Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh trường trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------

Đào Ngọc Minh Anh

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN SIÊU, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------

Đào Ngọc Minh Anh

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN SIÊU, HÀ NỘI

Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60420114

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Văn Hưng


PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân

Hà Nội – 2018


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên của luận văn tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và niềm cảm kích sâu sắc
tới PGS.TS. Mai Văn Hưng, thầy đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và định hướng
cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân
đã luôn giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài.
Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô công tác tại Bộ môn Sinh lý
học và Sinh học người - Khoa Sinh học - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHQGHN đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu khoa học
một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các giáo viên và học sinh trường
THCS & THPT Nguyễn Siêu, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ tôi thực hiện nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè là những
người luôn động viên, ủng hộ và sát cánh bên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu để tôi hoàn thành tốt luận văn này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Tác giả

Đào Ngọc Minh Anh


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kì công trình nào khác.

Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Tác giả

Đào Ngọc Minh Anh


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

BMI

: Body mass index (chỉ số khối cơ thể).

Cs

: Cộng sự.

FEV1

: Forced expiratory volume in one second (thể tích khí thở ra tối đa trong
giây đầu).

GTSH

: Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90, thế kỷ XX.

HSSH


: Hằng số sinh học người Việt Nam.

NXB

: Nhà xuất bản.

VC:

: Vital capacity (dung tích sống).

THCS

: Trung học cơ sở.

THPT

: Trung học phổ thông.

WHO

: World health organization (Tổ chức Y tế Thế giới).


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 - TỔNG QUAN ........................................................................................3
1.1. Một số vấn đề về chỉ số hình thái ..................................................................3
1.1.1. Nghiên cứu các chỉ số hình thái trên thế giới...........................................3
1.1.2. Nghiên cứu các chỉ số hình thái ở Việt Nam ...........................................4

1.2. Một số vấn đề về chỉ số chức năng sinh lý ..................................................10
1.2.1. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý trên thế giới .................................10
1.2.2. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý ở Việt Nam .................................11
Chương 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................17
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................17
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................17
2.1.2. Đặc điểm học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu, Hà Nội ........17
2.2.

Phương pháp nghiên cứu.............................................................................18

2.2.1. Các chỉ số nghiên cứu ............................................................................18
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số hình thái........................................18
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý ....................20
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu......................................................................22
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ....................................24
3.1.

Một số chỉ số hình thái của học sinh...........................................................24

3.1.1. Chiều cao đứng ......................................................................................24
3.1.2. Cân nặng ................................................................................................28
3.1.3. Vòng đầu ................................................................................................31
3.1.4. Vòng ngực bình thường .........................................................................34
3.1.5. Vòng eo ..................................................................................................38
3.1.6. Vòng mông ............................................................................................40
3.1.7. BMI ........................................................................................................42


3.2.


Một số chỉ số chức năng sinh lý của học sinh............................................46

3.2.1. Các chỉ số chức năng tuần hoàn máu .....................................................46
3.2.2. Các chỉ số chức năng thông khí phổi .....................................................55
3.3. Mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái và chức năng sinh lý của học sinh
...............................................................................................................................66
3.3.1. Tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hệ tuần
hoàn ...................................................................................................................67
3.3.2. Tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng hệ tuần hoàn
...........................................................................................................................70
3.3.3. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ số chức năng
hệ tuần hoàn…………………………………………………………………..52
3.3.4. Tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hô hấp.....
...........................................................................................................................77
3.3.5. Tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng hô hấp...........80
3.3.6. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ số chức năng hô
hấp .....................................................................................................................83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................89


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân loại theo BMI (kg/m2)......................................................................20
Bảng 3.1. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ...................24
Bảng 3.2. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác
nhau ...........................................................................................................................27
Bảng 3.3. Cân nặng (kg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ..............................28
Bảng 3.4. Cân nặng (kg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau ..31
Bảng 3.5. Vòng đầu (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ............................32

Bảng 3.6. Vòng đầu (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau..
...................................................................................................................................34
Bảng 3.7. Vòng ngực bình thường (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ......35
Bảng 3.8. Vòng ngực bình thường (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả
khác nhau...................................................................................................................37
Bảng 3.9. Vòng eo (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ..............................38
Bảng 3.10. Vòng eo (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau 40
Bảng 3.11. Vòng mông (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .......................40
Bảng 3.12. Vòng mông (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau
...................................................................................................................................42
Bảng 3.13. BMI (kg/m2) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ..............................43
Bảng 3.14. BMI (kg/m2) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau ..45
Bảng 3.15. Tần số tim (nhịp/phút) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ..............46
Bảng 3.16. Tần số tim (nhịp/phút) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác
nhau ...........................................................................................................................48
Bảng 3.17. Huyết áp tâm thu (mmHg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ........49
Bảng 3.18. Huyết áp tâm thu (mmHg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả
khác nhau...................................................................................................................51
Bảng 3.19. Huyết áp tâm trương (mmHg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ..52
Bảng 3.20. Huyết áp tâm trương (mmHg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác
giả khác nhau .............................................................................................................54
Bảng 3.21. Tần số hô hấp (nhịp/phút) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .........55


Bảng 3.22. Tần số hô hấp (nhịp/phút) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả
khác nhau...................................................................................................................57
Bảng 3.23. Dung tích sống (lít) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ...................58
Bảng 3.24. Dung tích sống (lít) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác
nhau ...........................................................................................................................60
Bảng 3.25. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít) của học sinh theo lứa tuổi và

giới tính .....................................................................................................................61
Bảng 3.26. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít) của học sinh theo nghiên cứu
của các tác giả khác nhau ..........................................................................................63
Bảng 3.27. Chỉ số Tiffeneau (%) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .................64
Bảng 3.28. Chỉ số Tiffeneau (%) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác
nhau ...........................................................................................................................66
Bảng 3.29. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với chiều cao đứng ......67
Bảng 3.30. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với cân nặng ................70
Bảng 3.31. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với vòng ngực bình thường
...................................................................................................................................74
Bảng 3.32. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với chiều cao đứng ...........77
Bảng 3.33. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với cân nặng .....................80
Bảng 3.34. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với vòng ngực bình thường
...................................................................................................................................83


DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Biểu đồ chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính .....................25
Hình 3.2. Biểu đồ cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính ...............................29
Hình 3.3. Biểu đồ vòng đầu của học sinh theo tuổi và giới tính ...............................33
Hình 3.4. Biểu đồ vòng ngực bình thường của học sinh theo tuổi và giới tính ........36
Hình 3.5. Biểu đồ vòng eo của học sinh theo tuổi và giới tính .................................39
Hình 3.6. Biểu đồ vòng mông của học sinh theo tuổi và giới tính ...........................41
Hình 3.7. Biểu đồ BMI của học sinh theo tuổi và giới tính ......................................44
Hình 3.8. Biểu đồ tần số tim của học sinh theo tuổi và giới tính ..............................47
Hình 3.9. Biểu đồ huyết áp tâm thu của học sinh theo tuổi và giới tính ...................50
Hình 3.10. Biểu đồ huyết áp tâm trương theo tuổi và giới tính ................................53
Hình 3.11. Biểu đồ tần số hô hấp của học sinh theo tuổi và giới tính ......................56
Hình 3.12. Biểu đồ dung tích sống của học sinh theo tuổi và giới tính ....................59

Hình 3.13. Biểu đồ thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu theo tuổi và giới tính ..62
Hình 3.14. Biểu đồ chỉ số Tiffeneau của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ...........65
Hình 3.15. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với tần số tim của học sinh
...................................................................................................................................68
Hình 3.16. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm thu của
học sinh .....................................................................................................................69
Hình 3.17. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm trương của
học sinh .....................................................................................................................70
Hình 3.18. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với tần số tim của học sinh ......71
Hình 3.19. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm thu của ..........72
Hình 3.20. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm trương của học
sinh ............................................................................................................................73
Hình 3.21. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số tim của .....75
Hình 3.22. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm thu của
học sinh .....................................................................................................................76


Hình 3.23. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm trương
của học sinh ...............................................................................................................77
Hình 3.24. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với tần số hô hấp của học sinh
...................................................................................................................................78
Hình 3.25. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với dung tích sống.................79
Hình 3.26. Biểu đồ tương quan giữa cân nặng với tần số hô hấp của học sinh ........81
Hình 3.27. Biểu đồ tương quan giữ cân nặng với dung tích sống của học sinh .......82
Hình 3.28. Biểu đồ tương quan giữa cân nặng với thể tích khí thở ra tối đa trong giây
đầu .............................................................................................................................83
Hình 3.29. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số hô hấp của
học sinh .....................................................................................................................84
Hình 3.30. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường và dung tích sống của
học sinh .....................................................................................................................85

Hình 3.31. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường và thể tích khí thở ra tối
đa trong giây đầu của học sinh ..................................................................................86


MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài
Theo bản đồ chiều cao người dân của các nước trên thế giới thì Việt Nam nằm
trong số các nước có chiều cao trung bình thấp nhất trên thế giới, đây là thực trạng
đáng lo ngại vì sự hạn chế về chiều cao là một bất lợi kéo theo sự hạn chế cơ hội phát
triển của từng cá nhân cũng như của cả quốc gia trong các đấu trường quốc tế. Theo
kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy chiều cao trung bình của
nam thanh niên 22÷26 tuổi ở Việt Nam là 1,644 m, ở nữ giới là 1,534 m, thấp hơn so
với chuẩn chiều cao của WHO tương ứng là 12,4 cm và 10,3 cm. Nếu xếp hạng trong
khu vực châu Á thì chiều cao của thanh niên Việt Nam ngang với Indonesia,
Philippines nhưng thấp hơn nhiều so với Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc...
Còn thanh niên các nước châu Âu, châu Mỹ và Australia cao hơn nhiều so với các
nước châu Á nói chung và nước ta nói riêng. Những con số này không chỉ phản ánh
chiều cao của người Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ thế giới, mà nó còn ảnh hưởng
đến thể lực, trí lực, tâm lý của cả một quốc gia.
Tuy nhiên chúng ta đã đạt được những con số khả quan. Từ năm 1975 đến
2000, chiều cao nam thanh niên tăng chậm, trung bình 1,1 cm mỗi thập kỷ. Nhưng từ
năm 2000 đến nay chiều cao nam đã tăng thêm 2,1 cm, nữ tăng thêm 1 cm. Đây được
coi là mức tăng nhanh khi so với các quốc gia khác trên thế giới. Chính vì vậy, cần
phải tiếp tục nghiên cứu và đánh giá các đặc điểm sinh học cơ bản của người Việt
Nam ở mọi lứa tuổi để có sự can thiệp kịp thời và phù hợp đối với những yếu tố liên
quan, hướng tới mục đích phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam. Đặc biệt là ở
lứa tuổi vị thành niên, là lứa tuổi có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất, các chức năng
sinh lý.
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ số hình thái và chức

năng sinh lý của học sinh Việt Nam. Các công trình nghiên cứu cho thấy, sự khác
nhau của các chỉ số sinh học phụ thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, lứa tuổi, giới
tính, điều kiện sống, thời điểm nghiên cứu,… do vậy, các nghiên cứu về chỉ số sinh

1


học cần được tiến hành thường xuyên. Cụ thể tại Hà Nội, đã có một số các công trình
nghiên cứu về chỉ số hình thái – thể lực và chỉ số chức năng sinh lý của học sinh, tuy
nhiên các nghiên cứu về học sinh học tập tại các trường tư thục còn ít. Xuất phát từ
thực tế trên, đề tài “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh Trường Trung
học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu, Hà Nội” được thực hiện.
Mục tiêu nghiên cứu:
- Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số sinh học qua các lớp tuổi và giới tính của
học sinh Trường THCS & THPT Nguyễn Siêu.
- Xác định mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái (chiều cao, cân nặng
và vòng ngực bình thường) và các chỉ số sinh lý (tần số tim, huyết áp, tần số hô hấp,
dung tích sống và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu).

2


Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Một số vấn đề về chỉ số hình thái
1.1.1. Nghiên cứu các chỉ số hình thái trên thế giới
Từ rất sớm, thế kỷ XIII Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để
đánh giá thể lực. Sau này, vào thế kỷ XV - XVI, các nhà giải phẫu học kiêm họa sĩ
như Leonard de Vinci, Mikenlangielo, Raphael… đã tìm hiểu chi tiết cấu trúc và mối

tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể người trong những tác phẩm hội họa. Các
nhà nhân trắc học Ludman, Nold và Volanski đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hình
thái với môi trường sống từ tương đối sớm [17]. Cho đến Rudolf Martin, người đã
đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại qua hai tác phẩm là “Giáo trình về nhân trắc
học" năm 1919 và "Kim chỉ nam đo đạc và xử lý thống kê" năm 1924, ông đã đưa ra
những phương pháp và dụng cụ đo đạc kích thước của cơ thể mà đến nay vẫn được
sử dụng [18].
Trong những năm 60 của thể kỷ XX có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu và mang lại thành tựu to lớn đối với ngành khoa học này. Năm 1961, hai công
trình nghiên cứu lớn là “Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý đến sự tăng trưởng
về chiều cao cơ thể” và chứng minh rõ những yếu tố ảnh hưởng đó có thật của Nold
và Volsuski; “Đề tài nghiên cứu thu thập số liệu và chứng minh tình trạng dinh dưỡng,
bệnh tật ảnh hưởng rõ rệt tới sự gia tăng của các kích thước cơ thể, đặc biệt là chiều
cao và cân nặng” của Graef và Cone. Một năm sau đó, vấn đề nhân trắc học còn được
thể hiện qua các công trình của P.N. Baskirov – “Nhân trắc học” năm 1962, ông đưa
ra quy luật phát triển của cơ thể người dưới ảnh hưởng của điều kiện sống. Cùng năm
đó, Baskirop đưa ra “Học thuyết về sự phát triển thể lực con người” [22]. Đến năm
1964, các quy luật phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi và nghề nghiệp được nhận
xét toàn diện trong cuốn “Nhân trắc học” của Evan Dervael. Ngoài ra, có một số công
trình của Bunak và A.M. Uruxon. Và hoàn chỉnh hơn với các công trình của X.

3


Galperon, Tomiewicz, Tarasov, Tomner, M. Sempé, G. Pédron, M.P. Rog-Perno
[theo 22]. Kết quả của các nghiên cứu đã chỉ rõ có sự liên quan giữa các yếu tố môi
trường đến sự phát triển thể lực của con người qua các lứa tuổi khác nhau.
Một hướng khác, nghiên cứu cắt ngang đi sâu trong quá trình nghiên cứu sự
tăng trưởng về mặt hình thái, đó là nghiên cứu sự tăng trưởng của cơ thể và các đại
lượng có thể đo lường được bằng kỹ thuật nhân trắc [47]. Vào năm 1754, công trình

đầu tiên trên thế giới của Christian Fridrich Jumpert cho thấy sự trưởng thành một
cách hoàn chỉnh ở các lớp tuổi từ 1-25 với phương pháp cắt ngang (cross-sectional
study) [47].
Cũng trong khoảng thời gian này, Philibert Guéneau de Montbeilard thực hiện
nghiên cứu dọc (longitudinal study) đầu tiên về chiều cao từ năm 1759 đến năm 1777
[theo 22]. Sau đó có nhiều công trình khác của Edwin Chadwick ở Anh, Carlschule
ở Đức, H.P. Bowditch ở Mỹ, Paul Godin ở Pháp [theo 22]. Những nghiên cứu này
cho thấy có mối liên quan giữa các chỉ số hình thái với các yếu tố môi trường sống là
tương đối chặt chẽ. Đến năm 1977, Hiệp hội các nhà tăng trưởng học đã được thành
lập, đánh dấu một bước phát triển mới của việc nghiên cứu vấn đề này trên thế giới
[theo 22]. Năm 2007, WHO công bố chuẩn tăng trưởng của trẻ em học đường và
người trưởng thành, đây là một cột mốc quan trọng cho các nghiên cứu ứng dụng các
chỉ số hình thái để đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phát triển thể lực của con người
[68].
1.1.2. Nghiên cứu các chỉ số hình thái ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chỉ số hình thái xuất hiện muộn hơn so với
các nước trên thế giới. Nghiên cứu đầu tiên về nhân trắc ở Việt Nam được thực hiện
vào năm 1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em [theo 22]. Đến những năm 30 của
thế kỷ XX, nhân trắc học bắt đầu được nghiên cứu tại Ban nhân trắc học thuộc Viện
Viễn đông Bác cổ. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trong công trình nghiên cứu
của Viện giải phẫu học, Đại học Y khoa Đông Dương 1936 – 1944, tác phẩm “Những
đặc điểm nhân chủng và sinh học của người Đông Dương” của P. Huard, A. Bigot
(1938). Cuốn “Hình thái học Người và giải phẫu thẩm mỹ học” năm 1943 của P.

4


Huard và Đỗ Xuân Hợp là công trình đầu tiên nghiên cứu về hình thái người Việt
Nam [theo 22].
Từ năm 1975 đến nay, việc nghiên cứu hình thái học được đẩy mạnh và chuyên

môn hóa qua việc thành lập bộ môn hình thái học ở một số trường đại học và viện
nghiên cứu, ngoài ra còn tổ chức các hội nghị về lĩnh vực này, trong đó có nhiều
chương trình cấp Quốc gia và địa phương được thực hiện. Vào năm 1975, Nguyễn
Tấn Gi Trọng chủ biên “Hằng số sinh học người Việt Nam” với đầy đủ các thông số
về hình thái người Việt Nam ở mọi lứa tuổi tại khu vực miền Bắc, đây thực sự là cơ
sở tin cậy cho các nghiên cứu về người Việt Nam sau này [49]. Những năm 1975 và
1976, Nguyễn Quang Quyền và Lê Gia Vinh đã tiến hành nghiên cứu tầm vóc của
2100 người lứa tuổi từ 16 đến 70 theo những kỹ thuật và phương pháp tiêu chuẩn
trong nhân trắc học, các tác giả đã nhận định các biểu hiện của tuổi dậy thì và quy
luật tăng trưởng ở nữ dậy thì sớm hơn ở nam giới [37], [38], [39].
Từ năm 1981 đến năm 1992, Thẩm Thị Hoàng Điệp đã nghiên cứu dọc trên
101 học sinh Hà Nội từ 6 - 17 tuổi, với 31 chỉ tiêu được nghiên cứu, tác giả đã kết
luận: chiều cao của học sinh phát triển mạnh nhất với nữ 11 - 12 tuổi và ở nam 13 15 tuổi, còn cân nặng phát triển mạnh nhất với nữ 13 tuổi và nam 15 tuổi [12]. Năm
1991, công trình “Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động” do
Võ Hưng chủ biên với các thông số được thực hiện trên cả nước [23]. Cùng năm đó,
Đào Huy Khuê đã nghiên cứu 36 chỉ tiêu kích thước về sự tăng trưởng và phát triển
cơ thể của 1478 học sinh từ 6-17 tuổi ở Hà Đông, tỉnh Hà Sơn Bình cho thấy, hầu hết
các chỉ số sinh học đều tăng dần theo tuổi nhưng nhịp độ tăng trưởng không đều: tốc
độ tăng trưởng lớn nhất ở nam thường ở lứa tuổi 14 – 16 và của nữ ở lứa tuổi 11 – 15
[26].
Năm 1993, Đoàn Yên và cộng sự trong nghiên cứu của mình đã đưa ra nhận
xét về chiều cao đứng, cân nặng trung bình của người Việt Nam nhỏ hơn so với người
Âu, Mĩ ở mọi lứa tuổi, nhịp độ tăng trưởng chậm. Nữ bước vào thời kì tăng trưởng
và ổn định sớm hơn nam, ở nữ tăng trưởng nhảy vọt về chiều cao xuất hiện lúc 12 13 tuổi, trong khi đó ở nam là 13 - 16 tuổi; Nhảy vọt cân nặng ở nữ lúc 13 tuổi, còn

5


ở nam là lúc 15 tuổi [52]. Cũng trong năm này, Nghiêm Xuân Thăng đã tiến hành
nghiên cứu 17 chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng vòng ngực… của người Việt

Nam từ 1 đến 25 tuổi ở một số vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, tác giả đưa ra nhận định các
kích thước của nam đều lớn hơn của nữ ở tất cả các độ tuổi và sự phát triểu chiều cao
ở các độ tuổi ở cư dân vùng Nghệ Tĩnh thấp hơn so với cư dân vùng đồng bằng Bắc
Bộ [48]. Từ năm 1993 - 1997, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cộng sự [8] đã nghiên
cứu trên 13747 học sinh từ 8 đến 14 tuổi tại một số tỉnh thành Hà Nội, Vĩnh Phúc,
Thái Bình và nhận thấy sự phát triển chiều cao của trẻ 6 - 16 tuổi tốt hơn so với số
liệu trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” [49].
Đến năm 1996, Nguyễn Hữu Chỉnh và cộng sự đã nghiên cứu thấy rằng dân
cư ở Kiến An có các chỉ số nhân trắc tốt hơn so với các dẫn liệu trong “Hằng số sinh
học người Việt Nam”. Các chỉ số nhân trắc của nữ phát triển nhanh hơn của nam ở
thời điểm 10 -11 tuổi, nhưng từ 14 đến 15 tuổi, các kích thước này của nam bắt kịp
và vượt trội hơn so với nữ. Ngoài ra, sự khác biệt về mặt chủng tộc, điều kiện sống
và quá trình rèn luyện thân thể là những yếu tố tác động đến thể lực của thanh niên
[3]. Trong khi đó, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cộng sự nghiên cứu về sự phát triển chiều
cao đứng, vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến 55 tuổi ở 8 tỉnh thành
thuộc 3 miền đất nước, trong đó nhóm tác giả thấy rằng chiều cao ở nam tăng nhanh
đến 18 tuổi, ở nữ tăng nhanh đến 14 tuổi, ngoài ra các tác giả đã cho thấy có sự liên
quan khác nhau giữa các đặc điểm hình thái với môi trường sống của cư dân tại các
vùng miền khác nhau [13]. Nhóm tác giả A. Goran, Nguyễn Công Khanh và cộng sự
nghiên cứu trên học sinh Hà Nội về chiều cao, cân nặng, BMI cho thấy cả 3 chỉ số
này đều tăng theo tuổi [15]. Điều này cũng thể hiện trong các nghiên cứu khác [1],
[25], [30].
Năm 1998, Nguyễn Kỳ Anh và cs sau khi so sánh các kết quả nghiên cứu của
mình với một số tác giả khác đã đưa ra nhận xét rằng thanh niên Việt Nam lứa tuổi
14 - 18 ở nữ và 16 - 18 ở nam lớn chậm hơn so với các lứa tuổi trước đó [1]. Cùng
thời điểm này, Nguyễn Quang Mai và cs đã nghiên cứu trên nữ sinh các dân tộc ít
người cho thấy, chiều cao và cân nặng trung bình của nữ sinh các dân tộc thiểu số

6



tăng dần theo tuổi. Thời điểm tăng nhanh chiều cao và cân nặng trung bình của nữ
sinh dân tộc thiểu số đến sớm hơn so với dẫn liệu trong cuốn “Hằng số sinh học người
Việt Nam” [33], nhưng muộn hơn so với học sinh Thái Bình và Hà Nội từ 1 đến 2
năm. Trong khi đó, nhóm tác giả Trần Đình Long, Lê Nam Trà, Nguyễn Văn Tường
và cs nghiên cứu trên học sinh ở thị xã Thái Bình thấy rằng, chiều cao đứng, cân nặng
của học sinh thị xã Thái Bình lớn hơn so với số liệu trong “Hằng số sinh học người
Việt Nam”, nhưng thấp hơn so với học sinh quận Hoàn Kiếm [31]. Cùng năm này,
Tạ Thúy Lan, Đàm Phượng Sào đã đưa ra kết quả nghiên cứu sự phát triển thể lực
của học sinh từ 6 – 14 tuổi ở Vân Canh, Hà Tây cho thấy, chiều cao của học sinh tăng
dần từ 6 – 14 tuổi [27].
Năm 2000, Đào Mai Luyến thực hiện nghiên cứu các chỉ số hình thái - thể lực
của người Ê đê và người Kinh định cư ở Đăk Lăk cho thấy các chỉ số hình thái của
người Ê đê tốt hơn của người Kinh. Tác giả cho rằng, đây là điểm khác biệt mang
tính dân tộc và do môi trường sống có ảnh hưởng nhất định tới khả năng tăng trưởng
các chỉ số hình thái [32]. Năm 2001, Đoàn Văn Huyền và cs cũng cho rằng, giữa cơ
thể và môi trường có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Môi trường sống ảnh hưởng
đến trao đổi chất và điều hoà thân nhiệt nên ảnh hưởng đến các chỉ số hình thái của
cá thể [24]. Ngoài ra, theo Nguyễn Văn Mùi, sự rèn luyện thể lực cũng tác động đến
chiều cao, cân nặng và kích thước một số vòng của cơ thể [34]. Các yếu tố xã hội
cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, đặc biệt là ở tuổi dậy thì.
Từ năm 1999 – 2002, Trần Thị Loan đã nghiên cứu trên học sinh 6 đến 17
tuổi tại Hà Nội nhận thấy rằng, các chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng, vòng
ngực của học sinh lớn hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác từ thập kỷ
80 trở về trước và lớn hơn so với học sinh ở các tỉnh Thái Bình, Hà Tây, ngoại thành
Hải Phòng. Điều này chứng tỏ, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến các chỉ số hình thái
của học sinh [29].
Một trong những nghiên cứu tổng thể trên diện rộng mới ở thập niên cuối của
thế kỷ 20 là dự án “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 thế
kỷ XX” của do trường Đại học Y Hà Nội và Bộ Y tế thực hiện trên 3 miền cả nước


7


bao gồm nông thôn, thành thị, miền núi và đồng bằng đã cho kết quả về các chỉ số
nhân trắc chịu ảnh hưởng của môi trường sống [2].
Năm 2006, trung tâm Tâm lý học và sinh lý lứa tuổi thuộc Viện Chiến lược và
Chương trình giáo dục [51] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản về sinh lý và
tâm lý của học sinh phổ thông lứa tuổi từ 8 ÷ 20. Kết quả nghiên cứu chiều cao đứng
ở học sinh nam và nữ ở mọi lứa tuổi 11 ÷ 15 và ở nữ mọi lứa tuổi (trừ 16 và 18) đã
thoát khỏi trạng thái còi cọc. Các số liệu về cân nặng cho thấy sự phân hoá sâu sắc
ngay trong nhóm trẻ cùng độ tuổi, bên cạnh trẻ nhẹ cân đã xuất hiện những trẻ có dấu
hiệu béo phì, đặc biệt là các trẻ ở các thành phố lớn. Có sự tăng trưởng về các giá trị
tuyệt đối trung bình của vòng ngực trong các lứa tuổi. Như vậy là đã có sự chuyển
biến tích cực về mặt hình thể của học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Năm 2009, Đỗ Hồng Cường nghiên cứu các chỉ số chiều cao, cân nặng của
các học sinh THCS ở tỉnh Hoà Bình thuộc các dân tộc Mường, Thái, Kinh, Tày và
Dao. Tác giả nhận thấy, các chỉ số này ở học sinh dân tộc Mường, Thái, Kinh cao
hơn so với học sinh dân tộc Tày, Dao. Tác giả cho rằng, sự vượt trội này liên quan
tới nơi cư trú của các em. Học sinh các dân tộc Mường, Thái, Kinh sống ở vùng đồng
bằng, thành phố và thị trấn, còn đa số học sinh các dân tộc Tày, Dao sống ở các vùng
sâu, vùng xa thuộc huyện Đà Bắc, nơi có các điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển
hơn so với thành phố và đồng bằng [4].
Năm 2012, trong đề tài “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học tuổi dậy thì của
hoc sinh trung học cơ sở Hà Nội và các định hướng giáo dục trong nhà trường” do
Mai Văn Hưng và các cộng sự thực hiện cho thấy, các chỉ số hình thái cơ bản của học
sinh trung học cơ sở Hà Nội thay đổi mạnh trong giai đoạn dậy thì ở cả nam và nữ,
đồng thời sự thay đổi này diễn ra sớm hơn so với các nghiên cứu trước đó [17].
Cũng theo hướng nghiên cứu này, năm 2013, Trần Long Giang và Mai Văn
Hưng nhận thấy, chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực trung bình, BMI của học sinh

dân tộc Kinh đều lớn hơn so với của học sinh dân tộc Dao, H’Mông và có giá trị tốt
hơn so với các giá trị trong “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập
kỷ 90 – thế kỷ XX” và trong nghiên cứu của các tác giả trước đây nghiên cứu một số

8


chỉ số hình thái của học sinh từ 6 đến 17 tuổi tại tỉnh Yên Bái [21]. Cũng trong thời
gian này, Nguyễn Thị Bích Ngọc nghiên cứu chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung
bình, BMI của học sinh từ 11 ÷ 17 tuổi ở tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ thuộc các dân tộc
Kinh, Mường và Sán Dìu. Kết quả cho thấy các chỉ số hình thái học sinh dân tộc Kinh
lớn hơn so với dân tộc Mường và Sán Dìu. Tác giả cho rằng, điều kiện kinh tế và tình
trạng dinh dưỡng của người dân tộc Kinh cao hơn so với người dân tộc Mường và
Sán Dìu nên ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực của mỗi học sinh mỗi dân tộc. Thời
điểm tăng vọt của các chỉ số hình thái ở nữ đến sớm hơn so với nam khoảng 1 đến 2
năm [36].
Năm 2014, Mai Văn Hưng, Trần Văn Thế, Lâm Bá Nam nghiên cứu các chỉ
số nhân trắc người Việt Nam theo vùng sinh thái, các tác giả phân tích ảnh hưởng của
phong tục, tập quán đến các chỉ số nhân trắc học và xác định thực trạng các chỉ số
nhân trắc của người Việt Nam theo từng vùng sinh thái, từ đó tìm hiểu một số quy
luật tăng trưởng các chỉ số nhân trắc đặc trưng cho các vùng sinh thái [22]. Cũng
trong năm này, nghiên cứu hình thái của Trần Thị Thúy đối với học sinh trường THCS
Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội cho thấy kích thước hình thái của học sinh 12 – 15
tuổi đều tăng dần theo tuổi, tốc độ tăng trưởng hằng năm không đều và tăng nhanh
trong giai đoạn dậy thì, trong đó giai đoạn tăng nhanh ở học sinh nữ sớm hơn ở nam
1 năm [44]. Đến năm 2015, Mai Văn Hưng nghiên cứu các chỉ số hình thể của người
Việt Nam và các yếu tố liên quan trong nghiên cứu “Morphological and physical
indexes of Vietnamese people” [67] cho thấy có sự ảnh hưởng của các yếu tố môi
trường, di truyền đến các đặc điểm sinh học hình thể người thuộc các vùng miền và
lứa tuổi khác nhau.

Tóm lại, các nghiên cứu gần đây cho thấy các chỉ số học sinh Việt Nam tăng
lên đáng kể so với số liệu trong các nghiên cứu trước. Đồng thời với đó là tình hình
kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta có nhiều thay đổi tích cực, điều này đã ảnh hưởng
tới tầm vóc của người Việt Nam. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy học sinh thành
thị thường có các chỉ số nhân trắc tốt hơn ở nông thôn [7], [8]. Sự khác biệt này cơ
bản do sự khác nhau về chất lượng cuộc sống giữa các khu vực, địa bàn nghiên cứu.

9


1.2. Một số vấn đề về chỉ số chức năng sinh lý
1.2.1. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý trên thế giới
1.2.1.1.

Nghiên cứu các chỉ số chức năng tuần hoàn

Các chỉ số chức năng tuần hoàn được nghiên cứu thường tập trung vào nhịp
tim và huyết áp. Theo một số tác giả Arshavski và Tur, Waldo và Edmun thì nhịp tim
của trẻ giảm dần theo lứa tuổi, trong đó nhịp tim của trẻ những ngày đầu sau sinh
khoảng 120 ÷ 140 nhịp/phút, ở trẻ đang bú mẹ khoảng 110 ÷ 160 nhịp/phút, ở trẻ
trước tuổi đi học khoảng 85 ÷ 100 nhịp/phút, ở học sinh khoảng 70 ÷ 74 nhịp/phút.
Các tác giả này cho rằng sự giảm nhịp tim trong quá trình phát triển của trẻ do sự
thay đổi mức chuyển hóa và giảm tính hưng phấn ở nút xoang cũng như do tăng ảnh
hưởng trương lực của dây thần kinh X lên tim [5].
Nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu huyết áp động mạch từ thế kỉ 19 [62],
[63], [65], [66]. Korotkow đã xác định huyết áp động mạch bằng phương pháp đo
gián tiếp, phương pháp này vẫn đang được phổ biến hiện nay [19].
Nhiều công trình cho thấy có sự biến đổi huyết áp theo các giai đoạn khác
nhau trong quá trình phát triển của trẻ. Trong đó, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm
trương của trẻ tăng dần theo lứa tuổi, tuy nhiên tăng không đều. Thời điểm huyết áp

tăng nhanh ở nữ là 9 ÷ 12 tuổi, ở nam là 9, 12 và 13 tuổi [5]. Một số tác giả cho thấy
có sự khác biệt về huyết áp theo giới tính trong quá trình phát triển, trong đó huyết
áp động mạch của trẻ nam luôn cao hơn so với trẻ nữ. Các tác giả còn cho biết có sự
khác biệt về huyết áp động mạch của trẻ sống ở những vùng miền khác nhau. Chỉ số
này phụ thuộc vào điều kiện sống và thể lực của từng người. Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu của nhiều tác giả cho thấy huyết áp của nam thường cao hơn nữ và huyết áp còn
chịu ảnh hưởng của môi trường con người đang sinh sống [19].
1.2.1.2.

Nghiên cứu các chỉ số chức năng hô hấp

Trong nghiên cứu các chức năng hô hấp, các tác giả thường sử dụng thông số
như thể tích, dung tích và lưu lượng thở để đánh giá chức năng thông khí phổi. Các

10


chỉ số này thay đổi qua các giai đoạn phát triển của cơ thể và phụ thuộc vào môi
trường sống.
Sự ra đời của máy hô hấp kế (sprometer) do Hutchinson thiết kế năm 1846 đã
đặt nền móng cho việc xét nghiệm chức năng phổi. Tuy nhiên đến đầu thập kỷ 80 của
thế kỷ trước, việc nghiên chức năng phổi đã có những bước thay đổi về chất [55],
[56], [59], [60]. Giữa thế kỉ 20, có hàng loạt máy đo thể tích phổi ra đời đã cho phép
ghi và tính chính xác các thể tích, dung tích và lưu lượng khí trong thông khí phổi.
Điều này được thể hiện trong các nghiên cứu của các tác giả Bernstein, Camphell và
Cotes [54], [56], [58]. Các chỉ số VC, FVC, FEV1, chỉ số Tiffeneau và các phương
trình hồi quy số đối chiếu của chúng đều được thống nhất và được sử dụng cho đến
ngày nay bằng việc xuất bản toàn văn bộ “Tiêu chuẩn xét nghiệm chức năng phổi”
vào năm 1983 do Cộng đồng than thép Châu Âu đề xuất và được Tổ chức Y tế thế
giới ủng hộ [64].

Các nghiên cứu về chỉ số chức năng phổi cho thấy dung tích sống của trẻ em
phụ thuộc vào sự phát triển của phổi, dung tích sống của trẻ tăng nhanh ở thời kỳ dậy
thì. Thể tích khí lưu thông ở trẻ 11 ÷ 12 tuổi khoảng 280 – 350 ml, ở trẻ 12 ÷ 14 tuổi
khoảng 300 – 460 ml, ở trẻ 15 ÷ 16 tuổi khoảng 300 – 560 ml [57], [58], [64].
Theo đó, một số tác giải cho rằng dung tích sống ở trẻ em tăng mạnh vào thời
kì dậy thì [52]. Dung tích sống khác nhau giữa hai giới tính và chỉ số này ở nam luôn
cao hơn nữ.
1.2.2. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý ở Việt Nam
1.2.2.1. Nghiên cứu các chỉ số chức năng tuần hoàn
Các chỉ số chức năng của tim mạch người Việt Nam được nhiều tác giả Việt
Nam nghiên cứu từ rất sớm và liên tục trong nhiều năm cùng các nghiên cứu về hình
thái. Trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” [49], các nhà khoa học đã cho
thấy huyết áp động mạch thay đổi theo lứa tuổi từ 11 – 17 tuổi. Công trình cũng nhận
thấy một số yếu tố làm thay đổi huyết áp như vị trí đo, tư thế đo, thời điểm đo và giới
tính. Các tác giả cũng tiến hành đếm mạch cổ tay, ở cổ hoặc nghe tim trong 1 phút và

11


tính trung bình trong cả cộng đồng các đối tượng nghiên cứu và cho thấy tần số tim
ở nam trưởng thành là 70 - 80 lần/phút và ở nữ trưởng thành là 75 - 85 lần/phút. Tuy
nhiên, sau hai hội nghị vào năm 1967 và 1972, các chỉ số này mới được nghiên cứu
đầy đủ và mở rộng trên dân cư ở mọi miền đất nước [2], [4].
Trịnh Bỉnh Dy nghiên cứu về huyết áp động mạch trên người Việt Nam và
trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học người Việt Nam” cho thấy, huyết
áp của người Việt Nam không những thấp mà còn tăng chậm theo tuổi [9]. Theo tác
giả Phạm Thị Minh Đức huyết áp tối đa bình thường có trị số là 90 - 110 mmHg,
huyết áp tối thiểu bình thường có trị số là từ 50 - 70 mmHg [14].
Năm 1993, Đoàn Yên và cộng sự đã nghiên cứu tần số tim và huyết áp của
người Việt Nam, nhận thấy từ sau khi sinh, tần số tim và huyết áp động mạch biến

đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng đến 18 tuổi, sau đó ổn định đến 49
tuổi rồi lại tăng dần, còn tần số tim lại giảm dần cho đến 25 tuổi, sau đó ổn định đến
69 tuổi. Thời điểm kết thúc tăng huyết áp tâm trương ở nam lúc 14 tuổi, ở nữ là 15
tuổi. Trẻ em từ 12 tuổi là mốc bắt đầu thể hiện sự phân biệt về giới tính, trong đó tần
số tim ở nữ lớn hơn đối với nam. Huyết áp động mạch trên người Việt Nam ở mọi
lứa tuổi đều thấp hơn so với người Âu, Mỹ [52]. Cũng trong năm này, Nghiêm Xuân
Thăng đã nghiên cứu mối tương quan giữa hoạt động tim mạch và huyết áp với khí
hậu của cư dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ở hai nhóm tuổi 12 ÷ 15 và 18 ÷ 25. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tần số tim và huyết áp ở mọi lứa tuổi đều chịu ảnh hưởng của
khí hậu [43]. Tần số tim tăng theo sự tăng nhiệt độ môi trường và biến đổi theo ngày,
theo mùa, theo mức độ bức xạ. Trong một ngày, tần số tim tăng dần từ sáng đến trưa,
cao nhất lúc12-14 giờ, sau đó giảm dần và thấp nhất lúc 22-24 giờ. Cùng một thời
điểm, tần số tim về mùa hè thường cao hơn mùa đông. Ngoài ra, tần số tim còn bị chi
phối bởi các yếu tố như lao động và trạng thái tâm lý.
Trần Đỗ Trinh và cộng sự [48] đã tiến hành nghiên cứu trị số huyết áp người
Việt Nam tại 20 tỉnh thuộc 7 vùng địa lý trong cả nước từ lứa tuổi 15 trở lên và công
bố trong chương trình nghiên cứu một số chỉ số sinh học người Việt Nam thập kỷ 90.
Kết quả cho thấy, trị số huyết áp tăng dần theo tuổi ở cả nam và nữ, mức tăng chậm

12


nhất ở nhóm tuổi từ 15 ÷ 19. Huyết áp ở nam giới cao hơn so với ở nữ giới, dù chênh
lệch trung bình của hai giới không nhiều, nhưng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Năm 1998, Nguyễn Văn Mùi nghiên cứu trên đối tượng trẻ em từ 7 ÷ 15 tuổi
cho thấy, tần số tim của học sinh giảm dần theo tuổi còn huyết áp tâm thu và tâm
trương tăng dần theo tuổi. Tần số mạch của nam cao hơn so với của nữ ở lứa tuổi từ
7 ÷ 12, còn từ 13 ÷ 15 tuổi không có sự khác biệt giữa nam và nữ về chỉ số này. Huyết
áp tâm thu của nam từ 7 ÷ 9 tuổi cao hơn so với của nữ. Từ 10 ÷ 15 tuổi không có sự
khác biệt chỉ số này theo giới tính. Huyết áp tâm trương của các em nam từ 7 ÷ 13

tuổi cũng lớn hơn so với của nữ [35].
Năm 2002, nghiên cứu của Trần Thị Loan cho thấy ở lớp tuổi học sinh phổ
thông tần số tim giảm dần theo lớp tuổi, sự biến đổi tần số tim của nam và nữ khác
nhau. Huyết áp ở trẻ tăng dần từ 6 ÷ 17 tuổi và không có sự khác biệt về chỉ số huyết
áp so với các tác giả khác [28].
Năm 2006, Trần Trọng Thuỷ và cộng sự [45] đã tiến hành nghiên cứu huyết
áp tối đa và huyết áp tối thiểu của học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi. Các tác giả
nhận thấy huyết áp động mạch của học sinh tăng dần theo tuổi và cả hai chỉ số huyết
áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở học sinh nông thôn đều cao hơn so với học sinh
thành phố nhưng vẫn thấp hơn so với chuẩn về huyết áp theo độ tuổi của tổ chức Y
tế thế giới.
Đến năm 2009, Đỗ Hồng Cường đưa ra kết luận tần số tim của học sinh THCS
các dân tộc Kinh, Mường, Thái và Tày đều giảm dần theo tuổi. Huyết áp động mạch
tăng dần theo tuổi và huyết áp động mạch của nữ cao hơn của nam [5].
Năm 2011, Hoàng Thu Soan đã cho thấy huyết áp tâm thu của học sinh dân
tộc Kinh ở thành phố và miền núi, dân tộc Nùng ở miền núi Thái Nguyên đều tăng
dần theo tuổi. Trong cùng khu vực miền núi, đa số các học sinh có chỉ số tương tự
nhau. Sự khác biệt về huyết áp tâm trương giữa học sinh thành phố và miền núi, giữa
nam và nữ không có quy luật [41].
Năm 2013, Nguyễn Thị Bích Ngọc nghiên cứu tần số tim và huyết áp ở học
sinh lứa tuối 11 ÷ 17 ở các dân tộc Kinh, Mường và Sán Dìu tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ.

13


Kết quả nghiên cứu cho thấy tần số tim của học sinh giảm dần từ 11 ÷ 17 tuổi, huyết
áp tăng dần theo tuổi nhưng tốc độ tăng không đều. Huyết áp động mạch giữa các
dân tộc không khác nhau đáng kể [36].
1.2.2.2. Nghiên cứu các chỉ số chức năng hô hấp
Ở Việt Nam, các tác giả nghiên cứu về các chỉ số chức năng hô hấp thường

quan tâm đến các thông số thông khí phổi như dung tích ống, khí lưu thông, dung tích
sống thở mạnh, dung tích khí thở ra tối đa trong giây đầu... Nhiều nhà nghiên cứu sử
dụng số đối chiếu để đánh giá chức năng phổi trong các bệnh liên quan đến phổi và
nghiên cứu sự biến đổi của các thông số về thông khí phổi trong các quá trình bệnh
lý khác nhau.
Đầu tiên là các nghiên cứu về dung tích sống, sau đó là các chỉ số khác. Năm
1967, các nghiên cứu được tập hợp lại và công bố trong hội nghị “Hằng số
sinh học người Việt Nam” với chỉ số chủ yếu là dung tích sống [49].
Năm 1975, cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” đã đưa ra 19 chỉ số liên
quan đến đặc điểm sinh lí hô hấp, trong đó dung tích sống đã được các tác giả
nghiên cứu theo giới tính, theo lứa tuổi và theo chiều cao. Tài liệu này cũng cho thấy,
dung tích sống của trẻ em phụ thuộc vào chiều cao và dung tích sống của trẻ em nam
luôn cao hơn trẻ em nữ ở các lứa tuổi [49].
Đến năm 1982, Trịnh Bỉnh Dy, Đỗ Đình Hồ, Phạm Khuê, Nguyễn Quang
Quyền và Lê Thanh Uyên cho rằng người Việt nam có chỉ số phổi cao, đó là số ml
dung tích sống quy về 1 kg cân nặng [9].
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng nhận thấy, dung tích sống chịu ảnh hưởng
của khí hậu, đạt giá trị cao nhất ở nhiệt độ 30 - 32°C và độ ẩm không khí khoảng 70
- 80%, dung tích sống của nam luôn cao hơn của nữ [43]. Cũng năm này, Đoàn Yên
và cs trong nghiên cứu của mình đưa ra nhận xét, dung tích sống tăng nhanh đến 19
tuổi sau đó ổn định ở cả hai giới. So với ngườii châu Âu và châu Mĩ, dung tích sống
của người Việt Nam luôn có giá trị nhỏ hơn [52] .

14


×