Tải bản đầy đủ (.doc) (1 trang)

Tình hình đất nước dưới thời Ngô (939-967)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.17 KB, 1 trang )

Tình hình đất nước dưới thời Ngô (939-967)
Sau khi đánh bại cuộc xâm lược lần thứ hai của quân Nam hán, với uy danh của chiến thắng Bạch Đằng,
năm 939, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chế độ tiết độ sứ, xây dựng triều đình mới, lấy Cổ Loa (Đông
Anh – Hà Nội) làm kinh đô, dựng cung điện.
Lăng Ngô Quyền hiện nay ở Đường Lâm, Ba Vì (Hà Tây)
Sử cũ không cho biết gì thêm về tổ chức nhà nước trung ương đương thời. Ở địa phương, các châu huyện
được giữ nguyên. Các thứ sử như Đinh Công Trứ tiếp tục cai quản châu của mình. Giáp, làng vẫn là những
đơn vị hành chính cơ sở. Bên cạnh các xóm làng cổ truyền có một số làng mới hình thành và một vài trang
trại. Những chủ trang trại có thể là quan chức cũ của chính quyền đô hộ, ở lại lập nghiệp lâu dài trên đất
nước ta như họ Hồ ở trang Bàu Đột (Quỳnh Lưu - Nghệ An), họ Lã ở Tiên Du (Bắc Ninh)...hoặc các thổ
hào địa phương như họ Dương Ở Dương Xá (Đông Sơn – Thanh Hóa), họ Lê ở Đông Sơn (Thanh Hóa)
v.v...
Tuy đã trải qua hơn 30 năm độc lập với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhưng những tàn dư của
chế độ đô hộ cũ vẫn còn nhiều, tình hình xã hội còn phức tạp. Sự thành lập của nhà Ngô với người đứng
đầu là Ngô Quyển chưa đủ điều kiện để giữ vừng sự ổn định lâu dài.
Năm 944, Ngô Quyền chết. Người em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng là Bình Vương. Con
trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập sợ liên lụy đã phải bỏ trốn khỏi kinh thành lên đất Trà Hương
(Kim Thành - Hải Dương) nương nhờ hào trưởng Phạm Lệnh Công. Mâu thuẫn trong dòng họ thống trị nảy
sinh. Năm 950, Ngô Xương Văn (em của Xương Ngập) được sự ủng hộ của các chỉ huy sứ Đỗ Cảnh Thạc
và Dương Cát Lợi đã nhân việc cầm quân đi đàn áp cuộc nổi dậy của các thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình
(Quốc Oai - Hà Tây), quay về kinh đô bắt Dương Tam Kha, giành lại chính quyền. Xương Văn tự xưng là
Nam tấn vương và cho người lên Trà Hương mời anh mình về cùng coi việc nước. Xương Ngập về, tự
xưng là Thiên sách vương, nắm hết quyền hành. Mâu thuẫn nội bộ nhà Ngô đã tạo điều kiện cho các thổ
hào, thứ sử địa phương nổi dậy, mộ quân, làm chủ vùng mình trấn trị, tách khỏi chính quyền trung ương.
Nguồn: Đại cương Lịch sử Việt Nam – Tập 1. Nhà Xuất bản Giáo Dục – Chủ biên G.S Trương Hữu
Quýnh. Tr 108-110
Triều Ngô (939-967) Ngô Quyền Phá Quân Nam Hán (897-944)
Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Đình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3 nǎm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (Ba
Vì, Hà Tây). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, một hào trưởng có tài. Lớn lên trên quê hương có truyền thống
bất khuất, nơi sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô Quyền sớm tỏ rõ chí khí
phi thường hiếm thấy. Vì có tài nên Dương Đình Nghệ giao cho Ngô Quyền cai quản đất A'i Châu và gả


con gái cho. Trong 5 nǎm (934-938), Ngô Quyền đã đem lại yên vui cho đất A'i Châu, tỏ rõ là người có tài
đức.
Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại, và vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn vương
Hoằng Tháo đem quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để trừ nội
phản, diệt ngoại xâm.
Tháng 12 nǎm Mậu Tuất (938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng.
Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền. Bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời
gian rất ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa, máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng
Tháo cũng bị đâm chết tại trận.
Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, đóng đo ở Cổ Loa (Hà Nội). Để củng cố
trật tự triều chính, Ngô Quyền đặt ra các chức quan vǎn võ, quy định nghi lễ trong triều. Đáng tiếc, thời tại
ngôi của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 nǎm (939-944) thì mất, thọ 47 tuổi.

×