Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn các Công ty Chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.89 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN HUY BÌNH

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC CÔNG TY
CHẾ BIẾN THAN THUỘC TẬP ĐOÀN THAN KHOÁNG
SẢN VIỆT NAM (TKV)

Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân. Các
số liệu sử dụng trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng quy
định. Kết quả nghiên cứu chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Đoàn Huy Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA ..................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa ....................................... 6
1.2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ......................................................... 11
1.3. Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ..................................... 16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC CÔNG
TY CHẾ BIẾN THAN THUỘC TẬP ĐOÀN THAN KHOÁNG SẢN VIỆT
NAM (TKV) ............................................................................................................ 23
2.1. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ................... 23
2.2. Khái quát chung về các các công ty chế biến than thuộc Tập đoàn Than
Khoáng sản Việt Nam (TKV) và thực tiễn kinh doanh tại công ty .................... 33
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tại
các công ty chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) 43
2.4. Đánh giá thực trạng giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tại các công ty
chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) ................... 49
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA ................................................................................................... 58
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật vè giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa...... 58
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật vè giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.... 63
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa tại các công ty ché biến than thuộc Tập đoàn Than
Khoáng sản Việt Nam (TKV) ............................................................................. 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty từ 2015 - 2017 .....38

Bảng 2.2. Tình hình tiêu thụ các sản phầm than trong 3 năm 2015-2017 ................38
Bảng 2.3. Phân tích tinh hình tiêu thụ theo các phân xưởng (phân vùng địa lý) ......40


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động mua bán hàng hoá là một hoạt động trung tâm trong giao lưu
thương mại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước cũng như phát triển
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Quan hệ mua bán hàng hoá được thể hiện dưới
hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hiện nay, khi bước vào nền kinh
tế thị trường, trong bối cảnh toàn cầu hóa dần mở rộng nhiều quan hệ mua bán hàng
hóa, việc mua bán hàng hóa không chỉ diễn ra trong lãnh thổ một nước với nhau mà
còn thực hiện các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa quốc tế. Hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại nói riêng là một yêu cầu cấp bách
của thực tiễn. Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu các vấn đề pháp lý cơ bản về hợp
đồng mua bán hàng hoá để từ đó đưa ra các phương hướng hoàn thiện pháp luật là
rất cần thiết.
Mặt khác, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các
giao dịch kinh doanh ngày càng sôi động đòi hỏi Nhà nước phải ban hành quy định
điều chỉnh chi tiết cho quá trình thiết lập và thực hiện đúng các bạn trong giao dịch
phải có sự hiểu biết đầy đủ các quy định pháp luật hợp đồng nhằm bảo đảm cho
việc thực hiện các giao dịch này. Trên thực là việc giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa của các thương nhân, giữa các doanh nghiệp với nhau ngày càng tăng về số
lượng. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để nâng cao hiệu quả của việc giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, làm thế nào để doanh nghiệp có được sự chủ
động trong công tác này giúp cho việc xác lập và đảm bảo thực hiện hợp đồng một
cách tốt nhất đưa đến lợi nhuận tối ưu, tránh các thiệt hại không đáng. Điều này phụ
thuộc trước hết vào hệ thống pháp luật, đồng thời cũng phụ thuộc vào khả năng
nhận biết cũng như trình độ thực hiện pháp luật của doanh nghiệp. Thực tiễn cho
thấy, ngoài một số lỗ hổng từ hệ thống pháp luật thì sự hiểu biết về pháp luật của

các doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện nay, ở nước ta, pháp luật về hợp
đồng đang được ngày càng hoàn thiện theo hướng phù hợp với nhu cầu của nền
kinh tế và tiệm cận với pháp luật hợp đồng của thế giới. Nhưng vẫn còn rất nhiều
vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện. Trong quá trình làm việc tại Công ty Chế biến
than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV), người viết có cơ hội tham
gia ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng chủ yếu là hợp đồng mua bán hàng hóa. Do
nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa nên việc tìm hiểu

1


pháp luật hợp đồng là điều cần thiết đối với Công ty. Hơn nữa, thực tiễn việc thực
hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty còn nhiều hạn chế và cần
những giải pháp giúp công ty nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết, thực hiện
hợp đồng .Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa tại các Công ty Chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản
Việt Nam (TKV) là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty mà còn đối
với nhiều doanh nghiệp khác.
Đây chính là lý do tác giả quyết định lựa chọn để tài: “Giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn các Công ty Chế biến
than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV)” làm Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
2.1. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài cũng đã có một số công trình nghiên cứu, các bài viết về vấn
đề hợp đồng mua bán hàng hóa và thực trạng pháp luật cho hợp đồng mua bán hàng
hóa. Tiêu biểu trong số đó là công trình của các tác giả: Gordon W. Brown and Paul
A. Sukys (1996), Business in law with UCC application, 10th Edition, USA; John
Cartwright và Martijn W. Hesselink (2011), Precontractual Liability in European
Private


Law, Cambrige;

Melvin

A.

Eisenberg

(2004), The Revocation

of Offer, Berkeley Law; Cheong May Fong (2007), Civil remedies in Malaysia,
Sweet and Maxwell Asia Publishe; W. J. Wagner (1963), Some Problems
of Revocation and Termination of Offer: Necessity of Communication-Time of
Revocation-Death, NotreDame Law Review, Volume 38…
Nội dung của các công trình này đề cập đến một số khía cạnh của hợp đồng
mua bán hàng hóanhư: những vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa trong
đó có hợp đồng điện tử, hợp đồng online… một số tình huống về hợp đồng mua bán
hàng hóa… Tuy nhiên, chưa có công trình nào phân tích toàn diện và chuyên sâu về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập Kinh tế
quốc tế. Mặc dù vậy, những tài liệu liệt kê ở trên là nguồn tài liệu tham khảo rất cần
thiết để thực hiện luận văn này.
2.2. Ở Việt Nam
Nghiên cứu về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là vấn đề đã được nhiều
học giả quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu từ

2


thực tế giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa của một doanh nghiệp cụ thể để từ đó

đề xuất các giải pháp hạn chế rủi ro pháp lý trong đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa lại là một vấn đề còn khá mới mẻ. Hiện nay, mới chỉ có
một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp
đồng thương mại nói chung như:
- Đề tài luận án tiến sĩ "Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở giai
đoạn hiện nay" của tác giả Phạm Hữu Nghị, Hà Nội, 1996;
- Đề tài luận án tiến sĩ "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo
đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta" của tác giả Bùi Ngọc Cường, 2001;
- Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu và hậu quả pháp lý
của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002;
- Công trình nghiên cứu khoa học "Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về
giao dịch dân sự vô hiệu tại Tòa án nhân dân" của tác giả Nguyễn Văn Luật, 2003;
- Công trình nghiên cứu khoa học "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu: Lý luận và
thực tiễn", Tài liệu Hội thảo về việc xử lý hợp đồng vô hiệu, Diễn đàn doanh nghiệp
và Câu lạc bộ Luật gia Việt - Đức, Hà Nội...
- Sách chuyên khảo do TS Nguyễn Thị Dung chủ biên, Kiến thức pháp lý và
kỹ năng cơ bản trong đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng trong lĩnh vực
thương mại, NXB Chính trị- Hành chính, năm 2012, nghiên cứu một cách toàn
diện và sâu sắc những pháp đề pháp lý về cả ba hoạt động đàm phán, soạn thảo và
ký kết hợp đồng thương mại.
- Sách tham khảo của tác giả Phạm Thanh Phấn, Nguyễn Huy An, “Kỹ thuật
soạn thảo hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại”, NXB Thống kê, năm 1998;
- Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật hợp đồng - Phần chung, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
- Ngô Huy Cương (2012), Pháp luật về nghĩa vụ cho cao học, Bài giảng điện tử;
- Ngô Huy Cương (2010), Đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 265), tr.29-44;
- Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập II, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội;
- Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, TP.
Hồ Chí Minh;

3


- Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam,Tập 1 và 2, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội;
- Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân
sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh;
- Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm
2005, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- Bài tạp chí của tác giả Lê Thị Diễm Phương (2013), Đề nghị và chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng - nhìn từ góc độ so sánh, Tạp chí Khoa học pháp lý Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2013, (Số 2), tr. 68-74
- Bài tạp chí của tác giả Đỗ Đăng Khoa, “Kỹ năng soạn thảo hợp đồng
thương mại” đăng trên Tạp chí Luật học Trường đại học Luật Hà Nội, số 11/2008.
- TS. Thái Trí Dũng, (2005); Kỹ năng giao tiếp và thương lượng trong kinh
doanh, NXB Thống kê;
- Nâng cao hiệu quả trợ giúp pháp lý cho doanh nghiệp, http://news.
vibonline.com.vn/Home/Su-kien-Binh-luan/10367/Nang-cao hieu-qua-tro-giupphap-ly-cho-doanh-nghiep…
Như vậy, cho đến nay chưa có đề tài nào thực sự đi sâu vào việc nghiên cứu về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa từ thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp
chế biến than thuộc ngành than nhằm chỉ ra các giải pháp đảm bảo cho việc giao kết
thực hiện các hợp đồng, hạn chế những rủi ro pháp lý phát sinh trong đàm phán,
soạn thảo và ký kết hợp đồng thương mại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện

những vấn đề lý luận và pháp luật nvề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, từ thực
trạng giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tại các Công ty Chế biến than thuộc Tập
đoàn Than Khoáng sản việt nam (TKV) đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các kỹ năng trong đàm
phán, soạn thảo và ký hết hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm kiểm soát và phòng
tránh rủi ro pháp lý xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đống mua bán hàng hóa.
Để thực hiện mục đích này, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa như khái

4


niệm, đặc điểm, nội dung việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa;
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa tại các Công ty chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam
(TKV) trên cơ sở đó rút ra các ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của các ưu điểm và
hạn chế trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa;
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm kiểm soát và phòng tránh rủi ro
pháp lý khi đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa thông qua đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng trong phạm vi pháp luật
thương mại Việt Nam hiện hành;
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa từ thực tiễn hoạt động của các Công ty chế biến than thuộc Tập đoàn
Than Khoáng sản Việt Nam (TKV);
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động của các Công ty chế
biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) từ 1995 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn dựa trên nền tảng lý
luận là các nguyên tắc và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về pháp luật. Ngoài ra tác
giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng; phương pháp
thống kê; phương pháp tổng hợp và khái quát hoá; tra cứu sách, tài liệu tham khảo
tại thư viện, trên mạng internet.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có cơ cấu
gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
và thực tiễn thực hiện tại các Công ty Chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng
sản Việt Nam (TKV)
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Hiện nay, hợp đồng mua bán tài sản là loại hợp đồng thông dụng chiếm một
số lượng lớn. Tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 có nêu khái niệm chung về hợp
đồng: Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Đối với hoạt động mua bán hay hợp đồng mua bán
hàng hóa cũng là sự xác lập, thay đổi quyền sở hữu đối với tài sản. Mua bán hàng
hóa tức là sự thỏa thuận giữu hai bên trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở

hữu đối với hàng hóa cho bên mua đồng thời bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho
bên bán. Các điều khoản có liên quan đến nội dung hợp đồng hay cách thức thực
hiện hợp đồng đều sẽ do 2 bên tự thỏa thuận với nhau để đảm bảo quyền và lợi ích
chính đáng của các bên. Điều này được quy định trong điều 430 Bộ luật Dân sự như
sau: hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán
chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, ta sẽ xem xét hợp đồng mua bán hàng
hóa giữa các tổ chức cá nhân có đăng ký kinh doanh mà quan hệ với nhau vì mục
đích lợi nhuận. Theo khoản 8 điều 3 Luật Thương mại 2005: Mua bán hàng hóa là
hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở
hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Trong luật
Thương mại không có nêu khái niệm về hợp đồng thương mại mà chỉ có hoạt động
thương mại, trong đó mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại. Các hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận, và đây là điểm khác
biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng trong hoạt động thương mại. Khi so sánh
giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa theo tính chất hợp đồng thì
hợp đồng dân sự có tính chất dân sự còn hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất
thương mại. Hợp đồng mua bán được giao kết bởi các thương nhân và mục đích
giao kết hợp đồng là để sinh lợi giữa các bên, đó gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa
có tính chất thương mại. Như vậy, các hợp đồng được giao kết không nhằm mục
đích lợi nhuận là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất dân sự.

6


Trong hoạt động tại các doanh nghiệp, việc giao kết và thực hiện các hợp
đồng mua bán hàng hóa là khâu cơ bản. Sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp
phụ thuộc vào quá trình này. Hợp đồng mua bán hàng hóa tạo điều kiện pháp lý cho
các chủ thể kinh doanh có điều kiện phát triển các hoạt động tiêu dùng, sản xuất và

lưu thông hàng hóa. Các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế, tạo ra các mối
quan hệ giữa người mua và người bán đi kèm với quyền lợi và nghĩa vụ được pháp
luật bảo hộ, tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp nền kinh tế ngày
một phát triển.
Ngày nay, khi nghiên cứu về hợp đồng, không thể không nhắc tới một phương
cách ký kết hợp đồng đang ngày một phát triển như là xu hướng của thời đại hiện nay
đó là hợp đồng điện tử. Trước khi đề cập đến vấn đề này chúng ta xem xét qua khái
niệm hợp đồng trong pháp luật một số quốc gia so sánh với quan niệm của Việt Nam.
Về khái niệm hợp đồng, Điều 1, Bộ luật Thương mại thống nhất (Uniform
Commerce Code – UCC) của Hoa Kỳ quy định “hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ
pháp lý phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên”. Luật Hợp đồng năm 1999 của
Trung Quốc quy định “hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên của các tổ chức
(Điều 2). Những quy định này có sự tương đồng với quy định của Việt Nam ở chỗ
coi hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên để quy định quyền, nghĩa vụ đối với
nhau. Điều khác nhau là ở chỗ Luật Việt Nam đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự
còn Luật Hoa Kỳ gọi là hợp đồng.
Với cách phân tích ở trên có thể hiểu một cách đơn giản hợp đồng điện tử là
sự thỏa thuận giữa các bên, thông qua các phương tiện điện tử, nhằm quy định
quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Về cơ bản, hợp đồng điện tử cũng giống hợp đồng
truyền thống về chức năng, nội dung và giá trị pháp lý. Điểm khác biệt nổi bật là
hình thức thể hiện, phương thức ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Điều 11, mục
1, Luật mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL (1996) quy định: “Về hình
thức hợp đồng, trừ khi các bên có quy định khác, chào hàng và chấp nhận chào hàng
có thể được thể hiện bằng thông điệp dữ liệu. Khi thông điệp dữ liệu được sử dụng
để hình thành hợp đồng, hợp đồng đó không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì nó
được thể hiện bằng thông điệp dữ liệu”. Cùng với sự phát triển của thương mại điện
tử, hợp đồng điện tử cũng đã được luật pháp thừa nhận là một công cụ pháp lý để
ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.


7


Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử cũng được quy định cụ thể tại Điều 9,
Công ước của LHQ về việc Sử dụng thông điệp dữ liệu trong Hợp đồng điện tử
quốc tế (2005), theo đó: “Khi pháp luật quy định một hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản thì hợp đồng điện tử được coi là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin
trong hợp đồng có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”.
Khái niệm về hợp đồng điện tử được hiểu tương đối thống nhất trong quy định
của luật pháp các nước cũng như trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng điện
tử. Sự thống nhất này thể hiện ở chỗ phần lớn ý kiến đều cho rằng hợp đồng điện tử
là hợp đồng được ký kết bằng phương tiện điện tử. Hoa kỳ là quốc gia có nền
thương mại điện tử phát triển hàng đầu thế giới, khái niệm hợp đồng điện tử đã
được Hoa Kỳ quy định cụ thể trong Luật thống nhất về Giao dịch điện tử năm 1999
(UETA). Điều 7 của UETA quy định “hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận giá
trị pháp lý và hiệu lực thi hành chỉ vì lý do duy nhất là nó tồn tại dưới dạng điện
tử”. Đồng thời, điều 14 của UETA quy định rõ thêm về việc ký kết hợp đồng điện
tử, theo đó, “một hợp đồng điện tử có thể được hình thành giữa các bên và hệ thống
thông tin của đối tác, không cần có sự can thiệp của con người vào các giao dịch tự
động đó” [UETA, tháng 8/2009].
Tại Việt Nam, khái niệm về hợp đồng điện tử đã được quy định cụ thể tại điều
33 của Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam (2005), theo đó “Hợp đồng điện tử là
hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”. “Thông điệp dữ liệu” được
giải thích cụ thể tại điều 4, mục 12 là “thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận
và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”. Cũng theo đó, “phương tiện điện tử”
được quy định là “phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật
số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự”
[Lỗi! Không tìm thấy nguồn tham chiếu.]. Như vậy, hợp đồng điện tử trước hết là
một hợp đồng – một công cụ pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ các bên ký kết.
Là một hợp đồng, hợp đồng điện tử cũng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm tiến

hành một công việc nhất định. Hợp đồng điện tử, do đó, có tất cả các đặc điểm của
một hợp đồng nói chung và cũng có những đặc điểm riêng, đặc thù của nó.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.2.1. Chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa
Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân (hoạt
động thương mại độc lập thường xuyên liên tục, nhằm mục đích lợi nhuận, có đăng
ký kinh doanh) và thỏa mãn các điều kiện về độ tuổi, năng lực hành vi…bao gồm bên

8


mua, bên bán và bên trung gian (nếu có). Theo quy định tại Điều 6 Luật Thương mại
2005 thì: thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các nghành nghề mà đã đăng ký
trong giấy phép đăng ký kinh doanh đồng thời là những ngành nghề không bị pháp
luật cấm. Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước
bảo hộ. Tuy nhiên, trong quá trình mua bán hàng hóa, các bên chủ thể không nhất
thiết đều phải là các thương nhân, đó có thể là các cá nhân, các tổ chức khác… mà
thỏa mãn điều kiện có đăng ký kinh doanh, quan hệ với nhau vì mục đích lợi nhuận.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh
thổ. Như vậy, chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân
hoặc không phải là thương nhân, ngoài các thương nhân Việt Nam thì còn thương
nhân nước ngoài.
1.1.2.2. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa
Tại Điều 24 Luật Thương mại 2005 có quy định về hình thức của hợp đồng
mua bán hàng hóa (MBHH): hợp đồng MBHH được thể hiện bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng MBHH mà pháp
luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Chủ yếu
các hợp đồng trong hoạt động thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa được lập thành

văn bản. Trước hết là do việc giao kết hợp đồng bằng văn bản mang tính đảm bảo cao
hơn so với các hình thức khác. Hơn nữa hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra nhằm mục
đích lợi nhuận nên việc ký kết hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản. Trong luật
cũng quy định hình thức hợp đồng được lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương với văn bản. Các hình thức có giả trị tương đương văn bản
bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định
của pháp luật.
1.1.2.3. Đối tượng hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng chủ yếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa được phép
giao dịch, không nằm trong đối tượng hàng hóa bị cấm không được phép giao dịch.
Luật Thương mại có quy định hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả
động sản hình thành trong tương lai hay những vật gắn liền với đất đai. Đây là
những khái niệm nói chung về đối tượng trong mua bán hàng hóa. Hàng hóa là sản
phẩm do lao động của con người tạo ra, việc trao đổi hàng hóa là quá trình tất yếu
của phát triển. Hàng hóa bao gồm nhiều loại, nó được tạo ra ngày càng nhiều nhằm

9


thỏa mãn cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Đó có thể vật hữu hình hay vô hình,
động sản hay bất động sản… đều là những đối tượng của hợp đông mua bán hàng
hóa. Mỗi đối tượng đều có những hình thức để trao đổi khác nhau, nhưng tựu chung
vẫn phải tuân theo những nguyên tắc chung trong hoạt động mua bán hàng hóa.
1.1.2.4. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện ý chí của các bên trong
việc bảo vệ quyền lợi lợi ích của chính mình đồng thời cũng phải tuân theo các
nguyên tắc trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Tùy theo từng loại hợp đồng,
các bên có thể thỏa thuận về những nội dung khác nhau. Trong hợp đồng, thông
thường có nêu rõ quyền và nghĩa vụ do các bên thỏa thuận. Ngoài những thỏa thuận
trong hợp đồng, những thỏa thuận thường có trong tất cả các hợp đồng thì có những

thỏa thuận khác phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp. Đó có thể là những
thỏa thuận bên ngoài, không được ghi trong hợp đồng hoặc những tiền lệ đã có từ
trước đã có giữa các bên. Trong quy định của luật dân sự và luật thương mại có quy
đinh các nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về đối tượng của hợp đồng
Là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm. Đối tượng của
hợp đồng mua bán hàng hóa phải được xác định rõ trong hợp đồng tranh xảy ra
những sai sót dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Mặc dù ngay từ đầu xác định giao
kết hợp đồng, bên mua vốn đã biết trước nhu cầu của mình với hàng hóa rồi mới tìm
đến các bên đối tác, hoặc bên bán có những hàng hóa như thế nào khi xác định đề
nghị giao kết chào hàng.
Thứ hai, về số lượng và chất lượng
Những quy định về vấn đề này được ghi trong hợp đồng thỏa thuận giữa hai
bên. Quy định chất lượng hàng hóa nhằm phân biệt giữa các chủng loại khác nhau,
mẫu mã, tránh việc nhầm lẫn có thể xảy ra. Các bên có thể thoả thuận về số lượng
nhất định hàng hoá cụ thể mà bên bán phải giao. Và nghĩa vụ của bên bán là phải
giao đủ số lượng hàng hóa đã quy đinh trong hợp đồng. Khi bên bán không giao đủ
số lượng như đã thỏa thuận thì có thể dựa vào những điều khoản đã quy định trong
hợp đồng để đảm bảo lợi ích của mình.
Thứ ba, về giá và phương thức thanh toán
Đây là nghĩa vụ của bên mua đối vơi bên bán khi đã giao hàng hóa đạt yêu
cầu về số lượng cũng như chất lượng. Giá cả ngoài đơn giá, bảng giá chung thì các
bên có thể thỏa thuận mức giá hợp lý cho cả hai bên, đồng thời phương thức thanh

10


toán. Việc thanh toán có thể diễn ra bằng nhiều cách, nhưng chủ yếu hiện nay là
thông qua tài khoản tại ngân hàng. Thanh toán có thể thanh toán một lần vào cuối
khi đã giao toàn bộ hàng hóa cho bên mua, cũng có thể thanh toán theo từng lần

nhận hàng nếu số lượng hàng hóa lớn, và hợp đồng được thực hiện trong một thời
gian nhất định.
Thứ tư, về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
Đến thời hạn giao hàng thỏa thuận trong hợp đồng, tại nơi giao hàng bên bán
phải giao hàng cho bên mua đủ số lượng và đảm bảo chất lượng, bên mua có nghĩa
vụ có mặt để nhận hàng. Địa điểm giao hàng có thể là kho của bên mua, cũng có thể
là nơi mà hai bên đã thỏa thuận từ trước.
1.2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên
tắc và trình tự để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ dân sự.
1.2.1. Nguyên tắc trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc giao kết hợp đồng thể hiện ý chí của 2 bên, việc giao kết là quyền tự do
của các bên, nhưng vẫn cần tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo sự
công bằng, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật. Những nguyên tắc trong giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định từ điều 10 đến điều 15 Luật Thương
mại năm 2005 gồm:
- Thứ nhất là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thương nhân
trong hoạt động thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng
trước pháp luật trong hoạt động thương mại (Điều 10, Luật Thương mại)
- Thứ hai là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương
mại. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Trong quy định về chủ thể giao kết trong hợp đồng mua bán đó là các doanh nhân,
hoặc các tổ chức, cá nhân có giấy pháp kinh doanh…nguyên tắc này nhằm giúp cho
các chủ thể khi tham gia giao kết thể hiện ý muốn của mình và bảo vệ lợi ích của bản
thân. Đi kèm với nguyên tắc tự do giao kết, tự do thỏa thuận nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội. Trước hết, là với các doanh nghiệp, các thương nhân khi
tham gia giao kết cần phải đảm bảo có tư cách hợp pháp trước pháp luật, chịu trách
nhiệm về bản thân mình trước đối tác và trước pháp luật. Việc giao kết không được
trái pháp luật hay đạo đức xã hội, như việc giao dịch hàng hóa bị pháp luật cấm…thì
đều vi phạm nguyên tắc này. Lợi ích của cá nhân được đảm bảo đồng thời không làm

xâm hại đến lợi ích của tập thể, của xã hội. Trong hoạt động thương mại, các bên

11


hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa,
ngăn cản bên nào.
- Thứ ba là nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại. Theo
đó, trừ trường hợp có thoả thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói
quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã
biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật.
- Thứ tư là nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại. Theo
đó, trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận và không
có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng
không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật Thương mại và trong Bộ
luật Dân sự.
- Thứ năm là nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Theo
đó, trước nhất, thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin
đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh
và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó. Bên cạnh đó,
thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng,
tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh.
- Thứ sáu là nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong
hoạt động thương mại. Theo đó, trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu
đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được
thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản.
1.2.1.1. Trình tự giao kết hợp đồng
*Đề nghị giao kết hợp đồng
Khoản 1 điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Đề nghị giao kết hợp đồng
là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của

bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng. Đây là việc thể hiện
ý chí của một bên mong muốn giao kết hợp đồng với chủ thể khác với những điều
kiện mà phía bên chủ thể chủ động đề nghị đưa ra. Như vậy, xét về mặt bản chất
đây cũng có thể coi là là một lời chào hàng như trong thương mại. Nó mang có hiệu
lực pháp luật nếu bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị. Trong lời đề nghị giao
kết phải có những nội dung cơ bản cũng như những thông tin giống như trong nội
dung hợp đồng nhằm đảm bảo bên được đề nghị có những thông tin cần thiết. Dù
không có quy định cụ thể về nội dung của đơn chào hàng nhưng cũng có những nội
dủng chủ yếu như: đối tượng, giá cả, chất lượng…Những nội dung này cần chính

12


xác đảm bảo cho những cơ sở ban đầu để bên được đề nghị xem xét việc tham gia giao
kết. Bên đề nghị giao kết phải chịu trách nhiệm trước những nội dung đã đề nghị và
mọi thay đổi trong nội dung đều phải nhận được sự chấp nhận của phía bên kia.
Lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán là những điều khoản do một bên đưa
ra cho phía bên kia. Lời đề nghị này mới chỉ thể hiện ý chí, nguyện vọng của một
bên trong quan hệ hợp đồng và phải được chấp nhận bởi các bên còn lại mới hình
thành sự nhất chí thỏa thuận chung.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải có các điều khoản chủ yếu như đối tượng của
hợp đồng mà cụ thể ở đây là hàng hóa hay địa điểm giao hàng hoặc phương thức
thanh toán; phải thể hiện mong muốn ràng buộc trách nhiệm đồng thời hướng đến
một chủ thể hoặc một số chủ thể nhất định và phải tuân theo hình thức pháp luật
quy định.
Cần phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với quảng cáo, …Đối với đề nghị
giao kết hay chào hàng là gửi đến một hay nhiều chủ thể xác định với mục tiêu
nhằm xác lập giao kết đối với chủ thể đó. Khi đó bên đề nghị giao kết sẽ chịu sự
ràng buộc đối với bên đã được xác định cụ thể. Còn quảng cáo, hay thư quảng cáo
được gửi đến nhiều đối tượng không xác định, vì vậy không hề có giá trị về mặt

pháp lý.
Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu
bên đề nghị giao kết lại giao kết hợp đồng với một chủ thể thứ ba khác trong thời
hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị
mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh. Đây chính là điều kiện
ràng buộc của bên đề nghị đối với bên kia, trong trường hợp vi phạm theo đề nghị
giao kết.
Ngoài ra theo điều 388 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời điểm đề nghị giao
kết có hiệu lực do bên đề nghị giao kết là người chủ động đề nghị ấn định. Nếu bên
đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên đề
nghị nhận được được đề nghị đó.
Đề nghị giao kết có thể được thay đổi, rút lại trong các trường hợp nếu bên
được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại trước hoặc cùng
thời điểm nhận được đề nghị. Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong
trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện
đó phát sinh. Bên cạnh đó việc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng nếu trong đề nghị
giao kết hợp đồng có nêu rõ quyền này trong đề nghị đồng thời phải thông báo cho

13


bên được đề nghị và thông báo này có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được
thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Nếu không bên đề nghị giao kết sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu có thiệt
hại xảy ra, nó cũng giống như trường hợp giao kết với bên thứ ba trước thời hạn bên
được đề nghị giao kết trả lời.
Theo điều 391 Bộ luật Dân sự 2015 đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt
trong trường hợp sau đây:
- Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng;
- Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận;

- Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
- Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
- Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
- Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời.
*Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng. Khi bên được đề
nghị chấp nhận thì lúc này đề nghị giao kết hợp đồng được coi như là một thỏa
thuận có sự ràng buộc giữa hai bên. Trong trường hợp mà bên đề nghị có ấn định
thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong
thời hạn đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết hạn trả
lời thì chấp nhận này được coi như đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường
hợp thông báo chấp nhận giao kết đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị
biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp
đồng vẫn còn hiệu lực trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với
chấp nhận đó của bên được đề nghị.
1.2.1.2. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Về thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, nguyên tắc chung hợp
đồng mua bán hàng hóa được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa
thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách
thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015, có
thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng mua bán như sau:
- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.

14


- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao

dịch): hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng.
- Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời
điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng
của thời hạn đó.
Theo quy định hiện hành, hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực từ thời
điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác (Điều 401 Bộ luật Dân sự 2015).
1.2.1.3. Rút lại, thay đổi, hủy bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết
Các nội dung trên được quy định tại các điều 389, 390, 391, 392 của Bộ luật
Dân sự 2015.
- Thay đổi, rút lại đề nghị (Điều 389 Bộ luật Dân sự 2015)
Một trong những lý do trên thực tế việc xác định thời điểm bản đề nghị bắt đầu
có hiệu lực là rất quan trọng. Cho đến thời điểm đó, bên đề nghị có quyền đổi ý và
quyết định không tham gia giao kết hợp đồng nữa, hoặc đổi lại đề nghị cũ bằng một đề
nghị mới khác, bất kể là bản đề nghị ban đầu đó bị thu hồi lại hay chưa. Chỉ cần người
nhận đề nghị phải được thông báo về sự thay đổi ý định của người đưa ra đề nghị, trước
hoặc vào đúng thời điểm mà bên nhận đề nghị nhận được đề nghị ban đầu.
- Huỷ bỏ đề nghị giao kết
Điều 390 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Bên đề nghị giao kết hợp đồng
có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị
nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Việc một đề nghị có thể được phép huỷ bỏ hay không là một trong những
vấn đề phức tạp nhất trong việc giao kết hợp đồng. Vì ở đây không có sự hoà hợp
giữa hai cách nhìn của hai bên tham gia ký kết hợp đồng, việc quy định như vậy sẽ
dẫn tới một số trường hợp không được phép huỷ bỏ, và chỉ trong một số ngoại tệ nó
mới được phép được huỷ bỏ.

+ Các đề nghị có thể bị huỷ bỏ trên nguyên tắc
Ta suy luận ra rằng, các đề nghị được phép huỷ bỏ cho đến khi hợp đồng
được giao kết. Tuy nhiên, pháp luật quy định việc huỷ bỏ một đề nghị có thể được

15


thực hiện khi bên nhận đề nghị vẫn chưa tuyên bố chấp nhận đề nghị. Nghĩa là kể cả
khi một đề nghị bằng văn bản được chấp nhận bằng miệng, hoặc khi người nhận
thực hiện theo đề nghị mà chưa thông báo cho người đưa ra đề nghị, thì bên đề nghị
vẫn có quyền huỷ bỏ đề nghị cho đến trước thời điểm giao kết hợp đồng. Khi một
bên đề nghị được chấp nhận bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết từ khi lời
chấp nhận đề nghị được truyền đạt đến người đưa ra đề nghị đó. Tuy nhiên, quyền
của bên đề nghị về việc yêu cầu huỷ bỏ đề nghị sẽ chấm dứt sớm hơn, nghĩa là khi
bên nhận đề nghị gửi lời chấp nhận đề nghị. Các giải quyết ngược lại như vậy có thể
gây nhiều bất tiện cho bên nhận đề nghị vì bên này không phải lúc nào cũng biết
được liệu đề nghị đó bị huỷ bỏ hay chưa. Do đó, trong một số trường hợp nên theo
cách giải quyết này, có nghĩa là phải thu hẹp thời gian được quyền rút lại đề nghị
của bên đề xuất.
Trong thực tế, việc hủy bỏ hợp đồng và không hủy bỏ hợp đồng luôn luôn
gắn liền với nhau: Nếu hủy bỏ có lợi cho bên A thì không hủy bỏ thường có lợi cho
bên B và như vậy sẽ diễn ra việc tranh chấp trong việc ký kết hợp đồng của hai bên.
2.2.1.4. Vấn đề ủy quyền ký kết hợp đồng
Thông thường chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là người trực tiếp ký kết hợp
đồng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cá nhân hay người đứng đầu pháp nhân
không thể tham gia trực tiếp vào hợp đồng. Vì vậy pháp luật cho phép họ uỷ quyền
cho người thứ ba thay mặt mình giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Đối với tổ chức, quan hệ uỷ quyền thường xuất hiện giữa cấp trên đối với
cấp dưới. Ví dụ giám đốc uỷ quyền cho trưởng phòng kinh doanh đàm phán ký kết
hợp đồng đại lý của công ty…trong trường hợp này, uỷ quyền thường gắn với trách

nhiệm quyền và nghĩa vụ hai bên. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc uỷ quyền
và việc phân công công việcnhiệm vụ lại tương đối giống nhau và Bộ luật Dân sự
Việt Nam 2015 chưa phân biệt rõ ràng.
1.3. Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
1.3.1. Nguồn luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật
khác nhau như pháp luật quốc gia, các điều ước về MBHHQT, các tập quán thương
mại, thói quen thương mại …Việc nguồn luật nào điều chỉnh còn tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể.

16


1.3.1.1. Pháp luật quốc gia
Trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam, nguồn luật được áp
dụng là những văn bản do cơ quan là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức nhất
định, có nội dung là các quy phạm pháp luật dân sự, thương mại, có hiệu lực bắt
buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan và được bảo đảm thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước.
Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: " Văn
bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này".
Nguồn pháp luật quốc gia trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa không
phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ bao gồm những văn bản quy
phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật dân sự, thương mại,… tức là những
quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động giao kết hợp đồng.
Từ những điều đã phân tích ở trên cho thấy pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa có hệ thống nguồn khá đa dạng. Ngoài Luật Dân sự, Luật

Thương mại nguồn pháp luật quốc gia trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
còn có nhiều ngành luật chuyên ngành khác tuy nhiên, những văn bản quy phạm
pháp luật này đều xuất phát từ một nguồn - đó là luật hiến pháp.
Đối với hoạt động thương mại quốc tế, luật quốc gia áp dụng thông thường là
luật của nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật
của nước thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ hợp đồng
được thực hiện… Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT
trong các trường hợp:
- Các bên ký hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp
đồng. Việc thoả thuận áp dụng luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng phải được
ghi trong hợp đồng MBHHQT.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT được quy định
trong các điều ước quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia đương nhiên trở
thành luật áp dụng cho các hợp đồng đó. Thông thường, luật quốc gia áp dụng sẽ là luật
của nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước
thứ ba, luật nơi ký kết hợp đồng, luật của nước mà các bên mang quốc tịch,…

17


1.3.1.2. Điều ước quốc tế
Theo Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế: “Điều ước quốc tế là
tất cả các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”.
Vậy có thể nói, điều ước quốc tế về thương mại là sự thoả thuận bằng văn bản giữa
hai hoặc nhiều quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc
tế, nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong
quan hệ thương mại quốc tế.
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc tế có
một số điều ước quốc tế tiêu biểu:
Điều kiện chung về giao hàng giữa các tổ chức kinh tế của các nước thành

viên Hội đồng tương trợ kinh tế (ĐKCGHSEV 1968/1988) điều chỉnh quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Một điều ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực MBHHQT là công ước Viên
về mua bán hàng hoá quốc tế ngày 1/1/1980. Đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn
công ước này.
Quy tắc La Hay ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế.
Công ước Rôma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
được ký tại Rôm ngày 19/6/1980.
Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được ký ở
Mehico City ngày 17/5/1994, được thông qua bởi Hội nghị quốc tế Liên Mỹ về tư
pháp quốc tế tổ chức tại Mehico City.
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 60 Hiệp định thương mại song
phương. Trong đó phải kể đến: Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là
hiệp định thương mại chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng
hoá, điều khoản liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng.
Việc ký kết các hiệp định thương mại, là thành viên của các công ước quốc tế sẽ tạo
cơ sở pháp lý thuận lợi và thống nhất cho hoạt động MBHHQT giữa các thương
nhân Việt Nam với các thương nhân nước ngoài.
1.3.1.3. Tập quán thương mại, thói quen thương mại
Các tập quán thương mại quốc tế hình thành từ rất lâu đời. Các tập quán này
sẽ trở thành nguồn luật đìều chỉnh các hợp đồng MBHH, nhất là hợp đồng
MBHHQT nếu các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng chấp nhận các tập quán
thương mại quốc tế sẽ là nguồn luật điều chỉnh.

18


Khi được dẫn chiếu vào hợp đồng MBHH, hợp đồng MBHHQT các tập quán
thương mại sẽ có hiệu lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể ký kết, chúng được

chia thành nhóm: Các tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại
quốc tế chung và các tập quán thương mại khu vực. Ví dụ, một tập quán thông dụng
trong mua bán quốc tế được Phòng Thương mại quốc tế (The International Chamber
of Commerce - ICC) soạn thảo và ban hành một tập quán thông dụng trong mua bán
quốc tế là Incoterms.
Trong mua bán hàng hóa quốc tế, án lệ hay tiền lệ pháp về thương mại cũng
được các thương nhân tham gia ký kết hợp đồng thương mại quốc tế coi trọng và
lựa chọn, đặc biệt là ở các quốc gia theo hệ thống thông luật (Common law). Trong
thương mại quốc tế, việc công nhận và sử dụng các phán quyết của toà án cũng như
thừa nhận vai trò tích cực của án lệ đang ngày một gia tăng tại các nước có hệ thống
pháp luật khác nhau. Cơ quan xét xử có thể vận dụng án lệ tương tự để giảm nhẹ
những khó khăn phức tạp trong việc tra cứu, mà các tranh chấp trong hoạt động
thương mại quốc tế thường tập trung vào một số vấn đề và có nhiều trường hợp
tương đồng.
1.3.2. Nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định
tại tiểu mục 1 từ điều 385 đến điều 400 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, điều 385 quy
định về khái niệm hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”. Các nội dung cụ thể như sau:
- Về đề nghị giao kết hợp đồng MBHH được quy định tại điều 386: “Đề nghị
giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc
về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng
(sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Điều luật cũng quy định: ‘Trường hợp đề
nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp
đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi
thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có
thiệt hại phát sinh” (Khoản 2, Điều 386)
Về thông tin trong giao kết hợp đồng (điều 387) quy định: Trường hợp một
bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì
phải thông báo cho bên kia biết. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật

của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin
và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục

19


đích trái pháp luật khác. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (điều 388) được xác
định như sau: (i) Do bên đề nghị ấn định; (ii) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề
nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị
đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
(i) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; (ii) Đề nghị được đưa vào hệ
thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii) Khi bên được đề nghị biết
được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
- Về thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 389), theo đó, bên đề
nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong
trường hợp sau đây: (i) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi
hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; (ii) Điều kiện
thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về
việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Khi bên đề nghị
thay đổi nội dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới.
- Việc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 390): Bên đề nghị giao kết
hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên được
đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông
báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Theo Điều 391 đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau
đây: (1). Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng; (2). Bên được đề nghị trả

lời không chấp nhận; (3). Hết thời hạn trả lời chấp nhận; (4). Khi thông báo về việc
thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; (5). Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị
có hiệu lực; (6). Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời
hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện
hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (Điều 392).
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 393). Theo đó, chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ
nội dung của đề nghị; Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp

20


nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen
đã được xác lập giữa các bên.
Về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được quy định ở Điều 394,
theo đó, khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng
nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị
mới của bên chậm trả lời. Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả
lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý. Trường
hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên
đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý
với chấp nhận đó của bên được đề nghị. Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể
cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị
phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao

kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung
giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị.
Trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó
chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội
dung giao kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị.
Về rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng (Điều 397) Bên được đề
nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu
thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận
được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng được quy định tại Điều 398. Theo đó, các bên trong
hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng. Hợp đồng có thể có các
nội dung sau đây: (a) Đối tượng của hợp đồng; (b) Số lượng, chất lượng; (c) Giá,
phương thức thanh toán; (d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
(đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên; (e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; (g) Phương
thức giải quyết tranh chấp.

21


×