu với độc giả những công trình quan
trọng nhất của V.Ya.Propp (1895 – 1970)
như: Hình thái học truyện cổ tích, Những
gốc rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ,
Những lễ hội nông nghiệp Nga và Folklore
và thực tại. Tuyển tập đã được một tập thể
dịch giả có uy tín gồm: Phan Ngọc, Chu
Xuân Diên, Đỗ Lai Thúy, Trần Phương
Phương, Nguyễn Kim Loan biên dịch.
Trường phái hình thức Nga không chỉ
là đối tượng dịch thuật mà còn là đối tương
để các nhà khoa học khảo sát, nghiên cứu,
ứng dụng như: Chuyên khảo Truyện cổ tích
dưới mắt các nhà khoa học(9) của Chu
Xuân Diên hoặc tiểu luận Thi pháp học
hiện đại của Trần Đình Sử đăng trên tạp
chí Thông tin Khoa học xã hội, số tháng 2
năm 1995. Tiểu luận của Trần Đình Sử đã
trình bày về trường phái hình thức Nga
trong quá trình vận động và phát triển.
Phương Lựu trong chuyên khảo Lí luận
8


ĐINH THỊ MINH HẰNG

Dostoievski. Phạm Vĩnh Cư còn dịch 2 bài
tiểu luận: Vấn đề nội dung, chất liệu và
hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn
từ và Sử thi và tiểu thuyết in trong cuốn Lí

luận, phê bình văn học thế giới thế kỷ
XX(15).
Trong cuốn Lí luận văn học – Những
vấn đề hiện đại(16) Lã Nguyên cũng đã dịch
tiểu luận Vấn đề thể loại lời nói của
M.M.bakhtin
Tiếp đến phải kể đến việc giới thiệu
các chuyên luận như: Những vấn đề thi
pháp Dostoievski (17) do tập thể dịch giả
Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí
Nhàn dịch, Francois Rabelais và nền văn
hóa dân gian trung cổ và phục hưng(18) do
Từ Thi Loan dịch, Chủ nghĩa Marx và triết
học ngôn ngữ(19) do Ngô Tự Lập dịch
và giới thiệu. Những bài tiểu luận và
những cuốn chuyên luận đó giúp người đọc
Việt Nam hình thành được những ý niệm
đầu tiên về tư tưởng học thuật của
M.M.Bakhtin. Có thể nói sau năm 1986, tư
tưởng khoa học và hệ thống lí thuyết của
M.M.Bakhtin đã được tiếp thu mạnh mẽ
vào Việt Nam.
3. Yuri Mikhailovich Lotman (1922 –
1993) là nhà nghiên cứu văn học, nhà văn
hóa và kí hiệu học nổi tiếng thế giới. Ông là
người sáng lập và đứng đầu trường phái
Tartu – Moskva. Ở Việt Nam, năm 2005
chuyên luận Cấu trúc văn bản nghệ thuật
(20)
của Yu.M.Lotman lần đầu tiên được

nhóm Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh,
Nguyễn Thu Thủy dịch ra tiếng Việt. Hai
năm sau cuốn sách này đã được tái bản.
Mười năm sau cuốn Yu.M.Lotman - Ký hiệu
học văn hóa(21) do nhóm Lã Nguyên, Đỗ
Hải Phong, Trần Đình Sử biên dịch, chú
thích và giới thiệu được ra mắt bạn đọc.
Yu Mikhailovich Lotman định nghĩa
văn bản là thông tin chí ít được hai lần mã

hóa. Theo quan niệm của ông, từ trong bản
chất, văn bản là hiện tượng đa ngữ.
D. Giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và
Lí luận văn học hiện đại phương Tây ở
Việt Nam từ năm 1986
Từ sau năm 1986, các dịch giả và các
nhà nghiên cứu Việt Nam đã dịch và giới
thiệu với công chúng Việt Nam gần như tất
cả những hệ thống mĩ học và lí luận văn
học hiện đại nhất của phương Tây ở thế
kỷ XX.
1. Các công trình dịch thuật, khảo
luận, nghiên cứu, giới thiệu mĩ học và lí
luận văn học hiện đại phương Tây ở Việt
Nam sau năm 1986
a/ Bộ Lí luận – phê bình văn học thế
giới thế kỷ XX (22) (2 tập). Đây là loại sách
tuyển chọn. Bộ sách đã phác thảo về bức
tranh toàn cảnh của lí luận phê bình
văn học thế giới thế kỷ XX. Bộ sách đã

tuyển dịch và trích dịch văn bản của 44 tác
giả thuộc các trường phái lí thuyết lớn:
Trường phái hình thức Nga, Phê bình mới,
Chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học, Chủ
nghĩa hậu cấu trúc, Chủ nghĩa hậu hiện đại,
Phê bình phân tâm học, Phê bình hiện
tượng luận… Bộ sách do Lộc Phương
Thủy chủ biên với sự tham gia của đông
đảo đội ngũ các dịch giả, các nhà nghiên
cứu như Trương Đăng Dung, Đào Tuấn
Ảnh, Phạm Vĩnh Cư, Trịnh Bá Đĩnh,
Ngân Xuyên, Đỗ Lai Thuý, Lê Phong
Tuyết, Trần Hồng Vân, Lê Huy Bắc,
Nguyễn Văn Nguyên, Trần Hải Yến,
Nguyễn Phương Ngọc, Khương Việt Hà,
Hoàng Tố Mai, Huyền Giang…
b/ Phương Lựu giới thiệu lí luận văn
học hiện đại phương Tây dưới dạng tổng
quan tư tưởng triết học, mĩ học và nghệ
thuật của một loạt các khuynh hướng,
trường phái lí luận, phê bình văn học. Năm
1995 ông cho xuất bản cuốn Tìm hiểu lí
9


THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI…

luận phương Tây hiện đại(23), năm 1999
ông cho xuất bản cuốn Mười trường phái lí
luận phê bình văn học đương đại phương

Tây(24) và đến năm 2001 ông cho xuất bản
cuốn sách Lí luận phê bình văn học
phương Tây hiện đại(25). Cuốn sách của
ông giới thiệu hai mươi hai trường phái của
lí luận văn học phương Tây hiện đại.
Dưới dạng giới thiệu tổng quan như
thế này còn có các công trình của Nguyễn
Văn Dân như cuốn Lí luận văn học so
sánh(26) và cuốn Phương pháp luận nghiên
cứu văn học(27).
c/ Về loại sách vừa lược khảo, vừa biên
dịch để giới thiệu lí luận phê bình văn học
phương Tây, đã được một số nhà nghiên
cứu, dịch giả thực hiện. Như cuốn Phân tâm
học và văn học nghệ thuật(28) do Đỗ Lai
Thúy (chủ biên) cùng các dịch giả Huyền
Giang, Ngô Bình Lâm, Ngân Xuyên,
Đỗ Đức Thịnh, Bích Hường dịch các tiểu
luận của S.Freud, C.G.Jung, G.Tucci,
V.Dundes…. Năm 2011, Trịnh Bá Đĩnh
giới thiệu cuốn Chủ nghĩa cấu trúc trong
văn học(29) gồm phần đầu là một công trình
nghiên cứu 84 trang, phần còn lại là dịch
một số tiểu luận của R.Jakobson, Claude
Le1vi-Strauss, Iu.Lotman, Tz.Todorov.
Những cuốn Văn học hậu hiện đại thế
giới – Những vấn đề lí thuyết (30) do Lại
Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến thực hiện và
cuốn Xã hội học văn học(31) do Lộc Phương
Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc

Kiên thực hiện cũng đều là các công trình
lược khảo và biên dịch.
d/ Với những chuyên luận chuyên sâu,
tính học thuật cao cần có những bản dịch
công phu, cũng được các dịch giả đầu tư
nhiều công sức để giới thiệu với độc giả.
Có thể kể đến các công trình như: Phương
Đông và phương Tây(32) của N.Konrat do
Trịnh Bá Đĩnh dịch, Độ không của lối

viết(33) của R. Barthes Nguyên Ngọc dịch,
Mimesis(34) của E.Auerbach do Phùng
Ngọc Kiêndịch, Những huyền thoại(35) của
R.Barthes do Phùng Văn Tửu dịch, Bản
mệnh của lí thuyết(36) của A.Compagnon do
Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch,
Lí luận văn học(37) của R.Wellek và
A.Warren do Nguyễn Mạnh Cường dịch,
Văn chương lâm nguy(38) của Tz.Todorov
do Trần Huyền Sâm dịch, Thi pháp chủ
nghĩa hậu hiện đại(39) của L.Petrescu do Lê
Nguyên Cẩn dịch, Đông phương luận(40)
của E.Said do Lưu Đoàn Huynh, Phạm
Xuân Ri, Trần Văn Tuỵ dịch, Thi pháp văn
xuôi(41) cuả Tz.Todorov do Lê Hồng Sâm
và Đặng Anh Đào dịch…
2. Một số lí thuyết mĩ học và lí luận
văn học phương Tây được giới nghiên
cứu, dịch thuật quan tâm giới thiệu và nổi
lên như những sự kiện học thuật từ sau

năm 1986.
a/ Sau năm 1986, các nhà nghiên cứu,
các dịch giả đã dịch thuật và quảng bá
nhiều tác phẩm của thuyết phân tâm học.
Các tác phẩm quan trọng của các ông tổ
phân tâm học như S.Freud, C. Jung, E.
Fromm đã được dịch ra tiếng Việt, ví dụ
như: Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo
(Vật tổ và cấm kị)(42) của S.Freud do
Lương Văn Kế dịch, Bệnh lý học tinh thần
về sinh hoạt đời thường(43) của S.Freud do
Bùi Lưu Phi Khanh dịch, Phân tâm học
nhập môn(44) của S.Freud do Nguyễn Xuân
Hiến dịch, Phân tâm học và tôn giáo(45)
của E.Fromm do Lưu Văn Hy dịch, Ngôn
ngữ bị lãng quên(46) của E.Fromm do
Lê Tịnh dịch…
b/ Hệ thống lí thuyết mĩ học tiếp nhận
và lí thuyết tiếp nhận văn học, từ những
năm 90 của thế kỷ XX đã là điểm nóng lí
thuyết ở Việt Nam. Hệ thống lí thuyết này
đã liên tục được giới thiệu quảng, bá và
10


ĐINH THỊ MINH HẰNG

Đạm, Nguyễn Văn Qua, Nguyễn Hồi Thủ,
Bảo Trân, Lưu Đức Trung, Nguyễn Vinh,
Ngân Xuyên dịch, đã đánh dấu cột mốc

quan trọng trong việc tiếp nhận chủ nghĩa
hậu hiện đại vào Việt Nam. Bộ Lí luận –
phê bình văn học thế giới thế kỷ XX do Lộc
Phương Thủy chủ biên cũng tập hợp nhiều
bản dịch các tiểu luận về chủ nghĩa hậu
hiện đại như: Tính bao hàm của chủ nghĩa
hậu hiện đại: xây dựng lại tính hiện đại ở
Trung Quốc hiện nay của Trần Hiếu Minh
do Trần Quỳnh Hương dịch, Chủ nghĩa
hậu hiện đại của D.Martin Fields do Pham
Xuân Nguyên dịch, Hậu hiện đại: logic
văn hóa của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ của
F.Jameson do Khương Việt Hà dịch, Chủ
nghĩa hậu hiện đại - những điều cần biết
của W.Grassie do Phạm Phương dịch…
Năm 2011 Phương Lựu cho xuất bản
cuốn chuyên luận Lí luận văn học hậu hiện
đại(56). Năm 2012 Lê Huy Bắc cho xuất
bản cuốn chuyên luận Văn học hậu hiện
đại - Lí thuyết và tiếp nhận(57). Từ năm
2011 đến năm 2013 lại có hai cuộc hội thảo
khoa học về văn học hậu hiện đại được tổ
chức ở Hà Nội và Huế. Từ hai cuộc hổi
thảo đó đã có hai cuốn kỷ yếu: Văn học
hậu hiện đại - Diễn giải và tiếp nhận(58) và
Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và thực
tiễn(59).
Tóm lại, chủ nghĩa hậu hiện đại rất có
sức hấp dẫn và hệ thống các vấn đề được
giới thiệu ở đây phong phú vô cùng.

d/ Tự sự học và lí thuyết diễn ngôn là
hai hệ thống lí thuyết mới được tiếp nhận
vào Việt Nam. Từ năm 2000, tự sự học trở
thành một trong số đối tượng của hoạt
động tiếp nhận các lí thuyết mĩ học và lí
luận văn học của phương Tây. Năm 2001,
hội thảo khoa học cấp quốc gia về tự sự
học đã được tổ chức tại khoa ngữ văn đại
học Sư phạm Hà Nội. Dựa trên tham luận

nghiên cứu, phân tích trong nhiều tiểu luận
và chuyên luận. Nguyễn Văn Dân có bài
Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên
quan điểm liên ngành(47), Trần Đình Sử với
tiểu luận Tiếp nhận – bình diện mới của lí
luận văn học(48), Trần Đình Sử chủ biên
cuốn Giáo trình lí luận văn học(49) trong đó
cũng có chương Tiếp nhận, thưởng thức và
phê bình văn học, Trương Đăng Dung với
hai chuyên luận Từ văn bản đến tác phẩm
văn học(50) và Tác phẩm văn học như là
quá trình(51), Phương Lựu với giáo trình
Tiếp nhận văn học(52), Huỳnh Như Phương
với cuốn Lí luận văn học(53) đã dành hẳn
chương VI viết về Tiếp nhận văn học…
c/ Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện
vào giữa những năm 50 của thế kỷ XX ở
Mĩ và đến những năm 80 thì nó được
nghiên cứu như một trào lưu tư tưởng đặc
biệt. Chủ nghĩa hậu hiện đại được tiếp

nhận vào Việt Nam tương đối muộn. Tiểu
luận Tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại của
Phương Lựu đăng trên tạp chí Nhà văn, số
8 năm 2000 là một trong số những công
trình đầu tiên có ý thức giới thiệu chủ
nghĩa hậu hiện đại như một hiện tượng văn
hóa. Năm 2003, Trung tâm Văn hóa Ngôn
ngữ Đông Tây biên soạn tuyển tập Văn học
thế giới hậu hiện đại. Tuyển tập gồm 2
quyển. Quyển I có nhan đề Những vấn đề
lí thuyết(54) do Đoàn Tử Huyến và Lại
Nguyên Ân biên soạn, với sự công tác của
các dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Phan Việt
Thủy, Ngân Xuyên, Lộc Phương Thủy,
Nguyễn Trung Đức, Đào Văn Lưu, Hoàng
Hưng, Nguyễn Minh Quân. Quyển II có
nhan đề Truyện ngắn hậu hiên đại thế
giới(55) do Lê Huy Bắc tuyển chọn và giới
thiệu với sự công tác của các dịch giả Đặng
Anh Đào, Nguyễn Trung Đức, Đào Thu
Hằng, Phan Thu Hiền, Bùi Việt Hoa, Phạm
Viêm Phương, Đào Tuấn Ảnh, Phạm Bá
11


THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI…

cuốn sách trên. Trần Văn Toàn cũng có
một số tiểu luận nghiên cứu diễn ngôn về
giới và một số vấn đề khác như: Dẫn luận

lí thuyết diễn ngôn của M.Foucault và
nghiên cứu văn học(64), Lã Nguyên đã tiếp
cận các hiện tượng văn học Việt Nam qua
góc độ lí thuyết diễn ngôn như Nguyễn
Tuân - nhà văn của hình dung từ(65), Văn
xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và
bản địa, cách tân và truyền thống(66)…
Lí thuyết diễn ngôn là khoa học liên
ngành và lí thuyết diễn ngôn là một hệ hình
bản thể luận. Tác phẩm văn học, lí luận và
phê bình văn học đều là những hình thức
diễn ngôn. Diễn ngôn văn học có đặc trưng
riêng của nó, ở đó mã tư tưởng thường bộc
lộ qua các mã văn hóa. Tuy mới được tiếp
nhận trong vòng vài chục năm nay, nhưng
lí thuyết diễn ngôn đã thâm nhập sâu sắc
vào đời sống học thuật của khoa học văn
học nước ta. Đó là nhờ công lao của các
nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, các
dịch giả đã dịch thuật, nghiên cứu và quảng
bá những lí thuyết mới vào Việt Nam
Về phê bình nữ quyền, phê bình hậu
thực dân, phê bình sinh thái đều đã xuất
hiện ở Việt Nam và đều được tiếp nhận
một cách nồng nhiệt. Tham gia dịch thuật,
giới thiệu, quảng bá trường phái ấy ngoài
các nhà phê bình trẻ còn có cả các bậc lão
thành như Trần Đình Sử, Phương Lựu. Ba
trào lưu phê bình này nổi lên như những
vấn đề thời sự, mang tính cập nhật trong

đời sống học thuật hiện nay ở nước ta.
Ngày 29/11/2012 Viện Văn học tổ chức tọa
đàm “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học
Việt Nam đương đại” thu hút sự tham gia
của nhiều nhà nghiên cứu như Trần Thiện
Khanh, Đoàn Ánh Dương, Hồ Khánh Vân,
Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị
Cung Mi, Trần Thục, Đỗ Thị Hường, Đặng
Thị Thái Hà, Trần Lê Hoa Tranh…(67)

của hội thảo và bổ sung thêm một số công
trình nghiên cứu tự sự học, với sự chủ trì
của GS. Trần Đình Sử cuốn Tự Sự học –
Một số vấn đề lí luận và lịch sử(60)
(hai quyển) đã được xuất bản. Cuốn sách
gồm 79 bài tiểu luận của các học giả:
Phương Lựu, Trần Đinh Sử, La Khắc Hòa,
Đỗ Hải Phong, Lê Lưu Oanh, Đặng Anh
Đào, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân,
Nguyễn Đăng Điệp, Trần Ngọc Hiếu,
Nguyễn Văn Dân, Lê Huy Bắc, Lê Nguyên
Cẩn, Huỳnh Như Phương, Trần Huyền
Sâm, Nguyễn Thái Hòa, Diệp Quang Ban,
Lê Trà My, Nguyễn Hải Phương, Trần Văn
Toàn, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Thị Ngọc
Minh… Các bài tiểu luận chủ yếu hướng
tới các vấn đề như: Tổng thuật lịch sử hình
thành và phát triển của tự sự học. Diễn giải
một số phạm trù lí thuyết quan trọng của
nó, diễn giải lí thuyết tự sự của các nhà

kinh điển hoặc một trường phái lí thuyết.
Vận dụng lí thuyết tự sự học để nghiên cứu
nghệ thuật tự sự trong sáng tác của một nhà
văn, một trường phái hay một giai đoạn
văn học cụ thể.
Lí thuyết diễn ngôn xuất hiện vào thế
kỷ XX. Thế kỷ XX được gọi là thế kỷ của
bước ngoặt của diễn ngôn. Khái niệm diễn
ngôn lần đầu tiên được nhà ngôn ngữ học
người Mỹ Z.Harri sử dụng như một thuật
ngữ khoa học vào năm 1952. Ở Việt nam,
năm 2009, Diệp Quang Ban cho xuất bản
cuốn chuyên luận Giao tiếp diễn ngôn và
cấu tạo của văn bản(61), công trình đã diễn
giải lí thuyết diễn ngôn một cách hệ thống.
Trần Đình Sử là người đầu tiên giới thiệu lí
thuyết diễn ngôn văn học trong tiểu luận
Bản chất xã hội, thẩm mĩ của diễn ngôn
văn học được in trong cuốn Trên đường
biên văn học(62) và tiểu luận Bước ngoặt
diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong
nghiên cứu văn học(63) cũng được in trong
12


ĐINH THỊ MINH HẰNG

Các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học
hiện đại phương Tây đều ra đời vào thế kỷ
XX, nó mở ra một hệ hình tư duy kiểu mới

và nêu lên những vấn đề khoa học nhân
văn mang tính toàn cầu.
Trên đây chúng tôi đã giới thiệu những
nét cơ bản về các công trình của các nhà
nghiên cứu – dịch giả đã có công lao giới
thiệu các công trình mĩ học và lí luận văn
học nước ngoài vào Việt Nam từ sau năm
1986. Tuy nhiên vì dung lượng của vấn đề
này rất rộng lớn, cho nên còn nhiều công
trình về Chủ nghĩa cấu trúc, Phê bình mới,
Mỹ học tiếp nhận… vẫn chưa được giới
thiệu đầy đủ. Công việc này sẽ được các
nhà nghiên cứu, phê bình, dịch thuật tiếp
tục tiến hành trong tương lai.

(14)

(15)

(16)

(17)

(18)

(19)

(20)

(21)


Chú thích:
(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)

(11)
(12)

(13)

(22)

Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ

XX (2 tập), Nxb Giáo dục, H.2007.
Phê bình Mác xít Pháp trong thế kỷ XX,
Nghiên cứu văn học số 11/2013.
Xã hội học văn học, Nxb ĐHQG H.2014,
tr.59-82.
Xã hội học văn học, Nxb ĐHQG, H.2014,
tr.108-134.
Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ
XX, T1, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.207- 218.
Tư tưởng văn hóa văn nghệ của Chủ nghĩa
Mác phương Tây, Nxb Thế giới, 2007.
Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỷ XX
(2 tập), Nxb Giáo dục, 2007.
Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật
số 4, tháng 12-2012, tr.57-70.
Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học,
Trường ĐH Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, 1989.
Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ
XX, Nxb Văn học, H.2001.
Tạp chí văn hóa dân gian, số 4 năm 1993.
Cổ tích thần kỳ người Việt – Đặc điểm cấu
tạo cốt truyện. Nxb Khao học xã hội,
H.1994.
Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình

(23)

(24)


(25)

(26)

(27)

(28)

(29)

(30)

(31)

(32)

(33)

(34)
(35)

13

thái của truyện cổ tích của V.Ja.Propp.
Nxb ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
Lí uận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh
Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu), Trường
viết văn Nguyễn Du, H.1992.
Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ
XX, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.376 – 480.

Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại,
Nxb Sư phạm, H.2012.
Những vấn đề thi pháp Đõtôiepxki,
Nxb Giáo dục, H.1993.
Sáng tác của .Francois Rabelais và nền văn
hóa dân gian trung cổ và phục hưng,
Nxb Khoa học xã hội, H.2006.
Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ,
Nxb ĐHQG Hà Nội, 2015.
Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb ĐHQG
Hà Nội 2005, in lần hai 2007.
Ký hiệu học văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội
2015.
Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ
XX, 2 tập, Nxb Giáo dục, 2007.
Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây hiện
đại, Nxb Văn học, H.1995.
Mười trường phái lí luận, phê bình văn học
phương Tâu hiện đại, Nxb Giáo dục,
H.1999
Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ
XX, Nxb Văn học, 2001.
Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học
xã hội, H.2011 (in lần thứ 5).
Phương pháp luận nghiên cứu văn học,
Nxb Khoa học xã hội, H.2004.
Phân tâm học và văn học nghệ thuật,
Nxb Văn hóa thông tin, H.2004.
Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội
nhà văn, H.2011.

Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn
đề lí thuyết, Nxb Hội nhà văn, H.2003.
Xã hội học văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội,
H.2014.
Phương Đông và phương Tây, Nxb Giáo
dục, H.1997.
Độ không của lối viết, Nxb Hội nhà văn,
H.1998.
Mimesis. Nxb Tri thức, H. 2014.
Những huyền thoại, Nxb Tri thức, H.2008.


THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI…
(36)

(37)
(38)
(39)

(40)
(41)

(42)

(43)

(44)

(45)


(46)

(47)

(48)

(49)

(50)

(51)

(52)
(53)

(54)

Bản mệnh của lí thuyết, Nxb ĐHSP Hà Nội,
2006.
Lí luận văn học, Nxb Văn học, H.2009.
Văn chương lâm nguy, Nxb Văn học, H.2013.
Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb ĐHSP
Hà Nội, 2013.
Đông phương luận, Nxb Tri thức, H.2014.
Thi pháp văn xuôi, Nxb ĐHSP Hà Nội,
2004.
Nguồn gốc của Văn hóa và tôn giáo (Vật tổ
và cấm kị), Nxb ĐHQG, H. 2001.
Bệnh lý học tinh thần về sinh hoạt đời
thường, Nxb Văn hóa thông tin, H.2002.

Phân tâm học nhập môn, Nxb ĐHQG,
H.2002.
Phân tâm học và tôn giáo, Nxb Từ điển
bách khoa, H.2012.
Ngôn ngữ bị lãng quên, Nxb Văn hóa thông
tin, H.2002.
Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên
quan điểm liên ngành, Tạp chí Văn học, số
4, tháng 7 & 8/1986, tr.23 – 29.
Tiếp nhận – bình diện mới của lí luận văn
học, Trần Đình Sử - Tuyển tập, T.2,
Nxb Giáo dục, H.2005, tr.300 – 315.
Giaó trình lí luận văn học (bản chất và đặc
trưng của văn học) (Trần Đình Sử chủ biên),
Nxb ĐHSP, H. 2004, tr. 159 – 187.
Từ văn bản đến tác phẩm văn học,
Nxb Khoa học xã hội, H.1998.
Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb
Khoa học xã hội, H.2004.
Tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, H.1997
Lí luận văn học, Nxb ĐHQG Thành phố Hồ
Chí Minh, 2010.
Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn

Ngày nhận bài: 26/8/2017

(55)

(56)


(57)

(58)

(59)

(60)

(61)

(62)

(63)

(64)

(65)

(66)

(67)

đề lí thuyết, Nxb Hội nhà văn và Trung tâm
Văn hóa, Ngôn ngữ Đông Tây, 2003.
Văn học hậu hiện đại thế giới – Truyện ngắn
hậu hiện đại thế giới, Nxb Hội nha văn và
Trung tâm Văn hóa, Ngôn ngữ Đông Tây,
2003.
Lí luận văn học hậu hiệnđại, Nxb ĐHSP,
H.2011.

Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận,
Nxb ĐHSP, H.2012.
Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp
nhận (Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia
năm 2011), Nxb Văn học, H.2013.
Văn học hậu hiện đại – Lý thuyết và thực
tiễn (Hội thảo khoa học quốc gia năm 2013),
Nxb ĐHSP, H.2013.
Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử.
Nxb ĐHSP H. phần I - 2007, phần II - 2008.
Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản,
Nxb Giaó dục, H.2009.
Trên đường biên văn học, Nxb Văn học,
H.2014, tr.166 – 179.
Trên đường biên văn học, Nxb Văn học,
H.2014, tr.180 – 198.
Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của
M.Foucault và nghiên cứu văn học, Nghiên
cứu văn học, số 5/ 2015, tr.45 – 57.
Nguyễn Tuân – Nhà văn của hình dung từ,
Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ
thuật, số 30 tháng 2/2015, tr.57 – 63.
Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam – Quốc tế
và bản địa, cách tân và truyền thống, Nghệ
thuật mới, số 12, tháng 1/2013.
Xem thông tin về hội thảo từ nguồn:
http://phêbinhvanhọc.com.vn/van-xuoi-nutrong-boi-canh-van-hoc-viet-nam-duong-dai/

Biên tập xong: 15/9/2017


14

Duyệt đăng: 20/9/2017



×