Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Vấn đề an ninh mạng trong quan hệ quốc tế thời kỳ cách mạng công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.27 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________

NGUYỄN VĂN KIÊN

VẤN ĐỀ AN NINH MẠNG TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
THỜI KỲ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________

NGUYỄN VĂN KIÊN

VẤN ĐỀ AN NINH MẠNG TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
THỜI KỲ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ
Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. HOÀNG KHẮC NAM

Hà Nội - 2018



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................... 1
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ....................................................................... 1
2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 4
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 7
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ AN NINH MẠNG VÀ CUỘC CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ................................................... 8
1.1. Tổng quan về không gian mạng và an ninh mạng ............................... 8
1.1.1. Khái niệm không gian mạng ................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm an ninh mạng ..................................................................... 12
1.1.3. Những cơ hội và thách thức của không gian mạng ............................. 16
1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp Lần thứ tƣ ........................................... 19
1.2.1. Tổng quan về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư........................ 19
1.2.2. Cơ hội và thách thức........................................................................... 24
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ AN NINH MẠNG TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ 29
2.1. Thực trạng về an ninh mạng ............................................................... 29
2.1.1. Tình hình an ninh mạng trên thế giới và khu vực ................................ 29
2.1.2. Tình hình an ninh mạng của Việt Nam ................................................ 36
2.2. Xung đột quốc tế trong an ninh mạng ................................................ 39
2.2.1. Khái niệm về xung đột quốc tế ............................................................ 39
2.2.2. Sự tác động qua lại giữa xung đột quốc tế và an ninh mạng ............... 40
2.3. Hợp tác quốc tế về an ninh mạng ....................................................... 43
2.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 43
2.3.2. Nội dung và cấp độ hợp tác quốc tế về an ninh mạng ......................... 45



2.4. Kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo đảm an ninh mạng ................... 50
2.4.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ .................................................................... 50
2.4.2. Kinh nghiệm của Liên bang Nga......................................................... 53
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 57
CHƯƠNG 3. VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ AN NINH MẠNG ..................... 58
3.1. Thực trạng và vấn đề........................................................................... 58
3.2. Cơ sở pháp lý và tổ chức ..................................................................... 61
3.2.1. Cơ sở pháp lý của Việt Nam về an ninh mạng..................................... 61
3.2.2. Cơ cấu tổ chức quản lý về an ninh mạng của Việt Nam ...................... 67
3.3. Khuyến nghị ......................................................................................... 69
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 73
KẾT LUẬN................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 76


DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Chủ quyền quốc gia .......................................................................... 10
Hình 2: Lịch sử 4 cuộc cách mạng công nghiệp ........................................... 19
Hình 3: Thống kê hoạt động xảy ra trong 60s trên Internet .......................... 23
Hình 4: Thống kê các dạng tấn công mạng tháng 01 năm 2018 .................... 32
Hình 5: Các bước hoạt động của siêu mã độc Stuxnet .................................. 33
Hình 6: Thống kê mã độc ............................................................................. 34
Hình 7: Thống kê phát hiện Ransomeware theo ngày ................................... 34
Hình 8: Thống kê số lượng mã độc trên thiết bị di động được phát hiện ........... 35


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
* Lý do lựa chọn đề tài

Sau Chiến tranh lạnh, cục diện thế giới có nhiều thay đổi, xu thế hòa bình
hợp tác phát triển mạnh mẽ trong đó có sự góp phần không nhỏ của khoa học công nghệ mà đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông. Chúng ta đang
chứng kiến một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp mà sẽ làm thay đổi cơ
bản cách thức chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Đó là cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (được gọi là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và
lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 2011 tại CHLB Đức). Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết
nối Internet (Internet of Things “IoT”), trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence
“AI”) và các hệ thống kết nối Ineternet (Internet of Systems “IoS”). Công nghệ
thông tin nói chung và mạng Internet nói riêng đã mang lại nhiều cơ hội, lợi
ích, là động lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Chúng đã
và đang chi phối, tác động đến hầu như mọi mặt của đời sống xã hội con người.
Bên cạnh những cơ hội mạng lại, công nghệ thông tin và mạng Internet cũng
mang đến những thách thức không nhỏ đối với xã hội loài người, vấn đề về an
ninh của các quốc gia đang phải đối mặt với thách thức mới từ mối đe dọa về
“tấn công không gian mạng”. Tấn công không gian mạng đã trở thành vấn đề
toàn cầu, mang tính nguy hiểm cao, có sức ảnh hưởng lớn. Tính chất nguy
hiểm không chỉ ảnh hưởng tới đời sống cá nhân của con người, sự tồn tại của
doanh nghiệp, ổn định về mặt chính trị, kinh tế, an ninh của một quốc gia mà
còn có ảnh hưởng đến vấn đề an ninh của toàn cầu.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ cùng
với sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ nhất là công nghệ
thông tin và truyền thông, mạng Internet, đã nảy sinh loại hình tội phạm mới

1


“tội phạm công nghệ cao”. Tội phạm công nghệ cao đã đột nhập, tấn công
vào nhiều mục tiêu trên toàn thế giới, xâm nhập vào hệ thống dữ liệu của
nhiều công ty, tập đoàn, các tổ chức quốc tế, các cơ quan Chính phủ để lừa

đảo, đánh cắp dữ liệu, hồ sơ, tài sản sở hữu trí tuệ, bí mật quốc gia … Thiệt
hại do loại tội phạm này gây ra không chỉ nghiêm trọng về kinh tế mà còn
thách thức đến vấn đề trật tự, an toàn xã hội thậm chí là an ninh quốc gia dân tộc, gây ra những thử thách hết sức nghiệt ngã về năng lực điều hành
của các Chính phủ nhằm giữ vững ổn định kinh tế, chính trị và an ninh xã
hội. Trước nguy cơ này, trên thế giới xuất hiện những khái niệm mới “chạy
đua vũ trang mạng”, “liên minh chống tội phạm mạng”… nhằm giành quyền
chủ động trong “thế giới ảo”. Việc bảo đảm an toàn thông tin mạng của các
quốc gia trên thế giới được quan tâm đặc biệt. Các nước đã xây dựng chiến
lược về an ninh mạng quốc gia, hoàn thiện hành lang pháp lý, thành lập các lực
lượng tác chiến không gian mạng. Đồng thời, các nước đã thúc đẩy hợp tác
chia sẻ kinh nghiệm bảo đảm an ninh mạng, ra tuyên bố chung, tổ chức các
cuộc tập trận chung. Cùng nhau đưa ra các sáng kiến, cam kết nhằm ngăn chặn
mối đe dọa về “tấn công không gian mạng”, mầm mống có thể xảy ra cuộc
“chiến tranh không gian mạng” trong tương lai không xa. Bên cạnh đó, nhiều
diễn đàn khu vực và quốc tế, cơ chế song phương, đa phương, các hiệp định
giữa các nước, các nhóm nước, giữa các châu lục và toàn cầu dần được hình
thành nhằm khắc phục, đối phó và giải quyết tình hình.
Ở Việt Nam, lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông phát triển
mạnh mẽ nhất là trong những năm gần đây. Công nghệ thông tin và truyền
thông được ứng dụng rộng rãi vào mọi mặt đời sống xã hội, góp phần bảo
đảm quốc phòng an ninh của đất nước đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập
quốc tế. Thông tin trên mạng đã trở thành tài sản của mỗi cá nhân, tổ chức và
thậm chí là của quốc gia. Các doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và phát triển
được nếu các thông tin này bị đánh cắp hoặc phá hoại. Cải cách hành chính,

2


chính phủ điện tử, thương mại điện tử và hàng loạt các chương trình lớn của
quốc gia sẽ không thể thực hiện được nếu an toàn thông tin mạng không được

bảo đảm. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tập trung và quan tâm
nhiều đến vấn đề an ninh mạng. Chính phủ đưa ra nhiều chính sách và xây
dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường các biện pháp và
từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý trong công tác an toàn thông tin mạng.
Ngày 19/11/2015, “Luật an toàn thông tin mạng” đã được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII. “Luật
An ninh mạng” cũng đã được Quốc hội khóa XIV thông qua và bắt đầu có
hiệu lực kể từ ngày 01/01/2019, ngoài ra còn nhiều các Nghị định, Chỉ thị và
Quyết định của các cấp quản lý về vấn đề an toàn thông tin và an ninh mạng.
Đây là những cơ sở pháp lý cũng như thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam
trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý về an toàn thông tin nói chung và an
ninh mạng nói riêng.
Chính vì những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Vấn đề an ninh
mạng trong quan hệ quốc tế thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư”
cho luận văn của mình.

* Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ phân tích, đưa ra cái nhìn tổng quan về không gian mạng và cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, làm rõ thực trạng của vấn đề an ninh mạng,
xem xét kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc bảo đảm an ninh
mạng, vấn đề hợp tác quốc tế về an ninh mạng. Ngoài ra, đề tài cũng xem xét
thực trạng sở hạ tầng về công nghệ thông tin, vấn đề an ninh mạng, rà soát hệ
thống cơ sở pháp lý, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam về vấn
đề an ninh mạng. Trên cơ sở đó rút ra bài học và đưa ra một số khuyến nghị
cho Việt Nam trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cũng như việc phân định rõ
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề an ninh mạng phù hợp
với thực trạng của Việt Nam.

3



* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn làm rõ vấn đề về không gian mạng, an ninh
mạng trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những cơ hội và thách
thức. An ninh mạng là vấn đề toàn cầu và có ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế.
Việc nghiên cứu này là sự đóng góp cho nghiên cứu về quan hệ quốc tế.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề xuất việc hoàn thiện hành lang pháp lý và tổ chức
quản lý về an ninh mạng cho Việt Nam.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm về không gian mạng, an ninh mạng và cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Phân tích và làm rõ các nguy cơ và những hậu quả của tấn công mạng đối
với vấn đề an ninh và từ đó là các yêu cầu cần phải bảo đảm an ninh mạng.
- Xem xét kinh nghiệm về an ninh mạng của một số nước trên thế giới.
- Phân tích vai trò của an ninh mạng đối với xung đột và hợp tác quốc tế.
- Hệ thống hóa các cơ sở pháp lý cũng như trình bày về hệ thống các cơ
quan quản lý Nhà nước của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh mạng và từ đó
đưa ra khuyến nghị.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề an ninh mạng ngày càng trở nên hết sức nóng bỏng, các nước
trên thế giới rất quan tâm, coi trọng và đã tập trung xây dựng các chính sách,
chiến lược của mình về an ninh mạng. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu
và nhiều cuốn sách viết về vấn đề an ninh mạng nói chung và chiến tranh
không gian mạng nói riêng.
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có 03 (ba) đề tài nghiên cứu về mối quan hệ
giữa mạng Internet và an toàn thông tin trong quan hệ quốc tế, gồm:
- Luận văn “Vấn đề an ninh thông tin trong quan hệ quốc tế đương đại”
của tác giả Trần Xuân Tiến, Cao học Quan hệ quốc tế khóa 10 Học Viện
Ngoại giao. Tác giả đã nghiên cứu và phân tích các vấn đề về an toàn, an ninh


4


thông tin trong quan hệ quốc tế hoặc hiểu một cách khác là phân tích việc bảo
đảm an toàn thông tin trong các hoạt động hợp tác quốc tế.
- Luận văn “Tác động của Internet đến quan hệ quốc tế” của tác giả
Hoàng Quốc Việt, Cao học Quan hệ quốc tế khóa 11 Học viện Ngoại giao.
Trong luận văn, tác giả mới chỉ tập trung vào nghiên cứu về những tác động
và ảnh hưởng của mạng Internet trong quan hệ quốc tế.
- Luận Văn “Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an toàn mạng của Bộ Thông
tin và Truyền thông từ năm 2009 đến nay” của tác giả Bùi Thanh Hà Cao học
Quan hệ quốc tế khóa 2014 Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
Tác giả đã nghiên cứu, phân tích về hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
an toàn mạng của Bộ Thông tin và Truyền thông nơi tác giả đang công tác.
Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra một cái nhìn tổng quan đối với vấn đề an ninh
mạng, xem xét các cơ sở pháp lý và tổ chức Nhà nước trong việc quản lý an
ninh mạng mặc dù tác giả hiện đang công tác tại Bộ Thông tin Truyền thông,
là cơ quan quản lý Nhà nước và có nhiều liên quan đến an ninh mạng.
Các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu về vai trò và tác động của mạng
Internet, an toàn thông tin đến hoạt động quan hệ quốc tế và vấn đề hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực an toàn mạng ở một đơn vị cụ thể của Việt Nam. Chưa
có đề tài nào nghiên cứu tổng quan về vấn đề an ninh mạng nhất là trong thời
kỳ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển hết sức mạnh
mẽ và ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội và trên phạm vi toàn cầu. Chưa
có nghiên cứu tổng quan nào về vấn đề quan hệ quốc tế đối với lĩnh vực an
ninh mạng, xem xét chính sách an ninh mạng của các nước trên thế giới. Chưa
có nghiên cứu nào hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam về vấn đề an ninh mạng để đề xuất cho Chính phủ Việt Nam trong việc
hoàn chỉnh hệ thống văn bản quản lý và công cụ để điều hành mạng công
nghệ thông tin quốc gia được an toàn.

Chủ tịch nước Trần Đại Quang khi còn là Bộ trưởng Bộ Công an (2015)
đã ra mắt cuốn sách lưu hành nội bộ “Không gian mạng - Tương lai và hành

5


động”. Đây là cuốn sách thể hiện tư duy và tầm nhìn chiến lược của ông đối
với công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình hình
mới. Trong cuốn sách đã phân tích và đưa ra nhiều thách thức về tình báo,
gián điệp và an ninh mạng buộc chúng ta phải có nhận thức đầy đủ, toàn diện
và sâu sắc hơn về không gian mạng. Đặc biệt, cuốn sách đã luận giải về lãnh
thổ không gian mạng, chủ quyền không gian mạng, cửa khẩu và biên phòng
không gian mạng. Cuốn sách chỉ ra thách thức mang tính toàn cầu, như nguy
cơ hình thành “xã hội ảo trong xã hội thực, nhà nước ảo trong nhà nước thực”,
hay sự phát triển vượt khỏi tầm kiểm soát của các trí tuệ nhân tạo. Từ đó đưa
ra gợi ý về những hành động cần thực hiện ngay hôm nay, để xây dựng năng
lực làm chủ và bảo vệ không gian mạng.
Ngoài ra, cũng đã có một số tạp chí chuyên ngành như “Tạp chí an toàn
thông tin”…, bài báo và một số bài viết tại các hội thảo về vấn đề này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề an
ninh mạng trong quan hệ quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung, luận văn nghiên cứu về không gian
mạng bao gồm mạng công nghệ thông tin và truyền thông, mạng Internet hiện
đang rất phổ biến trên phạm vi toàn cầu và an ninh mạng đang là vấn đề hết
sức cấp thiết hiện nay. Vấn đề an ninh mạng trong quan hệ quốc tế, luận văn
nghiên cứu về xung đột quốc tế, hợp tác song phương và hợp tác đa phương.
Về chính sách an ninh mạng, luận văn xem xét kinh nghiệm của một số nước
trong việc xây dựng chiến lược về an ninh mạng như Hoa Kỳ, Liên bang Nga.
Bên cạnh đó, luận văn xem xét cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cũng như sơ

sở pháp lý của Việt Nam trong vấn đề an ninh mạng.
- Phạm vi thời gian: Vấn đề an ninh mạng được đặt ra từ ngày đầu khi
mới xuất hiện mạng Internet. Tuy nhiên, càng ngày mức độ ảnh hưởng của nó
càng lớn đối với mọi mặt đời sống xã hội, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc
gia nhất là trong thời đại của kỷ nguyên số hiện nay. Nhằm giới hạn về thời
gian cho nghiên cứu, tác giả lựa chọn thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ

6


tư (lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại CHLB Đức
vào năm 2011) cho thời gian nghiên cứu của mình. Như vậy có thể xem từ
năm 2011 là mốc thời gian bắt đầu để nghiên cứu của tác giả. Mốc kết thúc là
thời điểm hiện nay năm 2018 khi hoàn thành luận văn này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Về phương pháp nghiên cứu chung: Luận văn sử dụng cấp độ phân tích
(trong nước và hệ thống quốc tế) phương pháp hệ thống - cấu trúc và phương
pháp phân tích văn bản để làm rõ các đối tượng tham gia vào lĩnh vực không
gian mạng cũng như các ảnh hưởng của nó khi là đối tượng bị tấn công mạng
để từ đó đề xuất việc bổ sung, hoàn chỉnh cơ sở hành lang pháp lý đối với vấn
đề an ninh mạng, hình thành mô hình quốc gia trong việc quản lý, điều hành
về vấn đề an ninh mạng.
- Về phương pháp riêng: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích lợi
ích, phương pháp phân tích chính sách, phương pháp phân tích tác động,
phương pháp phân tích xung đột quốc tế và phương pháp dự báo.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành ba chương, gồm:
* Chƣơng 1: Khái quát an ninh mạng và cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Chương này giới thiệu:

Tổng quan về không gian mạng khái quát về an ninh mạng và cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
* Chƣơng 2: Vấn đề an ninh mạng trong quan hệ quốc tế thế giới.
Chương này trình bày về:
Vấn đề xung đột quốc tế trong an ninh mạng, vấn đề Hợp tác quốc tế
trong an ninh mạng và kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo đảm an ninh mạng
* Chƣơng 3: Việt Nam với vấn đề an ninh mạng, trong đó xem xét về thực
trạng và vấn đề mạng, an toàn thông tin mạng của Việt Nam, cơ sở pháp lý và cơ
cấu tổ chức của cơ quan quản lý Nhà nước, cuối cùng là một số khuyến nghị.

7


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ AN NINH MẠNG VÀ
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƢ
1.1. Tổng quan về không gian mạng và an ninh mạng
1.1.1. Khái niệm không gian mạng
Trong bối cảnh bùng nổ cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, quá
trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa lý giữa các quốc
gia trở nên "mềm” hơn, dễ vượt qua hơn. Công nghệ thông tin được ứng dụng
rộng rãi trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như y tế, giáo dục, du
lịch, kinh tế, an ninh, quốc phòng… việc công nghệ hóa các hoạt động thông
qua không gian mạng đang được triển khai rộng rãi với xu hướng chính phủ
điện tử đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Mạng
công nghệ thông tin đã và đang trở thành một phần không thể thiếu đối với
cuộc sống con người hiện nay, nó đã đem lại nhiều lợi ích và giá trị quan
trọng. Tuy nhiên, không gian mạng luôn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro mất an
toàn cho người dùng, cũng như các đối tượng tham gia hoạt động trong không
gian mạng.

Khái niệm không gian mạng ban đầu được sử dụng trong văn hóa đại
chúng ở các tác phẩm khoa học viễn tưởng. Nhưng sau này khi công nghệ
thông tin phát triển kèm theo các nguy cơ thì nó được chính thức sử dụng
bởi những nhà phát triển mạng viễn thông, các nhà lãnh đạo, những chính trị
gia, những người đứng đầu các tập đoàn lớn,... để mô tả về một môi trường
của các công nghệ thuộc về lĩnh vực điện tử - viễn thông mang tính chất
toàn cầu.
Khái niệm về không gian mạng trở nên phổ biến hơn vào những năm
1990 khi thế giới bắt đầu chứng kiến sự bùng nổ của mạng Internet cũng như

8


sự phát triển vượt bậc của công nghệ bán dẫn, kĩ thuật số, hệ thống điện toán,
thông tin liên lạc và đây cũng chính là thành tựu quan trọng nhất trong thời kỳ
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba.
Năm 2010, lần đầu tiên Hoa Kỳ đã chính thức công nhận không gian
mạng là một lãnh thổ mới, có tầm quan trọng ngang hàng như các lãnh thổ
khác trong chiến tranh như trên bộ, trên không, trên biển và trên vũ trụ. Không
gian mạng là không gian do con người tạo ra hay còn gọi là không gian ảo, đã
và đang trở thành vùng lãnh thổ mới có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của mỗi quốc gia, với các xa lộ
thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn biên giới ngăn cách. Khi tham gia vào
không gian mạng thì mọi thành viên đều thuộc về không gian mạng mà thành
viên đó ở bất kỳ nơi nào trên trái đất. Không gian ảo này là nơi các máy tính
trao đổi dữ liệu, thông tin. Ngoài ra, không gian mạng cũng dùng để chỉ một
mạng lưới toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn
nhau, mạng viễn thông và các hệ thống máy tính.
Như vậy có thể hiểu, không gian mạng là không gian điện từ trường do
con người tạo ra, trong đó việc truyền tải gồm các đầu - cuối, máy tính, thiết

bị mạng và con người. Thông qua đó tiến hành tính toán, thông tin để thực
hiện các hoạt động, bao gồm các hoạt động đặc biệt.
Trong không gian mạng, người, máy, vật liên kết tương tác với nhau có
thể sinh ra các loại thông tin ảnh hưởng tới cuộc sống con người, gồm nội
dung, thương mại, kiểm soát...
Trong không gian mạng, không đặt chủ quyền mạng riêng biệt với chủ
quyền quốc gia, nếu không sẽ ảnh hưởng tới việc tự do lưu chuyển thông tin.
Tự do lưu chuyển thông tin phải tuân thủ theo một trình tự, nó được quyết
định bởi chính sách công của Chính phủ các nước, chứ không phải quyết định
bỏ chủ quyền.

9


Hình 1: Chủ quyền quốc gia
(Nguồn: Cục An toàn thông tin - Bộ Thông tin Truyền thông)
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời
quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia được khẳng định dựa trên 4 yếu tố cơ
bản đó là lãnh thổ, dân số, tài nguyên và chính quyền thì chủ quyền quốc gia
trên không gian mạng cũng bao hàm 4 yếu tố cơ bản tương ứng đó là các hệ
thống thông tin (lãnh thổ), chủ thể các hoạt động trên mạng (dân số), số liệu đối tượng thao tác trên mạng - biểu đạt tín hiệu theo ý đồ mà con người có thể
lý giải được (tài nguyên), quy tắc xử lý truyền số liệu (chính quyền). Và 4
quyền lợi cơ bản của quốc gia là bình đẳng, độc lập, tự vệ và quản trị thì
quyền lợi của không gian mạng cũng gồm: Quyền bình đẳng, quyền độc lập,
quyền tự vệ, quyền quản trị, trong đó:
- Quyền bình đẳng: Các nước có quyền bình đẳng tham dự quản lý mạng
Internet quốc tế.
- Quyền độc lập: Nước khác không được can dự vào việc vận hành hạ
tầng cơ sở thông tin thuộc lãnh thổ nước khác.
- Quyền tự vệ: Nhà nước dùng quyền lực cũng như năng lực quân sự của

mình để bảo vệ không gian mạng của quốc gia không bị xâm phạm.
- Quyền quản trị: Truyền tải số liệu cùng các hoạt động xử lý nó thuộc
quyền tư pháp và quản lý hành chính của quốc gia.

10


Chủ quyền mạng là tồn tại khách quan, không thể thay đổi do ý chí của
con người, mà nó là của quốc gia. Chủ quyền không gian mạng của một quốc
gia được xây dựng trên cơ sở các hệ thống thông tin thuộc quyền quản trị của
quốc gia đó gọi là lãnh thổ mạng, biên giới là nơi tập hợp các thiết bị mạng
của nước đó kết nối trực tiếp với thiết bị mạng của nước khác, bảo vệ các hoạt
động mạng đặc trưng ảo đối với dữ liệu.
Cụ thể là giữa các quốc gia không được xâm phạm vào không gian mạng
của nhau, phải tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền không gian mạng, không can
thiệp vào việc quản lý không gian mạng của nước khác, và chủ quyền quốc
gia về không gian mạng của các nước là bình đẳng trong hoạt động quản lý
không gian mạng quốc tế.
Không gian mạng hình thành từ sự kết hợp của những công nghệ đột phá
như trí tuệ nhân tạo, Internet của vạn vật, máy tính lượng tử, điện toán đám
mây, dữ liệu lớn, dữ liệu nhanh,…đã làm thay đổi thế giới, tác động đến mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, mọi hệ thống sản xuất, quản lý và điều
hành của các quốc gia.
Tuy nhiên, khả năng kết nối vô hạn, không bị giới hạn bởi không gian,
thời gian và bản chất xã hội của không gian mạng đang đặt ra những thách
thức an ninh mang tới toàn cầu như: chiến tranh mạng, khủng bố mạng, tội
phạm mạng, nhiễu loạn thông tin mạng…
Bối cảnh trên đòi hỏi cộng đồng quốc tế tăng cường hợp tác, chung tay
xây dựng một không gian mạng an toàn, lành mạnh, vì sự phát triển của nhân
loại như Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã khẳng định trong cuốn sách

“Không gian mạng - Tương lai và hành động”: Không gian mạng là “lõi” của
thế giới kết nối. Thế giới kết nối làm cho con người gần nhau hơn, hưởng lợi
và chấp nhận thách thức nhiều hơn. Tận dụng tốt mọi cơ hội, thế giới kết nối
sẽ mang lại sự phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội cũng như nền hòa bình
trên phạm vi toàn cầu; ngược lại, nếu không giải quyết tốt các thách thức sẽ
dẫn đến các hiểm họa khó lường.

11


Từ những phân tích trên, “không gian mạng” được hiểu một cách rất trừu
tượng, dường như rất phức tạp. Tuy nhiên, theo Luật An ninh mạng của Việt
Nam năm 2018 thì “không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy
tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu;
là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không
gian và thời gian”[1]. Luận văn sẽ sử dụng khái niệm này.
1.1.2. Khái niệm an ninh mạng
An ninh (security), hiểu theo một nghĩa đơn giản nhất “là tình trạng được
bảo vệ khỏi sự nguy hiểm và mất mát” còn theo từ điển quân sự Việt Nam thì
“An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa
sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh
vực trong hoạt động xã hội hoặc của an toàn xã hội” 2. Khái niệm an ninh
trong chính trị quốc tế thường gắn liền với bối cảnh của các cuộc xung đột vũ
trang như chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chiến tranh thế giới lần thứ hai,
chiến tranh lạnh. Trong bối cảnh đó, an ninh được hiểu như khả năng của một
quốc gia có thể ngăn chặn được các cuộc xâm lược vũ trang đến từ bên ngoài.
Mạng (network) là “một loạt các máy tính và thiết bị khác kết nối với
nhau để qua đó có thể chia sẻ thông tin và chia sẻ việc sử dụng các thiết bị
máy móc đó”. Mạng được phân loại theo quy mô và cách thức kết nối gồm

mạng LAN (Local Area Network) là mạng kết nối nội bộ trong một hệ thống;
mạng WAN (Wide Area Network) là mạng kết nối nhiều hệ thống mạng và
mạng INTERNET (International Computer Network) là mạng kết nối các máy
tính quốc tế mà ngày nay mạng này đã được mở rộng trên toàn thế giới còn
được gọi là mạng toàn cầu.
1

Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14, Tr.1 [19].
GS. TS Hoàng Khắc Nam (2017), Bài giảng môn An ninh và xung đột trong quan hệ quốc tế, Trường Đại
học KHXH&NV, Hà Nội [12].
2

12


An ninh mạng (“network security” hoặc “cyber security”) là tổng thể các
giải pháp về mặt tổ chức và kỹ thuật nhằm ngăn cản mọi nguy cơ tổn hại đến
không gian mạng. Trong đó, các tổn hại có thể xảy ra do một số nguyên nhân
như: Lỗi của người sử dụng; các lỗ hổng bảo mật trong các hệ điều hành cũng
như các chương trình ứng dụng; các hành động tấn công mạng; các lỗi do
phần cứng; các nguyên nhân khác từ tự nhiên…
Việc tập trung ngăn chặn các tổn thất trong không gian mạng trở nên
phức tạp khi phạm vi không gian mạng ngày càng rộng, số lượng người tham
gia ngày càng nhiều. Vấn đề an ninh mạng đang là thách thức mới cho những
người sử dụng và quản lý chúng. Khi các nhà quản lý mạng cố gắng triển khai
những công nghệ mới nhất vào hạ tầng cơ sở mạng của mình, thì an ninh
mạng trở thành một vấn đề then chốt trong việc xây dựng và duy trì các mạng
hiện đại của mọi tổ chức.
Vấn đề an ninh mạng dựa trên các nguyên tắc: Tính bí mật, tính toàn
vẹn, tính sẵn sàng. Tùy thuộc vào ứng dụng và hoàn cảnh cụ thể, mà một

trong các yếu tố trên sẽ quan trọng hơn những cái khác. Ba nguyên tắc cốt lõi
này sẽ là đường dẫn cho tất cả hệ thống an ninh mạng. Nó là thước đo cho
việc thực hiện đảm bảo an ninh mạng và mọi vi phạm bất kỳ một trong ba
nguyên tắc này đều có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với tất cả các thành
phần có liên quan.
Bí mật là sự ngăn ngừa việc tiết lộ trái phép những thông tin quan trọng,
nhạy cảm. Đó là khả năng đảm bảo mức độ bí mật cần thiết được tuân thủ và
thông tin quan trọng, nhạy cảm đó được che giấu với người dùng không được
cấp phép. Đối với an ninh mạng thì tính bí mật rõ ràng là điều đầu tiên được
nói đến và nó thường xuyên bị tấn công nhất.
Toàn vẹn là sự phát hiện và ngăn ngừa việc sửa đổi trái phép về dữ liệu,
thông tin và hệ thống, do đó đảm bảo được sự chính xác của thông tin và hệ
thống. Có ba mục đích chính của việc đảm bảo tính toàn vẹn:

13


+ Ngăn cản sự làm biến dạng nội dung thông tin của những người sử
dụng không được phép.
+ Ngăn cản sự làm biến dạng nội dung thông tin không được phép hoặc
không chủ tâm của những người sử dụng được phép.
+ Duy trì sự toàn vẹn dữ liệu cả trong nội bộ và bên ngoài.
Tính sẵn sàng là bảo đảm những người sử dụng hợp pháp của hệ thống có
khả năng truy cập đúng lúc và không bị ngắt quãng tới các thông tin trong hệ
thống và tới mạng. Tính sẵn sàng có liên quan đến độ tin cậy của hệ thống.
Để đảm bảo an ninh mạng dựa trên 3 nguyên tắc cốt lõi trên, thì mô hình
rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến quá trình phát triển và triển khai của
mọi tổ chức. Đó là mô hình bộ ba an ninh mạng bao gồm: Sự phát hiện
(Detection); sự ngăn chặn (Prevention); sự phản ứng (Response). Chúng kết
hợp thành các cơ sở của an ninh mạng.

Sự phát hiện: Là các biện pháp cần thiết để thực hiện phát hiện các nguy
cơ hoặc sự vi phạm an ninh trong trường hợp các biện pháp ngăn chặn không
thành công. Một sự vi phạm được phát hiện sớm sẽ dễ dàng hơn để làm mất
tác hại và khắc phục nó. Sự phát hiện không chỉ được đánh giá về mặt khả
năng, mà còn về mặt tốc độ, tức là phát hiện phải nhanh.
Sự ngăn chặn: Nó cung cấp mức độ an ninh cần thiết nào đó để thực hiện
các biện pháp ngăn chặn sự khai thác các lỗ hổng. Trong khi phát triển các
giải pháp an ninh mạng, các tổ chức cần phải nhấn mạnh vào các biện pháp
ngăn chặn hơn là vào sự phát hiện và sự phản ứng vì sẽ là dễ dàng, hiệu quả
và có giá trị nhiều hơn để ngăn chặn một sự vi phạm an ninh hơn là thực hiện
phát hiện hoặc phản ứng với nó.
Sự phản ứng: Phải phát triển một kế hoạch để đưa ra phản ứng phù hợp
đối với một số lỗ hổng an ninh. Kế hoạch phải được viết thành văn bản và
phải xác định ai là người chịu trách nhiệm cho các hành động nào và khi thay

14


đổi các phản ứng và các mức độ cần tăng cường. Tính năng phản ứng của một
hệ thống an ninh không chỉ là năng lực, mà còn là vấn đề tốc độ.
Các nguy cơ mất an ninh mạng luôn rình rập trong không gian mạng và
là vấn đề cấp bách trong thời kỳ hiện nay. Cụ thể, một mối đe dọa là bất kỳ
điều gì mà có thể phá vỡ tính bí mật, tính toàn vẹn hoặc tính sẵn sàng của một
hệ thống mạng hoặc một lỗ hổng là một điểm yếu vốn có trong thiết kế, cấu
hình hoặc thực hiện của một mạng mà có thể gây cho nó khả năng đối đầu với
một mối đe dọa.
Nguy cơ mất an ninh mạng có thể đến từ bất kỳ đâu, từ bên trong hoặc
bên ngoài, từ các hacker tới các cán bộ và nhân viên, các hệ hiều hành, ứng
dụng, hạ tầng mạng, thiết bị mạng hay các điểm yếu trong chính sách đảm
bảo an toàn thông tin cho đến các điểm yếu trong việc cấu hình các thiết bị…

Đặc biệt theo thống kê thì các nguy cơ chủ yếu đến từ các điểm yếu của giao
thức mạng, hệ điều hành, thiết bị mạng, ứng dụng và con người.
Mục tiêu của an ninh mạng là đảm bảo an ninh để chống lại các đe dọa
từ bên trong và bên ngoài trong không gian mạng. Do vậy, mục tiêu cơ bản
của việc thực hiện an ninh trên một mạng công nghệ thông tin phải đạt được
một chuỗi các bước như: Xác định tài sản; đánh giá các mối de dọa; đánh giá
rủi ro; xây dựng chính sách an ninh mạng; thực hiện chính sách an ninh mạng;
thực hiện kiến trúc được xây dựng trên, kiểm tra và cải tiến theo môi trường
cho phù hợp.
Ngày nay các cuộc tấn công mạng rất đa dạng, sẽ không thể đoán chắc
được chúng sẽ xảy ra khi nào, ở đâu, dạng nào và hậu quả của chúng. Do
vậy, để đảm bảo an ninh cho một mạng thì cần đảm bảo các yếu tố: Phát
hiện nhanh; phản ứng nhanh; ngăn chặn thành công mọi hình thức tấn
công. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn cho các nhà quản lý và các
nhà cung cấp dịch vụ mạng.

15


Theo Luật an ninh mạng năm 2018 của Việt Nam thì “An ninh mạng là
sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân” [3].
1.1.3. Những cơ hội và thách thức của không gian mạng
Sự ra đời và phát triển của khoa học - công nghệ, mạng máy tính, mạng
Internet, mạng viễn thông… đã hình thành nên một không gian mạng và mang
lại nhiều cơ hội, lợi ích to lớn cho xã hội và cuộc sống con người. Chúng ta sử
dụng mạng xã hội mọi lúc mọi nơi, nhờ không gian mạng mà những người
cách nhau nửa vòng trái đất có thể trò chuyện với nhau tức thời. Tuy nhiên,
không gian mạng cũng làm những người thân ngồi cạnh nhau mà dường như

trở nên xa lạ, không nói chuyện, không giao tiếp trực tiếp với nhau, đôi khi
chúng ta ngồi cạnh nhau nhưng thông qua các ứng dụng mạng để nói chuyện
với nhau. Trên thực tế hiện nay, chúng ta không còn xa lạ với những hình ảnh
trong gia đình, nơi công cộng hay bất kỳ nơi nào từng nhóm người ngồi
chung với nhau nhưng mỗi người sử dụng mạng xã hội trên thiết bị công nghệ
riêng của mình mà không nói chuyện, giao tiếp trực tiếp với nhau. Điều này
cũng không hoàn toàn không tốt, đôi khi nhờ không gian mạng mà ta giải
quyết được những xung đột nhỏ, có thể là những xung đột mà chúng ta không
thể nói trực tiếp với nhau được vì một sỹ diện nào đó của bản thân.
Thông tin trên không gian mạng hết sức phong phú và đa dạng. Chúng
ta chỉ ngồi một góc nhỏ trong phòng với một chiếc điện thoại thông minh kết
nối mạng Internet là ta có thể lấy thông tin phục vụ công việc của mình,
nghe những bản nhạc mình yêu thích, trò chuyện với những người thân quen
ở rất xa thậm chí với những thần tượng của mình. Không gian mạng không
chỉ là nơi để mọi người giao lưu, kết bạn mà dần trở thành công cụ để thể
hiện cái tôi, khích bác nhau và lôi kéo đám đông vào những vụ việc vô bổ.
3

Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14, Tr.01 [19].

16


Đó là sự nhiễu loạn thông tin trên không gian mạng đe dọa đến cuộc sống an
toàn của mỗi người dân, làm mất an ninh, trật tự xã hội. Cụ thể, bên cạnh hệ
thống cơ quan thông tấn, báo chí, trang thông tin điện tử được cấp phép và
hoạt động tuân thủ quy định của pháp luật thì vẫn còn tồn tại một số lượng
lớn trang web, blog, mạng xã hội… của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước đăng tải hàng triệu thông tin, bài viết, ý kiến trao đổi, bình luận ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, dưới nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, mục

đích khác nhau mà không đảm bảo tính chính xác, khách quan của thông tin.
Với sự bùng nổ của mạng xã hội như hiện nay, một thông tin gây sốc, tò
mò có thể lan truyền một cách chóng mặt chỉ bằng một cú nhấp chuột. Đó có thể
là những câu chuyện tưởng tượng, trêu đùa mọi người để câu like, nhưng hệ lụy
của nó thì không thể lường trước được. Những thông tin sai lệch được phát tán
trên không gian mạng đã xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, khủng bố
tinh thần của công dân, gây hoang mang dư luận, thậm chí đe dọa đến an ninh,
trật tự, ví dụ như: thông tin về việc Việt Nam đổi tiền xuất hiện lan tràn vào cuối
năm 2016, hoặc rất nhiều vụ việc gây ồn ào hoặc thậm chí gây ra hành vi vi
phạm pháp luật mà do tâm lý đám đông gây nên như vụ đốt xe ô tô ở Hải
Dương, việc đánh đánh đập thậm tệ hai người bán tăm ở Hoài Đức Hà Nội hoặc
vụ hai cô gái “gây chiến” đã làm náo loạn tại phố đi bộ Nguyễn Huệ Thành phố
Hồ Chí Minh… Sau khi điều tra, xem xét thì nguyên nhân đều bắt nguồn từ
thông tin trên mạng xã hội. Đây cũng là vấn đề mà nhiều quốc gia đang phải đối
mặt và nỗ lực đối phó. Mạng xã hội đang trở thành mảnh đất dung dưỡng cho cái
xấu khi sơ hở của người khác trở thành “miếng mồi” ngon để lên án, chỉ trích,
hoặc hiện tượng ném đá trên mạng, ví dụ như vụ việc về chương trình công nghệ
giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại gần đây là một minh chứng. Một công trình
đã được nghiên cứu khoa học, được đánh giá bởi nhiều nhà khoa học, thông qua
nhiều hội đồng và thử nghiệm gần 40 năm qua, nhưng nhiều người mới xem
qua, chưa xem xét cặn kẽ đã có nhiều những lời lăng mạ đối với nhà nghiên cứu
đã có tuổi. Ở đây, xét về góc độ đạo đức đã không ổn vì có rất nhiều những

17


facebooker còn rất trẻ đã lên mạng lăng mạ, chửi rủa Giáo sư một cách thậm tệ
và có những lời đe dọa.
Các hệ thống mạng trọng yếu quốc gia, các hệ thống điều khiển công
nghiệp tự động (ICS/SCARA) trong ngành hàng không, ngân hàng, dầu khí,

điện lực, giao thông và thậm chí là hệ thống vũ khí chiến đấu công nghệ cao
tiếp tục là mục tiêu tấn công của tin tặc, trong đó có hoạt động khủng bố, phá
hoại. Khi các hệ thống mạng này bị tấn công phá hoại thậm chí là chiếm
quyền điều khiển thì hậu quả khôn lường sẽ xảy ra. Chúng ta hãy tưởng tượng
hệ thống tầu trên cao Hà đông - Cát linh của chúng ta bị tấn công làm cho
người điều khiển con tàu không thể dừng lại được và đi với tốc độ chóng mặt
hoặc hệ thống nhà máy điện của các nước Châu Âu bị phá hoại vào những
ngày mùa đông lạnh giá thậm chí hệ thống vũ khí chiến đấu công nghệ cao bị
chiếm quyền điều khiển thì hậu quả của nó hết sức lớn và những thiệt hại
không hề nhỏ cho chính phủ và người dân.
Ngoài ra, các phần mềm gián điệp (spyware), phần mềm mã độc
(malware) trở thành mối đe dọa thực sự, kể cả với các mạng đóng, lưu trữ và
xử lý tài liệu mật do sự lây lan của dòng mã độc này qua các thiết bị USB
hoặc CD, smartphone và các thiết bị kết nối không dây.
Với xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng phổ biến đối với
mỗi người dân, tình trạng tội phạm sử dụng mạng máy tính tiếp tục gia tăng
với quy mô lớn, có tổ chức, tập trung vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
thương mại điện tử, thị trường tín dụng đen, đánh cắp dữ liệu công dân, mã số
thuế, hải quan điện tử để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản là một thách thức lớn mà
Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới phải giải quyết.
Không gian mạng là những công cụ cho Chính phủ các nước trong công
tác quản lý và điều hành đất nước nhưng không gian mạng cũng tạo ra những
công cụ cho các cá nhân, tổ chức tội phạm khủng bố, tổ chức cực đoan hay
các kẻ thù quốc gia những vũ khí cho các cuộc tấn công với mục đích khác

18


nhau. Đặt ra những thách thức đe dọa đến an ninh quốc gia, khu vực cũng như
toàn cầu.

Trước các cuộc tấn công ngày càng tinh vi, các chuyên gia cho rằng tấn
công mạng có chủ đích (Advanced Peristent Threat - APT) là loại tấn công
mạng nguy hiểm nhất hiện nay. Nó diễn ra âm thầm lặng lẽ khiến cho bên bị
tấn công không hề biết trước, trong khi bên tấn công đã có sự chuẩn bị trước.
Thậm chí mã độc có thể đã nằm trong hệ thống rồi nhưng chúng ta không thể
biết vì bên tấn công chưa thực hiện phá hoại nào.
1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp Lần thứ tƣ
1.2.1. Tổng quan về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là kỷ nguyên công nghiệp lớn lần thứ
tư kể từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần đầu tiên (từ 1784), với phát minh ra
động cơ hơi nước; lần thứ hai (từ 1870), với phát minh ra động cơ điện; lần
thứ ba (từ 1969), với phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử. Cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư được mô tả như là sự ra đời của một loạt các công
nghệ mới, kết hợp tất cả các kiến thức trong lĩnh vực kỹ thuật số, sinh học, vật
lý và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành kinh tế và
ngành công nghiệp.

Hình 2: Lịch sử 4 cuộc cách mạng công nghiệp4
Thương hiệu và công luận (2017), Lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng công
nghiệp lần thứ 4, [36]
4

19


Những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư là trí tuệ nhân tạo, vạn vật kết nối và dữ liệu lớn. Trong lĩnh vực
sinh học, cách mạng công nghiệp lần thứ tư tập trung vào nghiên cứu để tạo ra
những bước nhảy vọt trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực
phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Trong lĩnh

vực vật lý sẽ là robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới và
công nghệ nano.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là xu hướng hiện tại của tự động hóa
và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Bao gồm các hệ thống mạng vật
lý, mạng Internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây và không gian mạng là
một trong những thành phần quan trọng của nó. Bản chất của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các
công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức trong quá trình
sản xuất.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào khoảng
những năm 1784 với sự ra đời của đầu máy hơi nước, tiếp theo đó là sự phát
triển của các ngành công nghiệp cơ khí và bán tự động.
Đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ cuối thế kỷ XIX vào
khoảng những năm 1870, với sự phát triển của ngành năng lượng và ứng dụng
năng lượng vào sản xuất và đời sống, việc sản xuất theo dây chuyền được
phát triển, khi loài người phát minh ra động cơ điện.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ những năm 60 của thể
kỷ XX, thế giới đã chứng kiến sự phát triển và ứng dụng mạnh mẽ của điện tử
và công nghệ thông tin để tự động hoá sản xuất, khi con người phát minh ra
bóng bán dẫn, điện tử, vệ tinh, máy bay, điện thoại di động, Internet… Có thể
nói đây là sự chuyển biến có tính đột biến của nền sản xuất thế giới, xuất hiện
sự tương tác giữa người và máy thông qua sự phát phát triển của công nghệ
robot và các ứng dụng công nghệ thông tin.

20


×