Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG CÔNG HẢI

Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:
8380101.02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: …………………………….

Phản biện 1:
Phản biện 2:

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 20….

Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tƣ liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội


Trung tâm tƣ liệu – Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận, pháp lý về bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt
động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay................................................................................... 4
1.1. Khái niệm công lý, quyền tiếp cận công lý và trợ giúp pháp lý .................................................. 5
1.2. Phương thức, nội dung, vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua
hoạt động trợ giúp pháp lý ................................................................................................................. 6
1.3. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý
thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý .................................................................................................. 7
1.4. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở một số
địa phương và những giá trị tham khảo cho tỉnh Bắc Giang.............................................................. 8
Chƣơng 2. Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
ở tỉnh Bắc Giang............................................................................................................................... 8
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Giang tác động đến hoạt động trợ giúp pháp lý
và bảo đảm quyền tiếp cận công lý .................................................................................................... 9
2.2. Tổ chức thực hiện và kết quả bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp
pháp lý ở tỉnh Bắc Giang trong 5 năm gần đây ................................................................................ 10
Chƣơng 3. Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang ...................................................................................................... 17
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc
Giang ................................................................................................................................................ 17
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc
Giang ................................................................................................................................................ 19
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 23




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công lý là một thuật ngữ xuất hiện từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại và được đề cập một cách phổ
biến trong nền khoa học pháp lý từ trước đến nay. Trong lịch sử hình thành của xã hội, khi con
người nhận thức được vị trí, vai trò của mình thì quan niệm về công lý đã dần xuất hiện và được thể
hiện rõ nét thông qua việc phân chia các nguồn lợi phẩm theo sự đóng góp của các thành viên trong
bộ lạc, thị tộc.
Có thể thấy rằng, lịch sử hình thành và phát triển của khái niệm công lý gắn liền với lịch sử
phát triển của xã hội loài người. Trải qua các hình thái kinh tế – xã hội, công lý phát triển từ những
kết tinh của nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân loại để thực hiện lý tưởng công bằng, là giá trị
nền tảng, cốt lõi trong việc tổ chức một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
Trong xã hội hiện đại, tiếp cận công lý được coi là một tiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ
của một quốc gia bởi đây được coi là một quyền cơ bản của con người, của công dân.
Từ sau Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, cùng với việc đổi mới
kinh tế, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân nhằm “thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhà nước pháp quyền trước hết cần phải có một hệ thống pháp luật bảo đảm được công lý, bảo
vệ lẽ công bằng cũng như quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm quyền tiếp cận công lý là thông qua
hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL). Quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL được hiểu
là khả năng tìm kiếm, khắc phục những thiệt hại gây ra cho người dân thông qua việc cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm đảm bảo quyền con người, quyền cơ bản
công dân. Trong những năm qua, hoạt động TGPL ở Việt Nam đã đạt những thành tựu đáng kể,
góp phần tích cực vào việc cải thiện và thúc đẩy việc thụ hưởng quyền được tiếp cận công lý của
người dân. Mặc dù vậy, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên việc bảo đảm quyền
tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL hiện vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nhất định, đặc biệt
ở những khu vực vùng núi, vùng sâu, vùng xa và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
Trong bối cảnh đó, học viên đã lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua
hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang” để thực hiện Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật

Hành chính và Hiến pháp với mong muốn góp phần phân tích làm rõ tình hình, xác định các nguyên
nhân và đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở
nước ta từ bối cảnh thực tiễn của một tỉnh miền núi là Bắc Giang.
2. Tình hình nghiên cứu

1


Tại Việt Nam, vấn đề bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL của
người dân còn khá là mới mẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, qua 4 bản Hiến pháp của Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến bản Hiến pháp năm 2013, các giá trị cơ bản của công lý đã
lần đầu tiên được khẳng định và ghi nhận. Chính vì vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua
hoạt động TGPL mà mới chỉ có một số công trình nghiên cứu về các vấn đề chung của công lý,
quyền tiếp cận công lý và những vấn đề chung về TGPL, trong đó có thể kể như sau:
- Cuốn sách:“Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nxb Sự thật, năm 1962.
Nội dung cuốn sách này bao gồm một số bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề công lý
trong những năm 1921 – 1926.
- Cuốn sách:“Quyền con người trong thi hành công lý” của Tòa án nhân dân tối cao, Nxb
Lao động – Xã hội, năm 2010. Cuốn sách này bao gồm 15 Chương với 545 trang, nội dung đề cập
đến quyền cơ bản của con người và việc bảo đảm các quyền này trong quá trình thực thi công lý.
- Luận văn:“Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay” của Thạc sĩ Nguyễn Thế Anh,
năm 2015, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn:“Hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay” của
Thạc sĩ Nguyễn Thùy Linh, năm 2015, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn:“Pháp luật về TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội
khác” của Thạc sĩ Hoàng Thị Liên, năm 2015, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn:“Trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” của Thạc sĩ
Đặng Lâm Bích, năm 2015, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Bài viết:“Tiếp cận công lý và các nguyên lý của Nhà nước pháp quyền” của PGS.TS Vũ

Công Giao, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, năm 2009. Bài viết đưa ra nhận định về khái
niệm và đặc điểm của tiếp cận công lý, sự tương thích giữa các nguyên tắc của tiếp cận công lý với
các nguyên tắc của nền pháp quyền tại Việt Nam.
Các công trình nêu trên đã cung cấp một số lượng lớn tri thức và thông tin về đề tài nghiên
cứu. Mặc dù vậy, số lượng các công trình còn ít vì thế vẫn còn nhiều vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn về quyền tiếp cận công lý chưa được giải quyết. Đặc biệt, hầu như chưa có đề tài nào
nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền tiếp cận công lý và TGPL cũng như về mối quan hệ giữa
hai vấn đề này ở tỉnh Bắc Giang. Do vậy, luận văn này vẫn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về bảo đảm quyền
tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang.

2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về
bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL. Những phân tích về các vấn đề khác
của công lý và TGPL chỉ mang tính khái quát để làm tiền đề cho việc phân tích những nội dung
chính của đề tài.
Về không gian, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn về bảo đảm quyền tiếp
cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang. Những phân tích về bảo đảm quyền tiếp
cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở các quốc gia và địa phương khác của Việt Nam chỉ
mang tính khái quát để tham chiếu với địa bàn nghiên cứu.
Về thời gian, để phù hợp với thời gian hạn chế của việc thực hiện luận văn thạc sĩ, luận văn
này chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng bảo quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở
tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn từ năm 2014 – 2018.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của việc bảo
đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở một tỉnh miền núi là Bắc Giang, qua đó
rút ra những bài học kinh nghiệm và những phương hướng, giải pháp cho việc thúc đẩy quyền này
ở địa bàn nghiên cứu cũng như ở các địa phương khác của nước ta.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Xác định và phân tích khung các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về bảo đảm quyền tiếp
cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh
Bắc Giang trong giai đoạn từ năm 2014 – 2018.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy những thành
tựu để thúc đẩy việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang
trong những năm tới.
5. Phƣơng pháp luận, phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học
Mác – Lênin và một số lý thuyết về công lý, tiếp cận công lý và trợ giúp pháp lý.
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu
khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận công lý qua hoạt động TGPL
ở Việt Nam (ở Chương I).

3


- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các văn bản pháp luật, tài liệu
chuyên môn, đặc biệt là những báo cáo của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang về hoạt động
TGPL ở địa phương trong 5 năm gần đây và phương pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng bảo
đảm quyền tiếp cận công lý qua hoạt động TGPL ở địa bàn nghiên cứu (ở Chương II).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm

thúc đẩy quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang và các địa phương
khác của nước ta trong thời gian tới (ở Chương III).
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn là nghiên cứu đầu tiên tương đối chuyên sâu và toàn diện về bảo đảm quyền tiếp cận
công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang từ trước tới nay. Kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần củng cố những tri thức khoa học về bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam, giúp
người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của việc bảo
đảm quyền này, đặc biệt thông qua biện pháp quan trọng đó là TGPL.
Với những điểm mới như vậy, luận văn là một tài liệu tham khảo tốt cho các cơ quan của
Nhà nước cũng như các cơ quan của tỉnh Bắc Giang trong quá trình hoàn thiện và thực thi hệ thống
pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang nói
riêng và ở các địa phương khác nói chung của nước ta trong những năm tới, đồng thời là một học
liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy các ngành Luật Hiến pháp và Luật Nhân quyền ở Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật khác ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các chữ viết tắt,
Danh mục các biểu đồ và Phụ lục, nội dung luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận, pháp lý về bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua
hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp
lý ở tỉnh Bắc Giang.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang.

4


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm công lý, quyền tiếp cận công lý và trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm công lý
Công lý là khái niệm xuất hiện từ thời kỳ sơ khai của nhân loại. Ở thời kỳ này, ý niệm về
công lý đã bắt đầu được hình thành thể hiện khát vọng về sự công bằng, tự do, lẽ phải, lòng nhân
nghĩa trong mỗi con người. Công lý gắn liền với lịch sự hình thành và phát triển xã hội của loài
người, được khắc họa rõ nét qua nhiều công trình luật học và triết học nổi tiếng.
Ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể nào về công lý được nêu trong các
văn bản của cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, theo Từ điển Luật học (1999), “Công lý có nghĩa là lẽ
phải, lẽ công bằng, phù hợp với pháp luật đương thời, không thiên lệch, không tư vị” [41]. Trong
luận văn này, tác giả chia sẻ và sử dụng định nghĩa công lý của Từ điển Luật học để phân tích các
vấn đề có liên quan.
1.1.2. Khái niệm quyền tiếp cận công lý
Luật quốc tế hiện đại tiếp cận công lý với tính cách là quyền cơ bản của con người. Tuy
nhiên, trên thế giới hiện nay nội hàm của quyền tiếp cận công lý được hiểu theo hai hướng chính
như sau:
Thứ nhất, theo cách hiểu truyền thống thì quyền tiếp cận công lý được xem là khả năng của
mọi người có thể sử dụng các dịch vụ pháp lý công và tư để được xét xử công bằng, bao gồm các
bảo đảm pháp lý về mặt tố tụng như quyền bình đẳng trước tòa, không bị phân biết đối xử, quyền
được xét xử công khai bởi một tòa án không thiên vị, quyền bào chữa và quyền kháng cáo,…[10].
Thứ hai, theo quan điểm hiện đại mà đại diện là Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
UNDP thì quyền tiếp cận công lý là khả năng tìm kiếm và đạt được sự đền bù, khắc phục những
thiệt hại (gây ra cho cá nhân hoặc nhóm cá nhân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương) thông qua
việc tiếp cận với các thiết chế tư pháp chính thống (cơ quan điều tra, công tố, tòa án,…) và không
chính thống (hệ thống các luật tục, các cơ chế hòa giải tại cộng đồng,…) phù hợp với các nguyên
tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế [39].
Như vậy, từ những phân tích ở trên có thể xem: “Quyền tiếp cận công lý là một quyền con
người trong Nhà nước pháp quyền, thể hiện khả năng của chủ thể yêu cầu Nhà nước bảo đảm
những điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của mình tại cơ quan Nhà nước khi có tranh chấp hoặc bị vi phạm”.

1.1.3. Khái niệm trợ giúp pháp lý
TGPL được hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có giảm phí cho những

5


người không có đủ khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý tối thiểu để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho họ trong các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính và hôn nhân gia đình,…những đối
tượng được hưởng TGPL thường được pháp luật các quốc gia quy định cụ thể.
Những quan điểm trên phản ánh qua khái niệm TGPL được quy định tại Điều 2, Luật
TGPL số 11/2017/QH14, trong đó nêu rằng: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”. Trong luận văn này,
tác giả chia sẻ và sử dụng khái niệm TGPL theo Điều 2, Luật TGPL năm 2017 để phân tích các vấn
đề có liên quan.
1.2. Phƣơng thức, nội dung, vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý
thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
1.2.1. Phương thức bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL
Phương thức bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL được hiểu là cách
thể hiện, phương pháp tiến hành nhằm bảo đảm cho cá nhân, đặc biệt là nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương trong xã hội có thể biết và tìm đến các tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí khi họ
không có đủ khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý tối thiểu để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của
mình trong các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính và hôn nhân gia đình.
Ở Việt Nam, để thực hiện việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL
cho người dân, các tổ chức tham gia thực hiện TGPL (bao gồm tổ chức của Nhà nước và ngoài Nhà
nước) đã và đang tiến hành nhiều hoạt động truyền thông để cung cấp thông tin cho người dân nói
chung và nhóm đối tượng yếu thế dễ bị tổn thương trong xã hội nói riêng biết và hiểu được quyền
lợi, nghĩa vụ của mình.
Tuy nhiên, phương thức bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ưu
việt nhất, hiệu quả nhất chính là thực hiện việc cung cấp các dịch vụ pháp lý ở văn phòng và đặc

biệt là đến tận nơi ở của các đối tượng được hưởng TGPL (hay còn gọi là hoạt động trợ giúp
pháp lý lưu động).
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
Thứ nhất, bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL góp phần nâng cao
nhận thức pháp luật cho người dân nói chung và các đối tượng được hưởng TGPL nói riêng.
Thứ hai, hoạt động TGPL lưu động là một hình thức trực tiếp bảo đảm quyền tiếp cận công
lý của người dân. Hoạt động TGPL lưu động được tiến hành chủ yếu thông qua hình thức tư vấn
pháp luật tại các địa bàn có điều kiện khó khăn, hoạt động này cung cấp những thông tin pháp luật
về những vấn đề mà các đối tượng được hưởng TGPL thực sự quan tâm, có ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

6


Thứ ba, hoạt động TGPL thông qua hình thức tham gia tố tụng góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích của người dân nói chung cũng như các đối tượng được hưởng TGPL nói riêng trước các cơ
quan tiến hành tố tụng.
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý
Từ góc độ vĩ mô, bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL giúp hiện
thực hoá các chính sách xã hội cũng như thực hiện công bằng xã hội.
Từ góc độ cụ thể, bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL trực tiếp bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được hưởng TGPL trong xã hội.
Cuối cùng, hoạt động TGPL góp phần giúp cho người dân và các cơ quan Nhà nước tuân
thủ, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động TGPL, đội ngũ
những người tham gia thực hiện TGPL có thể phát hiện những bất cập từ các quy định của pháp
luật, qua đó kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản
pháp luật đó sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước.
Xét tổng quát, bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL chính là một
hình thức hiện thực hóa quyền con người. Nhóm đối tượng yếu thế dễ bị tổn thương trong xã hội là

những người có mức sống thấp, do vậy nếu họ không nằm trong diện đối tượng được TGPL thì sẽ
ảnh hưởng đến tất cả các quyền khác của họ từ học tập, chăm sóc sức khỏe, tự do đi lại, tự do cư
trú, quyền được hưởng những điều kiện làm việc thích đáng.
1.3. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến việc bảo đảm quyền
tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
1.3.1. Khái quát khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về quyền tiếp cận công lý
và trợ giúp pháp lý
Ở Việt Nam hiện nay, quyền tiếp cận công lý chưa được quy định cụ thể, trực tiếp trong
các văn bản quy phạm pháp luật riêng mà thay vào đó là được quy định gián tiếp tại các văn bản
quy phạm pháp luật khác bao gồm: Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật TGPL, Luật Luật sư.
Như vậy, có thể thấy, xét về mặt văn bản khung pháp luật hiện hành về TGPL ở Việt
Nam đã khá hoàn chỉnh, có tính thống nhất, đồng bộ cao. Việt Nam cũng đã có những quy định
pháp luật bước đầu đề cập đến vấn đề công lý và quyền tiếp cận công lý. Nếu các văn bản và các
quy định của pháp luật này được xây dựng phù hợp với yêu cầu thực tiễn, dễ hiểu, dễ vận dụng,
công khai, minh bạch thì sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu
quả các hoạt động TGPL, bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân.

7


1.3.2. Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về trợ giúp pháp lý có tác dụng
bảo đảm quyền tiếp cận công lý
Pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có quy định cụ thể về quyền tiếp cận công lý
của người dân mà chỉ gián tiếp thông qua những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
khác, trong đó có quy định gián tiếp tại Luật TGPL năm 2017. Như đã phân tích ở trên, trợ giúp
pháp lý chính là một trong những phương thức quan trọng nhất để bảo đảm quyền tiếp cận công
lý của người dân.
Có thể thấy, quyền của người được TGPL được Luật TGPL năm 2017 quy định một cách
toàn diện, đầy đủ bảo đảm sự đúng đắn trong quá trình triển khai thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý nói riêng cũng như quyền con người, quyền cơ bản của

công dân nói chung.
1.4. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp
lý ở một số địa phƣơng và những giá trị tham khảo cho tỉnh Bắc Giang
Qua nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam, có hai địa phương đã giải quyết khá thành công
những thách thức to lớn nêu trên, đó là thành phố Hải Phòng và tỉnh Thanh Hoá.
- Kinh nghiêm của thành phố Hải Phòng: Hải Phòng hiện nay có 4 Trung tâm tư vấn pháp
luật bao gồm: Trung tâm TGPL Nhà nước thành phố, Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội Luật
gia thành phố, Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố và Trung tâm tư
vấn pháp luật thuộc Liên đoàn lao động thành phố.
- Kinh nghiệm của tỉnh Thanh Hóa: Thanh Hoá hiện có Trung tâm TGPL Nhà nước thuộc
Sở Tư pháp và Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội Luật gia tỉnh đăng ký tham gia TGPL. Mạng
lưới TGPL ở tỉnh Thanh Hóa được hình thành thông qua việc thành lập các Câu lạc bộ TGPL tại
cấp xã, bao gồm 250 Câu lạc bộ TGPL tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó
khăn trên toàn tỉnh (trong đó có 93 Câu lạc bộ TGPL theo Chương trình 135, 144 Câu lạc bộ TGPL
theo Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo, 20 Câu lạc bộ TGPL của Chương trình dự án, 02
Câu lạc bộ của Chương trình Quỹ TGPL và 02 Câu lạc bộ do chính quyền xã tự thành lập). Các
Câu lạc bộ TGPL này đã đi vào hoạt động có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của người dân. [18, tr.39-41]
Kết luận Chƣơng 1

=

8


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở TỈNH BẮC GIANG
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Giang tác động đến hoạt động trợ
giúp pháp lý và bảo đảm quyền tiếp cận công lý

2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên
Vị trí địa lý tỉnh Bắc Giang nằm ở tọa độ từ 21 độ 07 phút đến 21 độ 37 phút vĩ độ bắc, từ
105 độ 53 phút đến 107 độ 02 phút kinh độ Đông. Bắc Giang là tỉnh miền núi nằm cách Thủ đô Hà
Nội 50 km về phía Bắc, phía Nam giáp với các tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương, phía Bắc giáp với tỉnh
Lạng Sơn cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) 110 km về phía Nam, phía Đông giáp với tỉnh
Quảng Ninh và cách cảng Hải Phòng hơn 100 km, phía Tây và Tây Bắc giáp với thành phố Hà Nội,
Thái Nguyên. Vị trí địa lý đó đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế và xã hội của tỉnh Bắc
Giang, tạo điều kiện thuận lợi để Bắc Giang phát triển kinh tế liên vùng, giao lưu kinh tế – xã hội với
các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, các tỉnh Đông Bắc của Việt Nam và với các tỉnh của Trung Quốc.
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế – xã hội
Những điều kiện tự nhiên thuận lợi nêu ở trên giúp tỉnh Bắc Giang có lợi thế về phát triển
kinh tế trong các ngành nghề như: Nông – lâm nghiệp, thương mại – dịch vụ và công nghiệp – tiểu
thủ công nghiệp, đặc biệt là ngành nghề nông – lâm nghiệp đang có sự chuyển dịch cơ cấu một cách
nhanh chóng, tích cực. Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, có tiềm năng nhất của tỉnh Bắc
Giang. Hiện nay Bắc Giang có 06 khu công nghiệp với tổng diện tích khoảng 1.371 ha, ngoài ra còn
có gần 10 cụm công nghiệp đã được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư đi vào hoạt động.
Về điều kiện xã hội, hiện nay tỉnh Bắc Giang có dân số khoảng hơn 1.624.456 người, là nơi
hội tụ của cư dân gần 20 tỉnh thành trong cả nước với nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, trong
đó dân tộc Kinh chiếm đa số (khoảng 87.9%), còn lại là dân tộc Nùng, Tày, Sán Chỉ, Cao Lan, Dao,
Hoa,…người Kinh sống tập trung ở các huyện trung du, người dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở các
huyện miền núi.
2.1.3. Đánh giá tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ở tỉnh Bắc Giang đến hoạt
động TGPL và bảo đảm quyền tiếp cận công lý
Về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý là đầu mối giao thông giúp Bắc Giang thuận lợi trong việc
triển khai các dịch vụ TGPL, qua đó thúc đẩy quyền tiếp cận công lý cho người dân trên toàn tỉnh. Mặc
dù vậy, do là một tỉnh miền núi có địa hình rộng, chia cắt phức tạp nên ở nhiều huyện đi lại còn khó

9



khăn, người dân sống thưa thớt cũng là những thách thức đối với tỉnh Bắc Giang trong lĩnh vực này.
Về điều kiện kinh tế – xã hội, do nằm cạnh tam giác kinh tế trọng điểm về phía Bắc (Hà
Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh) nên kinh tế của tỉnh Bắc Giang trong những năm gần đây phát
triển nhanh chóng, tạo thuận lợi cho các hoạt động TGPL. Tuy nhiên, điều này cũng đồng thời ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động TGPL và bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân bởi khi kinh
tế ngày càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn và các tệ nạn xã hội có xu hướng
diễn ra ngày càng phức tạp.
2.2. Tổ chức thực hiện và kết quả bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang trong 5 năm gần đây
2.2.1. Phương thức, nội dung thực hiện quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang
Cụ thể hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, hoạt động TGPL được tổ chức thông qua các cơ quan, tổ
chức, cá nhân sau đây:
Thứ nhất, Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang: Trung tâm này được thành lập từ
năm 1999, sau khi có Quyết định thành lập Trung tâm TGPL Nhà nước của UBND tỉnh, Sở Tư
pháp tỉnh Bắc Giang đã phối hợp với Sở Nội vụ, Văn phòng UBND triển khai bố trí trụ sở làm
việc, nhân sự và các điều kiện cần thiết để Trung tâm TGPL Nhà nước của tỉnh đi vào hoạt động.
Sau gần 20 năm đi vào hoạt động, Trung tâm TGPL Nhà nước của tỉnh đã được tổ chức chặt chẽ,
hoàn chỉnh với phân bổ 20 biên chế trong đó có: 01 Giám đốc, 04 phòng chuyên môn – nghiệp vụ
(Phòng Hành chính – Tổng hợp, Phòng pháp luật Hình sự – Hành chính, Phòng pháp luật Dân sự –
Đất đai và Phòng pháp luật Lao động – Xã hội) và 03 Chi nhánh[43].
Thứ hai, hệ thống TGPL ở cơ sở: Sở Tư pháp đã phối hợp với Trung tâm TGPL Nhà nước
của tỉnh thành lập 107 Câu lạc bộ TGPL trong đó có 09 Câu lạc bộ TGPL điểm được thành lập vào
năm 2006 do Cục TGPL – Bộ Tư pháp chỉ đạo, 68 Câu lạc bộ TGPL được thành lập theo Chương
trình Quốc gia giảm nghèo tại 08 huyện và 30 Câu lạc bộ TGPL theo Chương trình 135 về phát
kiển kinh tế – xã hội của các xã miền núi đặc biệt khó khăn và vùng sâu, vùng xa giai đoạn II
(2006-2010) tại 03 huyện.
Thứ ba, các tổ chức xã hội tham gia TGPL: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 14
tổ chức hành nghề luật sư trong đó có 07 tổ chức đăng ký tham gia TGPL bao gồm: Văn phòng
luật sư Triệu Hiển, Văn phòng luật sư Nguyễn Đình Huân, Văn phòng luật sư Dân An, Công ty

Luật TNHH Fanci, Văn phòng luật sư Phạm Xuân Anh và Công ty Luật TNHH Một thành viên
Đường Gia. Có 02 Trung tâm tư vấn pháp luật bao gồm: Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh và Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội Luật gia tỉnh.
- Thứ tư, cá nhân trực tiếp thực hiện công tác TGPL cho các đối tượng chính sách: Cá

10


nhân tham gia thực hiện TGPL có vai trò quan trọng đối với hoạt động TGPL. Hiện nay, Trung
tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang đã có 08 Trợ giúp viên pháp lý, 22 Luật sư cộng tác viên và
07 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý.
Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang được tiến
hành thông qua nhiều phương thức, trong đó các phương thức quan trọng nhất đó là: Truyền thông
và thông tin, phối hợp giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan và TGPL lưu động.
- Truyền thông và thông tin
Hoạt động truyền thông và thông tin có vai trò vô cùng quan trọng, là cầu nối để người
dân cũng như đối tượng được TGPL có thể tiếp cận, sử dụng các dịch vụ TGPL. Thông qua hoạt
động này, các đối tượng trên có thể hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình qua đó họ sẽ tìm
đến các tổ chức tham gia thực hiện TGPL khi có yêu cầu.
- Phối hợp giữa các cá nhân, tổ chức và cơ quan hữu quan
+ Phối hợp TGPL giữa các cá nhân, tổ chức và cơ quan trong hoạt động tố tụng: UBND
tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp chủ động tham mưu cho Hội đồng phối hợp liên ngành tỉnh xây dựng,
tổ chức thực hiện TGPL cho các đối tượng được hưởng TGPL.
+ Phối hợp TGPL giữa các cá nhân, tổ chức và cơ quan hữu quan theo hình thức khác: Để
nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động TGPL trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư
pháp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ và
các đoàn thể xã hội khác trong tỉnh nhằm giới thiệu, tạo điều kiện cho các cộng tác viên TGPL
tham gia hoạt động TGPL, phát triển các tổ chức tư vấn pháp luật, tổ chức TGPL lưu động trên địa
bàn toàn tỉnh và đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động TGPL.
- TGPL lưu động

Từ năm 2014 đến năm 2018, Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh, Trung tâm tư vấn pháp luật
thuộc Hội Luật gia tỉnh và Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã thực hiện
TGPL lưu động giải quyết 5754 vụ việc tại các xã, phường, thị trấn ở 10 huyện, thành phố trên địa
bàn tỉnh. Đặc biệt, trong năm 2016 thực hiện công văn số 1556/UBND-KGVX ngày 06/6/2016 của
UBND tỉnh Bắc Giang về việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
lao động của công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Asean Link, Trung tâm đã thực hiện TGPL lưu
động cho người lao động tại công ty TNHH Asean Link và người lao động tại khu công nghiệp Đình
Trám, huyện Việt Yên.
Nội dung bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang
được thể hiện như sau:
Thứ nhất, bảo đảm cho người dân được tiếp cận với các thông tin pháp luật. Bảo đảm
quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cần gắn liền với

11


quyền được tiếp cận thông tin pháp luật của người dân.
Thứ hai, bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang cần
gắn liền với hoạt động TGPL lưu động. Với địa hình là một tỉnh chiếm 72% diện tích đồi núi thì
việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL lưu động của người dân là rất phù
hợp và cần thiết.
Thứ ba, bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL cho người dân ở tỉnh
Bắc Giang cần gắn liền với hình thức tham gia tố tụng.
2.2.2. Kết quả bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở
tỉnh Bắc Giang và nguyên nhân
2.2.2.1. Kết quả TGPL phân theo lĩnh vực
Theo Báo cáo thống kê của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang từ năm 2014 đến
ngày 31/12/2018, trong tổng số 6504 vụ việc TGPL đã được thực hiện được chia theo các lĩnh vực
như sau: Lĩnh vực pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự có 1139 vụ việc, lĩnh
vực pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình có 2543 vụ việc, lĩnh vực pháp luật hành chính có 1291

vụ việc và lĩnh vực pháp luật khác có 1531 vụ việc. (Xem biểu đồ dưới đây và chi tiết ở Phụ lục I)
Biểu đồ 2.1: Thống kê lĩnh vực trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang
từ năm 2014 đến ngày 31/12/2018

Qua biểu đồ 2.1, có thể thấy: TGPL trong lĩnh vực pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi
hành án hình sự chiếm tỷ lệ 17.51%, lĩnh vực pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình chiếm tỷ lệ
39.1%, lĩnh vực pháp luật hành chính chiếm tỷ lệ 19.85% và lĩnh vực pháp luật khác (bao gồm lĩnh
vực lao động, việc làm, pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng,…) chiếm tỷ lệ 23.54%. Kết
quả trên cho thấy hoạt động TGPL đã đáp ứng cơ bản nhu cầu của các đối tượng được hưởng
TGPL, góp phần giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong đời sống xã hội hàng ngày.

12


2.2.2.2. Kết quả TGPL phân theo hình thức
Theo Báo cáo của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang từ năm 2014 đến ngày
31/12/2018, trong tổng số 6504 vụ việc TGPL các tổ chức tham gia thực hiện TGPL đã thực hiện
vụ việc theo các hình thức sau: Hình thức tư vấn pháp luật có 5921 vụ việc, hình thức tham gia tố
tụng có 571 vụ việc (bao gồm 465 vụ việc bào chữa và 106 vụ việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp)
và hình thức đại diện ngoài tố tụng có 12 vụ việc. (Xem biểu dưới đây và chi tiết tại Phụ lục II)
Biểu đồ 2.2: Thống kê hình thức trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang
từ năm 2014 đến ngày 31/12/2018

Biểu đồ trên cho thấy: Hình thức tư vấn pháp luật chiếm tỷ lệ cao nhất với 91.04%, hình
thức tham gia tố tụng chiếm tỷ lệ còn thấp với 8.78% và hình thức đại diện ngoài tố tụng chiếm
tỷ lệ không đáng kể với 0.18%. Điều này có nguyên nhân chủ yếu là do Trung tâm TGPL Nhà
nước tỉnh và các Trung tâm tư vấn pháp luật khác còn thiếu nguồn nhân lực và vật lực cho hình
thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, các hình thức này vốn đòi hỏi nhiều công sức, thời
gian và năng lực ở mức độ cao hơn so với hình thức tư vấn pháp luật.
2.2.2.3. Kết quả TGPL phân theo địa điểm thực hiện

Theo Báo cáo của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang từ năm 2014 đến ngày
31/12/2018, trong tổng số 6504 vụ việc TGPL các tổ chức thực hiện TGPL đã thực hiện vụ việc
theo các địa điểm như sau: TGPL tại trụ sở của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh là 214 vụ việc, tại
trụ sở các Chi nhánh của Trung tâm là 479 vụ việc, tại trụ sở của các tổ chức đăng ký tham gia
TGPL là 57 vụ việc và tại các đợt TGPL lưu động là 5754 vụ việc (Xem biểu dưới đây và chi tiết
tại Phụ lục III)

13


Biểu đồ 2.3: Thống kê địa điểm thực hiện TGPL ở tỉnh Bắc Giang
từ năm 2014 đến ngày 31/12/2018

Qua biểu trên cho thấy, TGPL được thực hiện tại các đợt TGPL lưu động chiếm tỷ lệ cao
nhất với 88.47%. Điều này thể hiện nỗ lực của chính quyền và Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh
trong việc hỗ trợ người dân ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn có thể tiếp cận được với các
dịch vụ pháp lý miễn phí. Trong bối cảnh địa hình ở tỉnh Bắc Giang có nhiều đồi núi thì đây là
những cố gắng rất to lớn.
2.2.2.4. Kết quả TGPL phân theo đối tượng được TGPL
Theo Báo cáo của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang từ năm 2014 đến ngày
31/12/2018, trong tổng số 6504 vụ việc TGPL các tổ chức thực hiện TGPL đã thực hiện vụ việc
cho các đối tượng như sau: Đối tượng là người nghèo chiếm 1781 vụ việc, đối tượng là người bị
buộc tội thuộc hộ cận nghèo chiếm 57 vụ việc, đối tượng là người có công với cách mạng chiếm
1084 vụ việc, đối tượng là người già cô đơn không nơi nương tựa chiếm 17 vụ việc, đối tượng là
người khuyết tật chiếm 123 vụ việc, đối tượng là người dân tộc thiểu số chiếm 1232 vụ việc, đối
tượng là trẻ em chiếm 4 vụ việc, đối tượng là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
chiếm 15 vụ việc, đối tượng có cha mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng
khi liệt sĩ còn nhỏ chiếm 11 vụ việc, đối tượng là người nhiễm chất độc màu da cam chiếm 33 vụ
việc, đối tượng là người cao tuổi chiếm 32 vụ việc, đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi là


14


bị hại trong vụ án hình sự chiếm 8 vụ việc và các đối tượng khác là chiếm 2107 vụ việc. (Xem biểu
đồ sau và chi tiết tại phụ lục IV).
Biểu đồ 2.4: Thống kê đối tƣợng đƣợc TGPL ở tỉnh Bắc Giang
từ năm 2014 đến ngày 31/12/2018

2.2.2.5. Nguyên nhân của những kết quả trên
Thứ nhất, hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang phù hợp với các quy định của pháp luật và
đạo đức xã hội, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, vì vậy được
người dân tin tưởng.
Thứ hai, hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang cơ bản nhận được sự hài lòng của các đối
tượng được hưởng TGPL. Các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện TGPL bao gồm Trợ giúp
viên pháp lý, luật sư là cộng tác viên, tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên khác khi tham gia
giải quyết những yêu cầu của các đối tượng được hưởng TGPL qua quá trình khảo sát thực tế,
trao đổi và phỏng vấn với các đối tượng đó họ đều đánh giá cao hiệu quả và ý nghĩa xã hội của
hoạt động này.
Thứ ba, các đối tượng được hưởng TGPL ở tỉnh Bắc Giang cơ bản được bảo vệ, đồng thời
những vướng mắc, yêu cầu liên quan đến vụ việc TGPL dần được tháo dỡ góp phần nâng cao nhận
thức pháp luật cho người dân.
Thứ tư, hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang có sự chỉ đạo, quan tâm của cơ quan chuyên
môn cấp trên là Cục TGPL – Bộ Tư pháp, UBND tỉnh. Sự chỉ đạo đó đã góp phần bảo đảm những
điều kiện thuận lợi trong tổ chức và hoạt động TGPL.

15


2.2.3. Những tồn tại, hạn chế với việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua trợ
giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang và nguyên nhân

Thứ nhất, quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động TGPL trong thời
gian qua của người dân chưa được thông suốt.
Thứ hai, việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang
trên thực tế vẫn là khoảng cách so với pháp luật thực định, số lượng người dân nhận được TGPL
còn thấp so với thực tế.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên bao gồm:
Thứ nhất, pháp luật thực định về TGPL mặc dù mới được ban hành nhưng đối tượng được
hưởng TGPL vẫn còn thu hẹp, chưa được mở rộng.
Thứ hai, pháp luật hiện hành về TGPL còn nhiều quy định chưa cụ thể, khó áp dụng trong
thực tiễn. Hậu quả là trong thực tế, việc xác định các đối tượng thuộc diện được hưởng TGPL vẫn
gặp phải một số khó khăn.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hoạt động TGPL cho người
nghèo và các đối tượng chính sách còn hạn chế.
Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua
hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang còn chưa động bộ, hiệu quả chưa được cao.
Thứ năm, mô hình tổ chức thực hiện TGPL ở một số nơi trên địa bàn tỉnh còn chưa đồng
đều, chưa thống nhất.
Thứ sáu, phương thức bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL còn
chưa đúng trọng tâm, trọng điểm.
Thứ bẩy, lực lượng Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên TGPL vẫn còn thiếu, còn nhiều
bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu TGPL ngày càng tăng lên của các đối tượng được hưởng
TGPL trên địa bàn tỉnh.
Thứ tám, kinh phí đầu tư cho hoạt động TGPL còn hạn chế, chưa thường xuyên.
Thứ chín, việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý chưa được sát so với thực tế,
do người đánh giá căn cứ vào hồ sơ vụ việc đã hoàn thành nhưng lại không đánh giá trên cơ sở điều
tra thực tế.
Thứ mười, công tác xã hội hóa hoạt động TGPL còn chậm, việc huy động các nguồn lực xã
hội tham gia TGPL đạt hiệu quả chưa cao.
Kết luận Chƣơng 2


16


Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở TỈNH BẮC GIANG
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
ở tỉnh Bắc Giang
3.1.1. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL cần phải gắn liền với
mục tiêu và hoạt động cải cách tư pháp nói chung
Việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL cho người dân ở tỉnh Bắc
Giang cần có những bước đi song hành với cải cách tư pháp. Điều này đòi hỏi:
- Thứ nhất, các chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp phải
được thể chế hóa một cách nhất quán, đáp ứng nhu cầu của người dân trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Thứ hai, công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và việc bắt, giam, giữ, cải tạo
được thực hiện nghiêm minh, dân chủ, công bằng, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
- Thứ ba, tăng cường kiểm soát quyền tư pháp nhằm bảo vệ tối đa quyền con người. Quyền
tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL của cơ quan Nhà nước đến từng người dân.
3.1.2. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý cần gắn với
mục tiêu và xây dựng bộ máy tổ chức tỉnh Bắc Giang
Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL ở tỉnh Bắc Giang được triển
khai với các hoạt động chính bao gồm: Tằng cường hoạt động truyền thông về TGPL, kiện toàn
tổ chức bộ máy, cán bộ TGPL, tăng cường nguồn nhân lực TGPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả
của việc cung cấp dịch vụ TGPL, tăng cường hoạt động TGPL ở địa phương, cơ sở và tăng
cường kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động TGPL
Những hoạt động nêu trên ở tỉnh Bắc Giang phù hợp với chủ trương của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước về “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, văn minh, trong sạch
vững mạnh, chuyên nghiệp, toàn diện, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN


17


dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Bên cạnh đó, cần tiến hành thực hiện xây dựng đội ngũ TGPL ngay
tại cơ sở, củng cố, kiện toàn bộ máy TGPL ở địa phương từ cấp tỉnh đến cơ sở theo hướng gọn nhẹ
nhưng hoạt động hiệu quả, nêu rõ về chức năng, nhiệm vụ, cơ chế quản lý về tổ chức và hoạt động
TGPL. Thêm vào đó, cần thực hiện tốt những yêu cầu đơn giản hóa và công khai minh bạch về thủ
tục hành chính, đặc biệt là thủ tục liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,
đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức làm công tác TGPL có đủ những điều
kiện, khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu TGPL.
3.1.3. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc
Giang cần thực hiện đồng thời các nội dung, trong đó đặt trọng tâm vào tiếp cận với pháp luật
và trợ giúp pháp lý
Bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL cho người dân trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang phải có tính đồng bộ về nội dung và phương thức tiếp cận pháp luật để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng được hưởng TGPL. Sự tiếp cận đó cần thực hiện một
cách thống nhất trên cả hai phương diện, đặc biệt đặt trọng tâm về vấn đề TGPL và nâng cao trình
độ hiểu biết pháp luật của người dân. Hoạt động TGPL chính là cầu nối giúp chính quyền các cấp
tháo gỡ, khắc phục những vướng mắc tạo ra diễn đàn, tiếng nói chung giữa chính quyền và nhân
dân. Đồng thời các tổ chức tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý phải có cái nhìn toàn diện về mặt
nội dung và phương thức trong việc tiếp cận pháp luật cho người dân, bên cạnh đó các tổ chức này
cần tổ chức thường xuyên các buổi hội nghị, tọa đàm nhằm tuyên truyền phổ biến pháp luật, phối
hợp với các cơ quan chức năng, các luật sư là cộng tác viên trong việc hỗ trợ và tham gia trao đổi
hướng dẫn pháp luật cho từng người dân.
3.1.4. Việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý cần thực hiện từ những yêu cầu thực tế của
người dân trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Trong thời gian qua, tỉnh Bắc Giang đã chú trọng việc quan tâm đến công tác TGPL cho các
đối tượng chính sách như: Người nghèo, người có công với cách mạng, phụ nữ, trẻ em…Tuy nhiên,
như đã đề cập ở Chương 2 đến nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập khi người dân chưa được

hưởng thụ đầy đủ quyền tiếp cận công lý của mình. Đánh giá kết quả về hoạt động TGPL trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang trong những năm qua cho thấy người dân chưa tự bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi bị xâm hại, thậm chí phần lớn là không hiểu hoặc không biết quyền lợi của
mình đang bị xâm hại cũng như không biết phải làm thế nào để giải quyết các vấn đề liên quan đến
quyền lợi của mình. Chính vì vậy, cần củng cố, kiện toàn và xây dựng hệ thống tổ chức TGPL cho
phù hợp với tình hình địa phương và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động TGPL cho các đối
tượng được hưởng TGPL.

18


3.2. Giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
ở tỉnh Bắc Giang
3.2.1. Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, giám sát, quản lý Nhà nước của các cơ quan
có thẩm quyền ở tỉnh Bắc Giang đối với hoạt động TGPL
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh
Từ cách tiếp cận trên, Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang cần chú trọng hơn trong việc lãnh đạo hoạt
động TGPL. Tỉnh ủy cần thông qua việc ban hành các Nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp, toàn diện nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý thông qua hoạt động TGPL của người dân
được thống nhất, đồng thời quan tâm đến việc củng cố và kiện toàn tổ chức TGPL nhằm đảm bảo
hiệu quả hoạt động của các tổ chức này.
- Không ngừng nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền
+ Nâng cao vai trò của UBND tỉnh, Sở Tư pháp đối với công tác TGPL trên địa bàn tỉnh,
thường xuyên nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ quản lý trong hoạt động TGPL.
+ Tăng cường sự chỉ đạo của Sở Tư pháp với Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh khi thực
hiện các nhiệm vụ quản lý hoạt động TGPL bám sát với thực tiễn tình hình ở từng địa phương trên
địa bàn tỉnh, bảo đảm phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp, phát triển kinh tế – xã hội.
+ Không ngừng tập trung xây dựng, phát triển và củng cố trong việc định hướng thực hiện
pháp luật về TGPL, đảm bảo hoạt động TGPL được thực hiện đúng trọng tâm, trọng điểm góp phần
bảo đảm sự hài hòa trong công tác TGPL ở các vùng, các lĩnh vực và đối tượng được thụ hưởng

TGPL, kết hợp đào tạo nguồn nhân lực tham gia TGPL với phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo hoạt
động TGPL được thực hiện một cách hiệu quả, nhanh chóng.
+ Nâng cao nhận thức của cán bộ, chính quyền địa phương về vai trò của cơ quan tư pháp
trong việc quản lý lĩnh vực TGPL ở địa phương.
3.2.2. Nâng cao chất lượng văn bản pháp quy của tỉnh Bắc Giang, đồng thời kiến nghị
hoàn thiện chính sách pháp luật Nhà nước về trợ giúp pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý
của người dân
Thứ nhất, nâng cao chất lượng văn bản của tỉnh Bắc Giang trong lĩnh vực TGPL. Căn cứ
vào các quy định của Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, HĐND và UBND
tỉnh Bắc Giang cần sớm ban hành các Nghị quyết và Quyết định điều chỉnh về hoạt động TGPL sao
cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Thứ hai, kiến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật Nhà nước về TGPL đảm bảo quyền tiếp
cận công lý của người dân. Để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người dân thì trước hết cần phải
hoàn thiện chính sách pháp luật Nhà nước về TGPL một cách đầy đủ, thống nhất. Cụ thể:

19


- Quy định mở rộng thêm các đối tượng được TGPL nhằm phù hợp với điều kiện thực tế
hiện nay như: Người không quốc tịch, người lao động di cư, phụ nữ, người bị tước tự do, những đối
tượng khác có thể phát sinh trong tương lai bao gồm người tỵ nạn hoặc xin tỵ nạn và một số đối
tượng không thuộc diện TGPL theo quy định của Luật TGPL năm 2017 nhưng có xác nhận của địa
phương về việc họ có hoàn cảnh khó khăn không có điều kiện để chi trả cho các dịch vụ pháp lý.
- Cần quy định cụ thể hơn nữa về tổ chức và hoạt động các Chi nhánh của Trung tâm
TGPL Nhà nước tại các huyện, các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý trực thuộc xã, phường, thị trấn cũng
như trình tự, thủ tục, chấm dứt hoạt động của Chi nhánh và giải thể các Câu lạc bộ TGPL hoạt
động không hiệu quả.
- Sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng chế độ phụ cấp đối với cán bộ làm công tác TGPL và
thù lao chi trả cho cộng tác viên TGPL để họ đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của họ.
- Cần thay đổi chức danh Trợ giúp viên pháp lý theo tên gọi “Luật sư Trợ giúp viên pháp

lý” để đảm bảo cho người dân có thể dễ tiếp cận, sử dụng và hiểu rõ về dịch vụ TGPL này.
3.2.3. Nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trợ giúp pháp lý
cho người dân trên địa bàn tỉnh
- Thực hiện tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua hình thức tư vấn pháp
luật cho người dân. Đội ngũ những người tham gia thực hiện TGPL thông qua hoạt động giao tiếp
với các đối tượng được hưởng TGPL để lắng nghe, chắt lọc và ngoài tìm hiểu những thông tin
trung thực về vụ việc thì cần phải hiểu rõ bản chất yêu cầu của các đối tượng đó.
- Thực hiện tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp
pháp lý lưu động.
- Thông qua hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý, luật sư là cộng tác viên.
- Thực hiện tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua các cơ quan truyền thông.
3.2.4. Xây dựng toàn diện các hoạt động nghiệp vụ có liên quan đến công tác trợ giúp
pháp lý tỉnh Bắc Giang
- Tiến hành xây dựng văn bản, kế hoạch hoạt động.
Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Bắc Giang cần tham mưu Sở Tư pháp xây dựng và ban
hành các kế hoạch để thực hiện nhiệm vụ TGPL theo từng năm trên những địa bàn cụ thể, rõ ràng
bám sát vào thực tiễn, rút ra kinh nghiệm từ những năm trước để đạt hiệu quả cao nhất.
- Tổ chức hoạt động các Câu lạc bộ TGPL.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các Câu lạc bộ TGPL trên địa
bàn tỉnh trong thời gian tới cần phải có sự chủ động trong xây dựng kế hoạch hoạt động cũng như
sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền các xã, thị trấn nhằm tạo điều kiện thuận lợi để duy
trì hoạt động trao đổi, tư vấn pháp luật.

20


- Triển khai, thực hiện các quyết định và đánh giá kết quả trong công tác trợ giúp pháp lý
Việc triển khai một cách toàn diện gắn liền với thực tế, có sự gắn kết của cấp trên cũng phải
phù hợp với tính chất của từng địa phương trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, việc triển khai cũng cần
có tính đồng bộ, thống nhất từ đó thông qua quá trình thực hiện thu được những kết quả nhất định.

- Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng
Trong những năm qua, công tác phối hợp về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng tại
tỉnh Bắc Giang đã được các ngành triển khai thực hiện có hiệu quả, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đối tượng được hưởng TGPL góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội tại cơ sở.
3.2.5. Không ngừng đổi mới phương pháp, vận dụng linh hoạt các hình thức TGPL nhằm
bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân
Thứ nhất, tập trung thực hiện TGPL với hình thức tư vấn pháp luật. Các tổ chức tham gia
TGPL bao gồm Trung tâm TGPL Nhà nước của tỉnh, Trung tâm tư vấn pháp luật khác và các tổ
chức hành nghề luật sư cần tập trung áp dụng hình thức tư vấn pháp luật khi tham gia thực hiện
TGPL cũng như khi tư vấn giải quyết những vấn đề vướng mắc liên quan đến pháp luật cho các đối
tượng được hưởng TGPL.
Thứ hai, không ngừng tăng cường hoạt động TGPL lưu động trên địa bàn tỉnh. Hoạt động
TGPL lưu động có vai trò quan trọng trong công tác TGPL ở tỉnh Bắc Giang, tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn không có khả năng về
kinh tế, phương tiện đi lại có thể thụ hưởng được các dịch vụ pháp lý miễn phí.
3.2.6. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ những
người tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý
Về vấn đề này, trước hết Sở Tư pháp cần tham mưu cho UBND tỉnh Bắc Giang nhanh
chóng xây dựng các quy định nhằm đưa hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL vào quy chuẩn, tiến
hành thống kê, kiện toàn và đánh giá chất lượng đội ngũ những người tham gia thực hiện TGPL hiện
có. Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh tiến hành xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ những người
tham gia thực hiện TGPL dài hạn và hàng năm, việc bồi dưỡng đội ngũ những người này phải bảo
đảm đúng đối tượng, tránh tổ chức tràn lan cho các đối tượng không thuộc trường hợp được bồi
dưỡng gây lãng phí, đảm bảo tổ chức những buổi tập huấn sao cho những người trẻ tuổi cũng được
tham gia tập huấn, tránh tình trạng chỉ tập trung vào một số đối tượng nhất định.
3.2.7. Củng cố các điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý
nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân
Việc đầu tư kinh phí cần quan tâm vào những vấn đề sau: Cần đầu tư xây dựng trụ sở,
trang thiết bị, máy móc làm việc khi thực hiện hoạt động TGPL; cần cải cách chế độ tiền lương,


21


×