Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.66 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

ĐẶNG HUY CƯỜNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

ĐẶNG HUY CƯỜNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH)

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Cao Thị Oanh

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Huy Cường


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG .................................................... 8
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG ..........................................................8

1.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra ..................................................... 8
1.1.2. Khái niệm tội phạm về tham nhũng ............................................. 22
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng ........ 26
1.1.4. Vai trò của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng...................................... 30
1.2. CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
THAM NHŨNG ...................................................................................................32
1.2.1. Bảo đảm pháp lý .......................................................................... 32
1.2.2. Sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và sự thống nhất trong
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân ...... 34
1.2.3. Bảo đảm về tổ chức ...................................................................... 35
1.2.4. Các bảo đảm khác........................................................................ 36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 38


Chương 2. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ
PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH TỪ
NĂM 2009 ĐẾN 2013 .............................................................................. 39
2.1. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG ..................39
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra ..................................................................... 40
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra ................................................................ 51

2.2. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI, CƠ CẤU TỔ CHỨC, ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM VỀ THAM NHŨNG Ở TỈNH QUẢNG NINH ..................................53
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Ninh có ảnh
hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng ............................. 53
2.2.2. Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Quảng Ninh ........................................................................................... 56
2.2.3. Tình hình tội phạm tham nhũng ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến
năm 2013................................................................................................ 58
2.3. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH.......................64


2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của
Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân .................. 64
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân ...................................... 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 78
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH .................................. 79
3.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
THAM NHŨNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG
NINH .....................................................................................................................79
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM

SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
THAM NHŨNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG
NINH .....................................................................................................................81
3.2.1. Nhóm giải pháp chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng ........ 81
3.2.2. Nhóm giải pháp về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân
ở tỉnh Quảng Ninh ................................................................................. 94
KẾT LUẬN ............................................................................................... 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 106


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

:


Cơ quan điều tra

QCT

:

Quyền công tố

KSND

:

Kiểm sát nhân dân

KSV

:

Kiểm sát viên

KSHĐTP

:

Kiểm sát hoạt động tư pháp

TNHS

:


Trách nhiệm hình sự

TTHS

:

Tố tụng hình sự

THQCT

:

Thực hành quyền công tố

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKS

:

Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Số vụ và người phạm tội tham nhũng bị khởi tố trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh từ năm 2009 - 2013 .................................................................. 58
Bảng 2.2: Số vụ và người phạm tội tham nhũng bị khởi tố theo từng tội danh
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 – 2013 ....................................... 59


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang tính lịch sử.
Sự hình thành, phát triển của tệ nạn tham nhũng nói chung và tội phạm về
tham nhũng nói riêng gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát
triển của bộ máy nhà nước. Tội phạm về tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc
gia trên thế giới, tồn tại ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ra những hậu
quả hết sức nguy hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, cản trở sự phát
triển đi lên của xã hội, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế.
Do vậy, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được coi là nhiệm vụ cần
thiết và cấp bách của mọi Nhà nước.
Hơn hai mươi lăm năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đem lại
nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đời sống
mọi mặt của nhân dân được nâng cao và không ngừng được cải thiện. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, nạn tham nhũng cũng
phát triển và có xu hướng gia tăng. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
tăng trưởng, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, ảnh hưởng đến đạo
đức, lối sống, xã hội, đến sự ổn định của chế độ chính trị của quốc gia.
Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật quan trọng như: Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự,
Luật Phòng, chống tham nhũng... tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thuận lợi
cho việc phòng, chống, ngăn chặn và trừng trị các hành vi tham nhũng. Các
cơ quan tư pháp, trong đó có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân đã kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các

tội phạm tham nhũng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đấu tranh chống loại tội
phạm này rất khó khăn vì người phạm tội là những người có chức vụ quyền

1


hạn, có trình độ cao và có nhiều mối quan hệ kể cả với cán bộ làm trong các
cơ quan tư pháp, có khả năng che giấu tội phạm…, từ đó gây không ít khó
khăn cho công tác điều tra, truy tố. Do đó, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng là rất cần thiết, góp phần
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay.
Cùng với những thành tựu của đất nước sau hơn 25 năm đổi mới, tỉnh
Quảng Ninh đã có sự phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng
mạnh, chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, trật tự, an toàn xã
hội được giữ vững, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả tích cực, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã
tác động không nhỏ đến mọi mặt của đời sống xã hội của tỉnh Quảng Ninh, đó
là tình hình tội phạm và các loại tệ nạn xã hội gia tăng, đặc biệt là các loại tội
phạm tham nhũng.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án tham nhũng nói riêng
là một hoạt động quan trọng của quá trình đấu tranh phòng và chống tội
phạm của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Quảng Ninh. Trong những
năm qua, hoạt động này đã thu được những kết quả to lớn, nên về cơ bản,
ngành Kiểm sát Quảng Ninh thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ
án tham nhũng ở tỉnh Quảng Ninh không phải không có những hạn chế bất

cập nhất định. Mặt khác, trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, các
quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng đã bộc lộ những
hạn chế nhất định, chưa phù hợp với thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu cầu

2


của công tác đấu tranh phòng, chống loại tội này hiện nay. Thực tiễn đấu
tranh phòng và chống tội phạm về tham nhũng gặp khá nhiều vướng mắc, bất
cập cần được nghiên cứu và khắc phục.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
nhũng (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)”, để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ tốt nghiệp khóa học cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học và các cơ quan chức năng như Bộ Công an, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao liên quan đến vấn đề thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự và tội phạm tham nhũng. Có thể phân loại các công trình
trên thành hai nhóm sau đây:
Một là, nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp gồm:
- “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố
ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thực hiện năm 1999.
- “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hiện năm 1998.
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai

đoạn điều tra”, do Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp năm 2008.
- “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ khoa học Luật học năm
2002 của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa, Viện Nhà nước và pháp luật.

3


- “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp”, của tác giả Hà Mạnh Trí, trên
tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/2003.
- “Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát theo yêu cầu
cải cách tư pháp”, của tác giả Nguyễn Duy Giảng, trên tạp chí Kiểm sát số 14
và 16 năm 2008.
- “Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố, gắn
công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của tác giả
Trần Công Phàn, trên tạp chí Kiểm sát tháng 01 năm 2012.
- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
các vụ án buôn bán người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Vũ Trọng Lĩnh, Học viện Chính trị –
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Hai là, nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm về Tham
nhũng gồm:
- “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng chống các
tội tham nhũng”, Luận án tiến sỹ khoa học Luật học năm 2004 của tác giả
Trần Công Phàn, Viện Nhà nước và pháp luật.
- “Đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta”, Đề tài của Ban Nội chính
Trung ương, năm 1998.
- “Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc”, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2009.

- “Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của
luật phòng, chống tham nhũng”, của tác giả Đinh Văn Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, 2005.
- “Tham nhũng nhận diện từ khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý mới
của đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta”, của GS.TS. Đào Trí Úc, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 9 năm 1996.

4


- “Bàn về mô hình cơ quan chuyên trách về chống tham nhũng Bộ
Công an”, của PGS.TS. Trần Đình Nhã, TS. Trần Vi Dân, Tạp chí Công an
nhân dân (CAND), 2006.
- “Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới”, của GS,TS
Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS. Nguyễn Hoà Bình, TS. Bùi Minh Thanh, Nxb.
Công an nhân dân, 2007.
- “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay”, của tác giả Phan Xuân Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010.
- “Bàn thêm về vấn đề đấu tranh phòng, chống tham nhũng” của
Nguyễn Mạnh Kháng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 năm 1997.
Các công trình, bài viết trên đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra các vụ án tham nhũng. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phương
pháp tiếp cận khác nhau nên kết quả nghiên cứu cũng ở những cấp độ, phạm
vi khác nhau. Trên thực tế, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra các vụ tham nhũng trên thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Luận văn này
là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề này ở cấp độ thạc sĩ. Các công trình
nghiên cứu đã được thực hiện là nguồn tư liệu phong phú cho tác giả thực
hiện luận văn tốt nghiệp cao học.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu đề tài:
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ
án tham nhũng, Luận văn đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các
vụ án tham nhũng của ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

5


- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng, như khái
niệm, đặc điểm, vai trò của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng, những yếu tố ảnh hưởng
và các điều kiện đảm bảo trong hoạt động đó của Viện kiểm sát nhân dân.
+ Phân tích quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ
án tham nhũng và đánh giá thực trạng công tác này của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Quảng Ninh từ 2009 đến năm 2013; phân tích làm rõ những kết
quả đã đạt được; những khó khăn, vướng mắc cũng như những hạn chế, bất
cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
+ Đề xuất các quan điểm, giải pháp khả thi để bảo đảm thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ
án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh đúng pháp
luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Về cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
6


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
bảo đảm hoạt động giám sát của cơ quan Viện kiểm sát; các nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phòng, chống tham nhũng.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp lôgic, phương
pháp xã hội học, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, tổng kết
thực tiễn...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Quảng Ninh. Ở mức độ nhất định, những kết quả nghiên cứu của
Luận văn và những đề xuất, giải pháp bảo đảm cho công tác này đúng pháp
luật và hiệu quả cao, có thể được sử dụng nghiên cứu, tham khảo trong hoạt
động thực tiễn của ngành Kiểm sát.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận

văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng
Chương 2: Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
các vụ án tham nhũng và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
từ năm 2009 đến năm 2013
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
nhũng của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG

1.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Trong lịch sử xã hội loài người, quyền công tố xuất hiện gắn với sự ra
đời của Nhà nước và Pháp luật. Trong bất kỳ xã hội nào, khi đã xuất hiện Nhà
nước, bên cạnh lực lượng thống trị xã hội luôn luôn tồn tại một hoặc nhiều lực
lượng bị thống trị có thái độ, hành động thù địch chống lại lực lượng thống
trị, biểu hiện ở những hành vi vi phạm pháp luật đến mức nguy hiểm đe dọa

quyền thống trị của Nhà nước. Muốn trừng trị kẻ vi phạm thì phải buộc tội
được họ. Quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công quyền thực hiện sự
buộc tội này chính là quyền công tố. Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện quyền
công tố, nội dung quyền công tố và phạm vi thực hiện quyền này được quy
định rất khác nhau ở mỗi quốc gia. Ngay trong một Nhà nước cụ thể, ở mỗi
giai đoạn phát triển có thể có những thay đổi nhất định trong việc tổ chức, xác
định phạm vi quyền công tố.
Ở Việt Nam, hệ thống VKSND được thành lập ngày 26 tháng 7 năm
1960, bên cạnh chức năng chủ yếu khi đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, Viện kiểm sát thực hiện hoạt động “truy tố trước Toà án nhân dân
những người phạm pháp hình sự” (điểm b Điều 3 của Luật Tổ chức VKSND
8


năm 1960). Như vậy chức năng công tố được Viện kiểm sát thực hiện ngay từ
khi thành lập. Nhưng khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công
tố” lần đầu tiên được xuất hiện cùng với việc ban hành Hiến pháp 1980, bên
cạnh khái niệm truyền thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”. Từ đó đến
nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến hai khái niệm này, song
vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Có thể khái quát một
số quan điểm chính sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, mọi hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Những người theo quan điểm này
cho rằng công tố không phải là chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ
là một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [28,
tr85-87].
Quan điểm thứ hai cho rằng, QCT là quyền của Nhà nước giao cho
Viện kiểm sá truy tố một kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện sự buộc tội tại
phiên toà [37, tr19]. Theo họ, QCT chỉ có trong tố tụng hình sự và cũng chỉ

diễn ra ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Quan điểm thứ ba cho rằng, QCT là quyền đại diện cho Nhà nước đưa
các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích
Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Đây là quan điểm chính thống của ngành
kiểm sát giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985, được đưa vào chương trình
giảng dạy của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội. [28,tr.84-87].
Quan điểm thứ tư cho rằng, QCT là quyền của Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội [37, tr10]. Theo quan điểm này, không chỉ Viện kiểm sát mà
các cơ quan khác tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Toà án đều được
thực hiện QCT.

9


Quan điểm thứ năm cho rằng, Công tố là sự cáo buộc của Nhà nước
với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hành chính, dân sự,
kinh tế và luật hình sự [37, tr.11]. Theo quan điểm này, QCT không chỉ được
thực hiện trong tố tụng hình sự mà còn được thực hiện trong tố tụng dân sự,
kinh tế, lao động và hành chính.
Quan điểm thứ sáu cho rằng: QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt
Nam là Viện kiểm sát nhân dân) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội [12, tr 40].
Trên đây là một số quan điểm khác nhau tồn tại khá phổ biến hiện nay
về khái niệm QCT. Mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý riêng. Tuy
vậy, theo ý kiến chúng tôi, các quan điểm từ thứ nhất đến thứ năm còn những
bất cập nhất định nhìn từ khía cạnh quy định của pháp luật, khoa học cũng
như thực tiễn, thể hiện: Hoặc là coi QCT chỉ là hình thức thực hiện chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến xem nhẹ bản
chất của QCT như là hoạt động độc lập của Viện kiểm sát được Nhà nước ủy
quyền; Hoặc là thu hẹp phạm vi QCT, chỉ bó gọn QCT trong giai đoạn truy
tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó hạn chế quyền hạn cũng như trách
nhiệm của Viện kiểm sát như là cơ quan có trách nhiệm chính trong truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; Hoặc là đánh đồng QCT với
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, dẫn đến mở rộng phạm vi QCT
sang cả lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ sáu về quyền công tố vì những
lý do sau:
Để xác định khái niệm QCT, theo chúng tôi cần lấy việc nghiên cứu
lịch sử Nhà nước và Pháp luật làm xuất phát điểm. Nhà nước ra đời luôn là

10


đại diện chính thức cho xã hội. Bất cứ xã hội nào cũng đều tồn tại hai nhóm
quan hệ xã hội cơ bản: Nhóm quan hệ thể hiện lợi ích công cộng và nhóm
quan hệ thể hiện lợi ích từng công dân. Nhà nước luôn có trách nhiệm bảo vệ
các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung và trừng phạt những hành vi
xâm phạm quan hệ xã hội này. Muốn trừng trị kẻ vi phạm phải buộc tội được
họ. Quyền nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội này chính là QCT. QCT
thực chất là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Để làm được điều đó, Nhà nước ủy quyền cho cơ quan cụ thể trong
bộ máy cơ quan nhà nước thực hiện quyền này. Cơ quan được giao nhiệm vụ
THQCT phải điều tra, xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó
truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.
Ngoài ra để hiểu rõ thêm về QCT, cần xem xét thêm khái niệm tư tố.
Tư tố và công tố là hai khái niệm cùng xuất hiện, tồn tại phát triển và có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tư tố là chế định pháp lý cho phép người bị hại

hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố chống lại người đã
thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân. Sự ra đời của chế định tư tố xuất phát từ quan niệm của người xưa
cho rằng việc bảo vệ các quyền và lợi ích của cá nhân bị người khác xâm hại
là quyền riêng tư của mỗi người, Nhà nước không cần thiết và không có trách
nhiệm phải can thiệp vào những việc đó. Trong điều kiện như vậy QCT chỉ
được sử dụng trong một phạm vi hạn hẹp nhằm bảo vệ các lợi ích có tính chất
công. Tuy nhiên thực tế cho thấy, để tiến hành một vụ án hình sự phải mất rất
nhiều thời gian, công sức, tiền của cho quá trình thu thập, cung cấp chứng cứ
cho Tòa án, điều này không phải ai cũng có điều kiện thực hiện. Mặt khác,
việc pháp luật cho phép người bị hại có quyền hòa giải với người phạm tội
dẫn đến có nhiều vụ án nghiêm trọng không bị xét xử và trừng phạt, không
đảm bảo sự công bằng trong xã hội. Chính từ thực tế này, cùng với sự phát

11


triển của xã hội, dần dần Nhà nước thấy cần can thiệp vào quá trình giải quyết
các vụ án tư tố, sử dụng QCT để bảo vệ trật tự và công bằng xã hội. Do vậy
quyền tư tố ngày càng thu hẹp, hầu hết ở các quốc gia quyền tư tố chỉ còn tồn
tại ở một số tội và thông thường dừng lại ở việc người bị hại yêu cầu khởi tố
vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi thường thiệt hại, thực hiện việc buộc
tội bị cáo trước tòa và ngay cả trong các trường hợp này sự buộc tội của họ
cũng chỉ là phụ bên cạnh sự buộc tội của cơ quan công tố.
Từ những phân tích ở trên chúng tôi cho rằng, QCT là quyền của cơ
quan nhà nước được Nhà nước ủy quyền (ở Việt Nam Nhà nước ủy quyền cho
Viện kiểm sát), nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án và đồng
thời bảo vệ sự buộc tội đó.
Về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố: Do còn tồn tại

nhiều quan điểm khác nhau về QCT nên cũng có nhiều quan điểm khác nhau
về đối tượng, nội dung và phạm vi của QCT. Với nhận thức về QCT như đã
nêu ở trên, chúng tôi quan niệm: Đối tượng của QCT chỉ là tội phạm và người
phạm tội. Nội dung của QCT chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện
tội phạm. Phạm vi QCT bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc
khi bản án đã có hiệu lực pháp luật.
1.1.1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
THQCT ở giai đoạn điều tra là một bộ phận cấu thành hoạt động
THQCT của VKSND. Bởi vậy, để đi đến khái niệm thống nhất về THQCT
trong giai đoạn điều tra, làm rõ đối tượng, nội dung và phạm vi của hoạt động
này, trước hết cần làm rõ một số vấn đề về THQCT nói chung, đó là khái
niệm, đối tượng, nội dung và phạm vi của THQCT.
- Khái niệm thực hành quyền công tố:
Như đã phân tích ở trên, QCT là quyền của Nhà nước, gắn liền với bản
chất Nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Phạm vi của QCT bắt đầu từ

12


khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi
có một trong những căn cứ làm triệt tiêu QCT theo quy định của pháp luật. Để
bảo đảm thực hiện QCT trong thực tế đấu tranh chống tội phạm, Nhà nước
ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Cơ
quan nào được Nhà nước giao thực hiện các quyền năng pháp lý này để phát
hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được
gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT. Ở nước ta, đó là hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát.
Từ những nhận thức trên, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng
“Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung QCT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [37, tr.27].
- Phạm vi thực hành quyền công tố:
Để xác định phạm vi THQCT, cần xem xét đến phạm vi của QCT, bởi
QCT là cơ sở, nền tảng để THQCT. Như đã đề cập ở phần trên, QCT phát
sinh ngay khi có tội phạm xảy ra, do đó về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm
xảy ra là đòi hỏi QCT phải được phát động. Song, để có cơ sở phát động QCT
phải có một giai đoạn chuẩn bị để thu thập tài liệu, chứng cứ về tội phạm xảy
ra như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, tiến hành một số hoạt
động điều tra ban đầu trước khi khởi tố vụ án như: khám nghiệm hiện trường,
lấy lời khai của những người có liên quan hoặc những người biết về vụ việc…
Và khi các tài liệu thu thập được xác định có dấu hiệu của vụ án hình sự thì
Viện kiểm sát bắt đầu THQCT bằng việc tự mình khởi tố hoặc yêu cầu Cơ
quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án. Trường hợp việc khởi tố vụ án do
Cơ quan điều tra hoặc các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra thì phải được sự đồng ý của Viện kiểm sát. Trên thực tế, có
không ít tội phạm xảy ra nhưng không được phát hiện để khởi tố (Khoa học

13


pháp lý gọi là tội phạm ẩn). Yêu cầu phát hiện kịp thời và khởi tố điều tra mọi
hành vi phạm tội đương nhiên là vấn đề có tính nguyên tắc. Bởi vì, Nhà nước
có trách nhiệm nhân danh xã hội truy cứu TNHS đối với mọi người phạm tội.
QCT luôn “treo trên đầu” đối với tất cả những ai đã thực hiện hành vi phạm
tội nhưng chưa bị phát hiện để khởi tố điều tra. Điều này có nghĩa là, phạm vi
QCT bao giờ cũng rộng hơn phạm vi THQCT. Về mặt nguyên tắc, phạm vi
QCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra (vì lúc đó đã xuất hiện mối quan hệ
giữa Nhà nước với người phạm tội) và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đã đạt được
thông qua bản án có hiệu lực pháp luật). Trên thực tế, không phải trường hợp

nào QCT cũng kéo dài đến khi bản án có hiệu lực pháp luật mà quyền này có
thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật, đó là
các trường hợp Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, bị can…
Khi QCT chấm dứt thì THQCT cũng chấm dứt.
Từ nhận thức trên chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: Phạm vi
THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực
pháp luật hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS
[37, tr.31].
- Nội dung THQCT: Nội dung THQCT là những biện pháp được pháp
luật quy định mà VKS sử dụng để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2002, BLTTHS năm
2003, nội dung THQCT của VKSND gồm những biện pháp, như: khởi tố vụ
án; khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố
hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu
điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra theo qui định của BLTTHS; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy

14


bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết
định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo
qui định của BLTTHS; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can; quyết định truy tố bị can;
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, bị can.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát có rất nhiều quyền
năng pháp lý cụ thể để THQCT. Trong số đó, trừ quyền truy tố bị can ra toà là
quyền duy nhất của Viện kiểm sát, các quyền khác thì Cơ quan điều tra, Toà
án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra cũng có quyền thực hiện. Chính vì vậy, hiện vẫn tồn tại nhiều quan điểm
cho rằng, các cơ quan trên cũng THQCT.
Ở đây đã có sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố tụng với quyền của cơ
quan công tố. Chỉ có cơ quan sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mới là cơ quan
THQCT. Ở nước ta chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất THQCT, Cơ
quan điều tra chỉ là người hỗ trợ Viện kiểm sát đưa vụ án ra toà, Toà án chỉ
xét xử những tội phạm và những người phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố
[12, tr.46].
Với những phân tích trên có thể quan niệm, nội dung THQCT là việc
Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng tố tụng độc lập do pháp luật quy định
nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, không để lọt
người, lọt tội, không làm oan người vô tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên về khái niệm, phạm vi và nội
dung của THQCT, có thể đi đến kết luận về khái niệm, phạm vi và nội dung
của THQCT ở giai đoạn điều tra của VKSND như sau: THQCT trong giai
đoạn điều tra là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý

15


thuộc nội dung QCT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội,
được thực hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện kiểm sát quyết định
truy tố bị can ra trước Toà án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.1.3. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
KSHĐTP ở giai đoạn điều tra là một bộ phận cấu thành hoạt động
KSHĐTP trong TTHS của VKSND. Bởi vậy, để đi đến khái niệm thống nhất về
KSHĐTP trong giai đoạn điều tra, làm rõ đối tượng, nội dung và phạm vi của

hoạt động này, trước hết cần làm rõ một số vấn đề về KSHĐTP trong TTHS, đó
là khái niệm, đối tượng, nội dung và phạm vi của KSHĐTP trong TTHS.
- Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự:
Theo Từ điển Luật học thì: Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra,
giám sát, xem xét theo dõi việc tuân theo pháp luật với hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố
tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [33].
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một cơ chế giám sát từ bên ngoài các
hoạt động tư pháp. Ở nước ta chức năng đó thuộc về ngành Kiểm sát. Sự ra
đời, tồn tại và phát triển của ngành Kiểm sát ở nước ta gắn với quá trình xây
dựng và phát triển nhà nước Việt Nam và xuất phát từ quan điểm của
V.I.Lênin về Nhà nước và Pháp luật. Khi bàn về vai trò của kiểm tra và kiểm
sát, Lênin đã khẳng định vai trò của một nền pháp chế thống nhất và để bảo
đảm cho pháp chế thống nhất, chống lại tình trạng “cát cứ”, tình trạng pháp
chế của địa phương này khác với pháp chế của địa phương khác, cần phải có
cơ chế giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể (kể cả pháp nhân và cá
nhân), kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật trong hành vi và các
quyết định của các chủ thể.

16


Việc giao chức năng kiểm tra, giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động
của cả pháp nhân và cá nhân cho Viện kiểm sát, xuất phát từ chỗ Viện kiểm
sát do cơ quan lập pháp cao nhất của Nhà nước lập ra và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung thống nhất nên hoạt động của Viện kiểm sát độc lập so
với các cơ quan nhà nước khác.
Bắt đầu từ khi ra đời Hiến pháp năm 1960, VKSND không chỉ thực
hiện chức năng công tố mà còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trên các lĩnh vực hoạt động hành chính, kinh tế, xã hội và hoạt động
tư pháp. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung (năm 2001) với việc thu hẹp
phạm vi chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật, bỏ hoạt động kiểm sát chung
của VKS. Phạm vi còn lại của chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật được
thể hiện trong thuật ngữ mới là “kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Kiểm sát hoạt động tư pháp vừa là một hoạt động tư pháp (Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan tư pháp), vừa là hoạt động kiểm tra, giám sát từ bên
ngoài đối với hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp như cơ quan điều
tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án, của những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng. Nhằm bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm
minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội được bảo đảm một cách tốt nhất,
không bị vi phạm.
Trong tố tụng hình sự: Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân
theo pháp luật… bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách
nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi
phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào. Khi thực hiện nhiệm vụ
của mình, kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và sự lãnh đạo thống nhất của Viện

17


×