Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Bộ câu hỏi va đáp án về Cải cách Hành chính thi nâng ngạch Chuyên viên và Chuyên viên chính 20192020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.63 KB, 89 trang )

– liên hệ 0973707875

UBND HUYỆN TỈNH TUYÊN QUANG
------------

BỘ CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
THI NÂNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN VÀ CHUYÊN VIÊN
CHÍNH NĂM 2019-2020

Tháng 12/2019
1


– liên hệ 0973707875

Câu 1: Theo anh/chị, nhiệm vụ hiện đại hóa hành chính: "Nâng cao chất
lượng chỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan hành chính thông qua việc
sử dụng hiệu quả mạng thông tin điện tử hành chính" trong Kế hoạch cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 ban hành theo Quyết định số
225/QĐ-TTG ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ có ý nghĩa như thế
nào đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Liên hệ với thực tế địa phương, anh/chị hãy đề xuất những biện pháp chủ
yếu để thực hiện có kết quả nhiệm vụ trên?
Trả lời
Ý 1: Khẳng định hiện đại hóa hành chính là một trong 6 nhiệm vụ quan
trọng của cải cách hành chính, trong đó "Nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều
hành hoạt động của cơ quan hành chính thông qua việc sử dụng hiệu quả
mạng thông tin điện tử hành chính" là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách để nâng
cao năng suất, chất lượng hành chính nhà nước.
Ý 2: Trìuh bày ý nghĩa của nhiệm vụ
- Ứng dụng công nghệ thông tin điện tử giúp chủ thể hành chính chỉ đạo,


điều hành hành chính đảm bảo yêu cầu chính xác, đầy đủ, kịp thời và bí mật
những thông tin hành chính
Xây dựng hệ thống thư điện tử, đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin, gửi
nhận văn bản trong các cơ quan nhà nước; thực hiện nghiêm túc việc gửi, nhận
văn bản qua hệ thống thư điện tử; thường xuyên hộp thư điện tử trong trao đổi
công việc; sử dụng phần mềm để quản lý văn bản đi - đến thay thế phương thức
thủ công trước đây, khắc phục tình trạng thất lạc văn bản. Bên cạnh đó, công tác
tập huấn, đào tạo kiến thức, kỹ năng sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin
cần được quan tâm; đào tạo theo hướng cầm tay chỉ việc, giúp cán bộ công chức
sử dụng thành thạo các phần mềm đã triển khai. Từ đó giúp chủ thể hành chính
chỉ đạo, điều hành hành chính đảm bảo yêu cầu chính xác, đầy đủ, kịp thời và bí
mật những thông tin hành chính.
Các thông tin trên Cổng, các trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị
phục vụ cho việc khai thác, cập nhật thông tin kịp thời của các cán bộ phục vụ
việc thực hiện công tác, cũng như trong hoạt động chỉ đạo điều hành nói riêng.
- Ứng dụng công nghệ hiện đại vào chỉ đạo, điều hành hành chính sẽ nhanh
chóng kết nối giữa chủ thể và đối tượng;
Việc triển khai thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện được
nhiệm vụ sẽ giảm thiểu thủ tục hành chính cho người dân. Vì vậy, việc ứng dụng
công nghệ thông tin cần được quan tâm và triển khai tích cực hơn để đạt hiệu
quả cao trong công việc, góp phần quan trọng vào công tác cải cách thủ tục hành
chính của cơ quan, đơn vị nhanh chóng kết nối giữa chủ thể và đối tượng.
- Ứng dụng thông tin điện tử hành chính sẽ tiết kiệm cho phí hành chính

2


– liên hệ 0973707875

Yếu tố quyết định mang đến hiệu quả của chương trình ứng dụng Công

nghệ thông tin vào quản lý Hành chính nhà nước phải xuất phát từ việc thiết lập
lại và thay đổi các quy trình, thay đổi cách thực hiện các thủ tục Hành chính,
thay đổi cách thức giao tiếp, làm việc giữa các cơ quan với nhau và giữa các cơ
quan với công dân, doanh nghiệp. Điều này sẽ tiết kiệm cho phí hành chính cho
cả nhà nước, người dân và doanh nghiệp
- Ứng dụng thông tin điện tử hành chính giúp đảm bảo tính khách quan,
bình đẳng giữa các đối tượng.
Ứng dụng Công nghệ thông tin trong công cuộc cải cách thủ tục hành
chính của nước ta phương tiện hiệu quả, nhanh, chính xác và kiểm soát tốt mọi
trì trệ, ách tắc của bộ máy sẽ lộ diện dễ dàng qua hệ thống "gương phản chiếu"
của môi trường điện tử hóa. Các hoạt động của bộ máy công quyền khi được
thực hiện trên môi trường điện tử sẽ được kiểm soát theo các chuẩn mực, tính kỷ
cương của nền hành chính, nhờ đó mà sẽ được giám sát. Nếu dịch vụ công được
cung ứng thông qua hệ thống công nghệ thông tin, ở đó sẽ không có ranh giới
giữa các cơ quan, các cấp chính quyền, mà chỉ thấy các loại dịch vụ được cung
ứng. Người dân, doanh nghiệp không cần biết ai là người giải quyết thủ tục cho
họ, chỉ biết thủ tục đó được giải quyết như thế nào và khi gặp những vướng mắc,
họ có được ai đó quan tâm, giải quyết không. Từ đó giúp đảm bảo tính khách
quan, bình đẳng giữa các đối tượng.
- Ứng dụng thông tin điện tử hành chính giúp hạn chế rủi ro đối với công
chức khi giải quyết các thủ tục hành chính
Hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng được quyết định bởi phần "ứng
dụng", tức là phần thiết lập các hệ thống thông tin, hệ thống các cơ sở dữ liệu,
các quy trình vận hành, và luân chuyển thông tin do bộ máy hành chính thực
hiện. Phần công nghệ gồm phần cứng, phần mềm, mạng, đào tạo sử dụng, chỉ là
phương tiện để chuyển các quy trình vận hành bằng phương thức hành chính
truyền thành quy trình quản lý hành chính bằng các phần mềm phương thức
hành chính bằng điện tử. Vì vậy, ứng dụng thông tin điện tử hành chính giúp
hạn chế rủi ro đối với công chức khi giải quyết các thủ tục hành chính.
Ý 3: Đề xuất biện pháp

- Thống nhất tư tưởng về hiện đại hóa hành chính
- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động công vụ
- Trang bị đồng bộ hệ thống công sở và thiết bị thông tin
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức
- Khuyến khích người dân tích cực sử dụng phương tiện thông tin kết nối
với chính quyền
- Giám sát chặt chẽ việc sử dụng hệ thống thông tin điện tử
Liên hệ với thực tế:
3


– liên hệ 0973707875

Chính phủ điện tử ở Việt Nam được xác định là một công cụ quan
trọng đối với cơ quan chính phủ nhằm thực hiện nhiệm vụ nhanh hơn,
thuận tiện hơn, tiết kiệm chi phí và tránh nảy sinh tiêu cực hơn giữa hoạt
động của các cơ quan chính phủ với người dân và doanh nghiệp
Liên Hợp Quốc vừa đánh giá sự tiến bộ của Việt Nam khi tăng hạng từ vị
trí thứ 90 thế giới năm 2010 lên thứ 83 năm 2012 về phát triển Chính phủ điện
tử; và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Singapore, Malaysia và Brunei).
- Thành tựu:
Hiện nay, đa số các cơ quan Nhà nước sử dụng thư điện tử trong hoạt động
chỉ đạo điều hành, tăng cường phương tiện điện tử thay cho giấy tờ. Nhiều cơ
quan sử dụng hệ thống quản lý văn bản và trao đổi văn bản trên môi trường
mạng, giúp năng suất lao động cao hơn, tiết kiệm thời gian, chi phí.
Theo Báo cáo của Cục Ứng dụng công nghệ thông tin, hiện tỷ lệ cán bộ ở
các cơ quan cấp bộ, cơ quan ngang bộ được trang bị máy tính là 88,5%; trong đó
88,37% máy tính kết nối Internet. Phần lớn các bộ và các tỉnh, thành phố có
trang/cổng thông tin điện tử riêng. Đây là nền tảng thúc đẩy phát triển Chính
phủ điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới. Việc xây dựng, phát triển Chính

phủ điện tử đã gắn với cải cách hành chính nhà nước, xây dựng Chính phủ điện
tử cấp chính quyền địa phương và góp phần cải thiện liên tục khả năng ứng dụng
công nghệ thông tin trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Báo cáo của Bộ Thông tin - Truyền thông cho biết: Năm 2012 tiếp tục đánh
dấu sự phát triển ứng dụng CNTT vào các hoạt động hành chính cũng như xây
dựng Chính phủ điện tử tại Việt Nam. Ðiều này được thể hiện qua các con số
như 96,6% các bộ, ngành có website riêng, 100% các tỉnh, thành phố có cổng
thông tin điện tử, 83,6% các thông tin chỉ đạo ban hành được đưa lên mạng.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin đã từ chuyển mức tin học hóa
hoạt động hành chính là chủ yếu sang việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở
cấp độ ngày càng cao. Hiện, có trên 89.000 dịch vụ công mức độ 1 và 2, 890
dịch vụ công mức độ 3 và 11 dịch vụ ở mức độ 4- mức độ cao nhất của hệ thống
Chính phủ điện tử, được cung cấp trực tuyến.
Các Bộ, ngành đã thiết lập Cổng Thông tin điện tử để cung cấp các văn bản
quy phạm pháp luật và thông tin về các lĩnh vực ngành mình quản lý, điển hình
là Thủ tướng Chính phủ đã thành lập website Chính phủ (ngày 7/11/2003) cung
cấp thông tin hoạt động chính sách, điều hành chính phủ.... Ban hành các khung
pháp lý cần thiết cho việc xây dựng Chính phủ điện tử như Luật Công nghệ
thông tin, Nghị định số 64/2007/NÐ-CP ngày 10/4/2007 về việc ứng dụng
CNTT trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
4


– liên hệ 0973707875

Hiện nay, từ người dân đến các doanh nghiệp đã có thể tiếp cận nhanh nhất,
trực tiếp và chính xác những văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ qua Cổng TTĐT Chính phủ. Đây là biểu hiện sinh động của
việc ứng dụng CNTT, cải cách hành chính cũng như thể hiện rõ nét về sự minh
bạch của Chính phủ và tâm thế sẵn sàng hướng tới Chính phủ điện tử.

Những kết quả trên là tiền đề phát triển Chính phủ điện tử theo chiều sâu
trong thời gian tới. Liên Hợp Quốc cũng vừa đánh giá Việt Nam ở vị trí thứ 83
thế giới về phát triển Chính phủ điện tử (trong khi năm 2005 Việt Nam ở vị trí
105, thứ 90 năm 2010) và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Singapore,
Malaysia và Brunei). Bên cạnh chỉ số Chính phủ điện tử, Việt Nam cũng có chỉ
số về cơ sở hạ tầng và nguồn lực con người cao hơn mức trung bình của thế giới
và khu vực.
Việc đánh giá xếp hạng dựa trên các chỉ số chính: sự sẵn sàng điện tử, đánh
giá web, nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở và sự tham gia điện tử. Sự phát triển về
Chính phủ điện tử này cũng được minh chứng bằng số lượng máy tính trang bị
tại các công sở, số công chức được đào tạo bài bản về ứng dụng CNTT, phần
mềm phục vụ cải cách hành chính tăng lên theo cấp số nhân qua từng năm.
Những dịch vụ công gắn liền với đời sống người dân mà việc phát triển
Chính phủ điện tử bước đầu mang lại là những tiến bộ rất đáng ghi nhận. Việc
Việt Nam được xếp hạng Chính phủ điện tử (tuy chưa như mong muốn) cao hơn
về xếp hạng kinh tế đã thể hiện rõ đường lối phát triển của nước ta là đúng đắn.
Liên hệ ở Hà Nội:
Từ ngày 10-8, 144 phường thuộc mười quận trên địa bàn TP Hà Nội
đã đồng loạt triển khai hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 ở lĩnh
vực tư pháp. Với tiện ích có thể đăng ký hồ sơ trực tuyến mọi nơi, mọi
lúc, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính từ 20 ngày xuống
còn năm ngày, hệ thống dịch vụ công trực tuyến được người dân và cả
đội ngũ cán bộ, công chức hào hứng đón nhận.
Đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian
Chỉ với chiếc máy tính kết nối mạng intenet đặt tại nhà, trong vòng chưa
đầy ba phút, anh Trần Văn Cầu, ở tổ 14, phường Phú Diễn, quận Bắc Từ
Liêm đã dễ dàng truy cập địa chỉ để thực hiện dịch
vụ công trực tuyến cho ba thủ tục gồm: giấy khai sinh, thẻ bảo hiểm y tế và
nhập hộ khẩu cho con. Hồ sơ đăng ký trực tuyến của anh Cầu đã nhanh
chóng nhận được phản hồi từ bộ phận “một cửa” UBND phường Phú Diễn

thông qua cổng hệ thống dịch vụ công trực tuyến thành phố. Anh Trần Văn
Cầu đánh giá, các thao tác trên máy rất đơn giản, dễ thực hiện và ngay khi
thực hiện thành công kết quả báo về hộp thư điện tử tôi đã đăng ký. Việc sử
dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 rất tiện ích, thay vì phải đi lại nhiều
5


– liên hệ 0973707875

lần như trước kia để làm ba thủ tục, giờ tôi chỉ cần ngồi nhà làm thủ tục liên
thông trực tuyến. Với những người bận rộn công việc hoặc phải đi công tác,
không thể trực tiếp đến các cơ quan công quyền, việc đăng ký trực tuyến là
một giải pháp tối ưu, hỗ trợ người dân rất nhiều.
Dù được nghe tuyên truyền trước đó cả tháng trên hệ thống loa truyền
thanh về việc triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, song sáng 10-8
khi ra phường làm thủ tục khai sinh cho cháu, ông Nguyễn Văn Hải, tổ dân
phố Thượng Cát 3, phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm không khỏi ngỡ
ngàng. Tuổi đã cao, không có thói quen sử dụng máy tính, cho nên khi thấy
bộ phận “một cửa” của phường được đặt thêm hai bàn làm việc cùng một dàn
máy tính để phục vụ công dân kết nối trực tuyến, ông ngại ngùng không biết
bắt đầu từ đâu. Tuy nhiên, nỗi lo lắng của ông nhanh chóng được giải tỏa khi
các tình nguyện viên là đoàn viên thanh niên trong phường nhiệt tình hướng
dẫn, truy cập giúp vào cổng dịch vụ công trực tuyến để kê khai các thông tin
cần thiết. Chưa đầy mười phút, mọi thủ tục đã hoàn tất. Trao đổi với chúng
tôi, ông Hải vui vẻ cho biết: Nhờ có hướng dẫn từ trước nên hôm nay tôi
mang đủ các giấy tờ đi khai sinh cho cháu và được các cháu tình nguyện viên
ở đây nhập một lần là xong thủ tục. Theo hẹn, năm ngày nữa là tôi được nhận
kết quả và nếu cần, hồ sơ của tôi sẽ được trả tại nhà. Tôi thấy đây là dịch vụ
rất tốt, thuận lợi cho người dân và tôi mong thành phố tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính, mở rộng sang các dịch vụ công khác để thuận lợi hơn, giúp

người dân đỡ phải mất thời gian đi lại nhiều.
Tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân
Sau khi thí điểm triển khai tại hai quận Nam Từ Liêm và Long Biên, việc
đưa vào triển khai hệ thống dịch vụ công mức độ 3 cấp phường, lĩnh vực tư
pháp, tại 144 phường của mười quận còn lại trên địa bàn Hà Nội đã cho phép
công dân có thể đăng ký hồ sơ trực tuyến mọi lúc, mọi nơi và được hỗ trợ
thông tin trực tuyến. Trước mắt, người dân có thể thực hiện dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3 về các thủ tục hành chính liên thông liên quan tới đăng ký
khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới sáu tuổi;
đăng ký khai tử. Để vận hành hiệu quả thông suốt hệ thống dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3 cấp phường, nửa tháng qua, hơn 600 cán bộ cấp phường trực
tiếp tham gia quy trình đã được đào tạo lại bảo đảm sử dụng thành thạo công
nghệ thông tin và nắm vững quy trình, giải pháp bảo mật thông tin của hệ
thống. Sở Thông tin và Truyền thông đã phối hợp cùng Sở Tư pháp, các bên
có liên quan lắp đặt hạ tầng mạng, cung cấp thiết bị máy móc, cài đặt phần
mềm, hỗ trợ kỹ thuật cho các phường, nhằm bảo đảm vận hành thông suốt hệ
thống dịch vụ công trực tuyến tại 144 phường.
Tại quận Bắc Từ Liêm, để việc triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ
3 đạt hiệu quả cao, quận đã chủ động rà soát lại toàn bộ cơ sở hạ tầng, trang
thiết bị tại 13 phường. Quận đã bố trí một máy tính có nối mạng in-tơ-nét đặt
tại bộ phận “một cửa” hoặc phòng thuận tiện, tùy theo địa bàn của từng
phường, để người dân đến sử dụng. Quận thành lập tổ tình nguyện gồm hàng
6


– liên hệ 0973707875

trăm cán bộ, công chức và đoàn viên thanh niên để giúp người dân nhập trực
tiếp hồ sơ trực tuyến khi đến nộp thủ tục tại bộ phận “một cửa”. Tình nguyện
viên Lê Hồng Thúy, ở phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm chia sẻ:

Phường Thượng Cát có 15 đoàn viên tham gia tình nguyện hướng dẫn người
dân làm thủ tục trực tuyến công mức độ 3 đợt này. Các tình nguyện viên đã
được tập huấn nghiệp vụ đầy đủ, từ sử dụng phần mềm, thao tác trên máy,
nắm chắc các thủ tục giấy tờ cần thiết với từng loại dịch vụ công để có thể
hướng dẫn công dân một cách chính xác nhất.
Những ngày đầu triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 cho thấy,
đội ngũ lãnh đạo mười quận, nhất là hơn 600 cán bộ phường trực tiếp tham
gia vận hành hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã rất nỗ lực vào
cuộc, nắm bắt quy trình và kỹ năng sử dụng phần mềm để việc triển khai đạt
hiệu quả. Do làm tốt công tác tuyên truyền, cho nên ngay trong ngày đầu tiên
đã có nhiều hồ sơ được đăng ký, chạy trên hệ thống mới. Một số vướng mắc
từ thực tiễn đã được phát hiện để kịp thời điều chỉnh như sự tương thích của
phần mềm, cách xuất báo cáo, tiếp nhận hồ sơ, hệ thống cảnh báo hồ sơ,
trang thiết bị, cấp tài khoản...
Việc triển khai rộng rãi hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã
phát huy hiệu quả bước đầu, góp phần cụ thể hóa ba tiêu chí của cải cách
hành chính là giảm thời gian giải quyết, giảm số lượt đi lại của công dân và
giảm hồ sơ giấy tờ. Đến cuối năm nay, tất cả các xã, phường, thị trấn của 30
quận, huyện, thị xã trên toàn địa bàn TP Hà Nội sẽ áp dụng dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, góp phần tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân trong các
giao dịch hành chính.

Hạn chế:
Vấn đề an ninh mạng và nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng
cao vận hành Chính phủ điện tử vẫn là vấn đề cấp bách. Nhận thức của cán bộ,
công chức về an ninh mạng còn khá kém, nhiều cán bộ xem nhẹ những lỗ hổng
về bảo mật…
Phần lớn nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin tại các cơ quan hiện nay
phục vụ nhu cầu cục bộ của mỗi cơ quan, thiếu sự kết nối với nhau. Vì vậy, Việt
Nam đang tích cực hiện thực hóa một số công việc để xây dựng Chính phủ điện

tử như xây dựng một chính phủ kết nối giữa người dân, doanh nghiệp và cơ
quan nhà nước bằng cách truy cập thông tin dịch vụ trên internet mọi lúc, mọi
nơi; hỗ trợ thanh toán điện tử; chia sẻ thông tin giữa các cơ quan; xây dựng hệ
thống thông tin quản lý văn bản tích hợp trong toàn quốc….

7


– liên hệ 0973707875

Tuy nhiên, trước khi người dân sử dụng hiệu quả các dịch vụ công trực
tuyến, cần có các biện pháp để đội ngũ cán bộ, công chức tích cực hơn nữa trong
việc sử dụng phương tiện điện tử để giải quyết công việc.
Nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí và tính quan liêu trong
hành chính, một số nước đã xây dựng các mô hình Chính phủ điện tử cho phép
công dân thực hiện các thủ tục hành chính, đăng ký cấp phép, trả các loại phí,
thuế… thông qua trang/cổng thông tin điện tử hoặc điểm truy cập điện tử mà
không cần phải đến trực tiếp cơ quan quản lý. Việc lưu trữ các văn bản cũng
được thực hiện bằng phương thức lưu trữ điện tử, hủy văn bản giấy…
Ngoài việc tiếp tục rà soát lại danh mục các đề án cơ sở dữ liệu quốc gia,
phát huy các cơ sở dữ liệu địa phương, tăng cường sử dụng email công vụ....
phục vụ công việc, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng chính quyền các địa
phương cần nghiên cứu, triển khai các giải pháp để người dân tiếp cận nhiều hơn
với Internet và các địa chỉ giải quyết thủ tục hành chính.
Các nhân tố đảm bảo hiệu quả ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà
nước:
- Phát triển niềm tin vào các cơ quan nhà nước: Một bài học lớn nhất trong
tiến trình lấy được lòng tin của người dân là sự cam kết quyết tâm của cấp lãnh
đạo. Các lãnh đạo luôn phải cố gắng thực hiện những cam kết của mình với
công dân. Điều này rất quan trọng, bởi khi bạn đã mất lòng tin một lần thì sẽ mất

rất lâu để xây dựng lại nó.
- Phát triển niềm tin về CNTT: Việc xây dựng niềm tin vào CNTT nới là
điều kiện đủ nhằm xây dựng thành công Chính quyền điện tử. Công dân phải
thấy được những lợi ích khi áp dụng những công nghệ mới vào trong cuộc sống
của họ.
- Xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ công điện tử: Xây dựng một Cổng
thông tin điện tử dùng chung cho tất cả các dịch vụ công. Điều này giúp cho
người dân và doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm và thực hiện các dịch vụ nhanh
chóng. Các cơ quan hành chính cũng thuận lợi trong vấn đề ban hành chính sách
hay thông báo qua cổng thông tin này.
- Điểm quan trọng quyết định thành công trong việc ứng dụng CNTT trong
các đơn vị hiện nay đó là vai trò người lãnh đạo, người lãnh đạo cần đi đầu làm
gương trong việc ứng dụng CNTT.
- Xây dựng hạ tầng CNTT đồng điều giữa các vùng miền. CNTT có thể là
bàn đạp giúp cho các địa phương thoát khỏi lạc hậu và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân.
8


– liên hệ 0973707875

- Thiết lập các ứng dụng đơn giản và thân thiện với người dân: CNTT và
TT càng phát triển, mức độ phức tạp ngày càng gia tăng, con người ngày càng
đạt được nhiều thành tựu mới. Tuy nhiên, những cổ máy quá phức tạp, không
thân thiện với con người sẽ là rào cản cho việc triển khai các ứng dụng vào trong
cuộc sống. Giao diện càng thân thiện càng dễ sử dụng và dễ phổ biến đối với tất
cả mọi người và được chấp nhận nhanh chóng. Trong chính phủ điện tử cũng
vậy, bất cứ dự án nào dù đột phá tới đâu nhưng khó tiếp cận đối với người dân
sẽ đều đi đến những thất bại.
- Tận dụng những phương tiện truyền thông cơ bản và thân thiện với người

dân như tivi, radio, truyền thanh không dây và điện thoại di động. Hầu hết mọi
người đều tiếp cận và sử dụng chúng như một phương tiện không thể thiếu trong
cuộc sống. Thông qua những phương tiện cơ bản này, mọi gia đình và cá nhân
đều có khả năng tiếp cận thông tin về các dịch vụ công của các cơ quan nhà
nước.
Những thách thức trong triển khai ứng dụng CNTT:
- Ngân sách đầu tư tại địa phương: Ngân sách tại địa phương dành cho triển
khai CPĐT đến chủ yếu từ ngân sách nhà nước, hoàn toàn thiếu sự chủ động của
các địa phương, các sở ban ngành trong việc tạo lập ngân sách dành riêng cho
ứng dụng CNTT tại đơn vị.
- Đồng bộ hóa hạ tầng CNTT: để có thể phát triển được các dịch vụ thông
tin và TT mọi nơi, mọi lúc, việc phát triển mạng lưới, hạ tầng CNTT và TT
trong toàn tỉnh và kết nối băng thông rộng cố định và di động tới mọi người dân
được xác định cần đi trước một bước. Hạ tầng CNTT kém phát triển là một
trong những nguyên nhân tạo ra sự kém cạnh tranh của hầu hết các ngành kinh
tế.
- Trình độ ứng dụng CNTT: Tỷ lệ cán bộ công chức có thể sử dụng máy
tính tương đối cao khoảng 80%. Tuy nhiên, số lượng và trình độ cán bộ chuyên
trách về CNTT còn hạn chế, đặc biệt tại các huyện thành phố và các sở ban
ngành, nhiều cán bộ đang làm việc theo hình thức kiêm nhiệm, chưa đáp ứng
yêu cầu triển khai công tác ứng dụng CNTT tại các cơ quan, đơn vị. Trình độ tin
học trong nhân dân còn thấp, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Đề xuất biện pháp:
- Thống nhất tư tưởng về hiện đại hóa hành chính.
+ Kết nối hoạt động giữa ban CCHC và BCĐ CNTT của tỉnh: hiện nay hai
ban chỉ đạo này hiện nay hoạt động khá độc lập, mặt dù CNTT là phương tiện để
CCHC. Mặt khác, phát triển CNTT và một nền hành chính công hiệu quả sẽ là
điều kiện và động lực mạnh mẽ để phát triển Chính phủ điện tử. Chính vì vậy để
đẩy mạnh tiến trình xây dựng chính phủ điện tử toàn diện, hiệu quả hơn thì ban
9



– liên hệ 0973707875

chỉ đạo CCHC và ban chỉ đạo CNTT nên có nhiều hành động chung, cùng nhau
đưa ra những chương trình hành động, hỗ trợ nhau hài hòa và đồng bộ hơn.
+ Cần đồng bộ trong việc triển khai ứng dụng CNTT tại địa phương: Sự
đồng thuận giữa các sở, ban, ngành trong việc thực hiện các quy trình hành
chính điện tử sẽ đảm bảo tính pháp lý và là nền tảng cho việc xây dựng các ứng
dụng của Chính quyền điện tử tại địa phương. Việc các sở, ban, ngành cùng
triển khai các ứng dụng CNTT nhưng thiếu một quy hoạch chung sẽ dẫn đến
việc phát triển vì lợi ích cục bộ và lãng phí.
- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động công vụ.
Ứng dụng CNTT phải đi đôi với cải cách hành chính, quá trình cải cách
hành chính đặt ra các yêu cầu, đòi hỏi ứng dụng CNTT phải giải quyết, vì vậy
thủ tục hành chính phải ổn định thì ứng dụng CNTT mới đạt hiệu quả tốt. Cần
xây dựng Kế hoạch phát động thi đua ứng dụng CNTT vào cải cách hành chính,
nhằm khuyến khích động viên các ngành, các cấp tích cực ứng dụng CNTT vào
công tác quản lý, để phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.
- Trang bị đồng bộ hệ thống công sở và thiết bị thông tin.
+ Cần xây dựng một nền tảng cơ sở hạ tầng đủ mạnh để đảm bảo tính an
toàn, bảo mật của thông tin cũng như vận hành được hệ thống Chính phủ điện tử
dễ dàng, tiện lợi.
+ Tăng cường công tác cải tiến, thực hiện chuẩn hóa nghiệp vụ, sơ đồ hóa
quy trình nghiệp vụ để công tác triển khai ứng dụng công nghệ thông tin được
thuận lợi, hiệu quả hơn và giám sát được tiến độ, chất lượng thực thi công vụ
của cán bộ, công chức, viên chức.
+ Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ
quan Đảng, chính quyền, các đoàn thể với tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu
đơn giản và cải cách thủ tục hành chính.

+ Cần phải ban hành các quy chế, quy định về quản lý, vận hành và sử dụng
các hệ thống thông tin đã được triển khai;
+ Xây dựng quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý văn bản điện tử; quy chế bảo
đảm an ninh, an toàn thông tin; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có trình độ
chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt, ổn định trong công tác, nhằm đảm bảo các
hệ thống thông tin đã đầu tư được hoạt động liên tục, hiệu quả, đảm bảo an toàn
thông tin, phục vụ tốt cho công tác.
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Công tác tập huấn, đào tạo kiến thức, kỹ năng sử dụng các ứng dụng công
nghệ thông tin cần được quan tâm; đào tạo theo hướng cầm tay chỉ việc, giúp
10


– liên hệ 0973707875

cán bộ công chức sử dụng thành thạo các phần mềm đã triển khai. Từ đó giúp
chủ thể hành chính chỉ đạo, điều hành hành chính đảm bảo yêu cầu chính xác,
đầy đủ, kịp thời và bí mật những thông tin hành chính, nhanh chóng kết nối giữa
chủ thể và đối tượng.
- Giám sát chặt chẽ việc sử dụng hệ thống thông tin điện tử.
+ Phải có cơ chế duy trì, bảo dưỡng hạ tầng công nghệ thông tin đã đầu tư,
thường xuyên rà soát, đầu tư nâng cấp, nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát
triển ứng dụng công nghệ thông tin; phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ tiếp nhận mã nguồn các phân hệ phần mềm đã triển khai
để kịp thời hỗ trợ người dùng trong quá trình cập nhật, chỉnh sửa, thay đổi theo
quy định mới.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công: Cơ quan chức năng cần thực hiện
phân bổ ngân sách cho CNTT - có thể "nằm" trong phần ngân sách thường
xuyên, hoặc ngân sách đầu tư ban đầu cho CNTT. Song phải duy trì mức quy
định để thực hiện bảo trì, bảo dưỡng, các dịch vụ thuê CNTT.

- Khuyến khích người dân tích cực sử dụng phương tiện thông tin kết nối
với chính quyền.
Thứ nhất là về nguồn nhân lực: Cần phải có những quy định, chế tài
nhằm khuyến khích, tạo điều kiện, bắt buộc các cán bộ, công chức ứng dụng
CNTT trong công việc. Trước hết là người đứng đầu các cơ quan nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên về sự phát triển ứng dụng CNTT trong
cơ quan mình, coi đây là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, tiêu chí
đánh giá thi đua, khen thưởng. Tiếp theo, phải có chính sách thu hút được những
người có đủ năng lực làm công tác chuyên trách về CNTT, đào tạo các cán bộ,
công chức có đủ kỹ năng ứng dụng CNTT trong công việc.
Thứ hai là về tài chính: Cần phải bố trí nguồn kinh phí đủ, ổn định cho
ứng dụng CNTT; coi ứng dụng CNTT là một trong những công cụ quan trọng
nhất để cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động cơ quan nhà
nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn, từ đó có đầu tư kinh phí
tương xứng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng cao
hiểu biết, nhận thức về các lợi ích trong việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của cơ quan Đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Truyền thông xã hội về Chính quyền điện tử: Việc triền khai một
chiều từ trên xuống sẽ không đem lại thành công, mà cần phải có sự tham
gia của người dân và doanh nghiệp đây là đối tượng chính của Chính quyền
điện tử. Các vấn đề về khoảng cách trình độ gíao dục, thông tin, khoảng
cách về địa lý là nguyên nhân gây ra cho người dân và doanh nghiệp rất mù
11


– liên hệ 0973707875

mờ về Chính quyền điện tử. Nếu không hiểu rõ thì chắc chắn họ sẽ không

thấy được những lợi ích mật thiết liên quan và việc ứng dụng Chính quyền
điện tử cực kỳ hạn chế.
Câu 2: Theo anh/chị, nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức” trong Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2016-2020 ban hành theo Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày
04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ có ý nghĩa như thế nào đối với công cuộc
cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam
Liên hệ với địa phương mình công tác để đề xuất những biện pháp nhằm
thực hiện có kết quả nhiệm vụ trên?
Trả lời
Ý 1: Khẳng định việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là
nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020. Trong các
khâu của tổ chức cán bộ từ tuyển dụng, bố trí sử dụng, nâng ngạch, quy hoạch,
đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm... thì đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đóng vai trò rất quan
trọng nhằm trang bị tri thức, văn hoá và trình độ chuyên môn làm cơ sở nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Ý 2: Nêu ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức đối với CCHC: Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
giúp CB, CC, VC có kiến thức toàn diện, hiểu biết đúng đắn, toàn diện về đường
lối, chủ trương, chính sách và pháp luật để chấp hành đúng trong thực hiện
nhiệm vụ được giao: 5đ
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp CB, CC VC đảm bảo thực
chất yêu cầu, tiêu chuẩn về năng lực, trình độ, phẩm chất theo chức đang, vị trí
việc làm trong mỗi cơ quan, đơn vị:
Trong xu thế phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ, tri thức của loài
người không ngừng được bổ sung thì yêu cầu về tri thức, văn hoá và trình độ
chuyên môn của người cán bộ càng phải cao hơn. Đội ngũ cán bộ cần có tri thức
khoa học xã hội phong phú và tri thức khoa học kỹ thuật sâu rộng mà trước hết
là phải có những hiểu biết cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ trên các mặt của
lĩnh vực, ngành hoặc đơn vị mà họ đảm nhiệm cũng như tri thức khoa học tổ

chức lãnh đạo hiện đại và tư duy, kỹ năng lãnh đạo.
Sự phát triển của mạng xã hội, các kênh thông tin, truyền thông làm cho
“thế giới phẳng hơn”, thông tin cập nhật, công khai và minh bạch hơn. Khái
niệm “chính phủ mở” xuất hiện làm thay đổi chức năng và mối quan hệ giữa
chính phủ với khu vực thị trường và xã hội. Theo đó, để quốc gia phát triển đòi
hỏi phải có một chính phủ thực sự là chính phủ phục vụ, gần dân, sát dân và
hiểu dân. Sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội ngày
càng nhiều vào công việc quản lý của nhà nước đòi hỏi dòng thông tin phải đa
dạng, chính xác và nhanh nhạy, không thuần túy là thông tin một chiều từ chính
phủ đến người dân mà phải có sự phản hồi giữa chính phủ với người dân và
12


– liên hệ 0973707875

doanh nghiệp. Thông tin quản lý từ các cơ quan nhà nước, đội ngũ CBCC phải
nhanh hơn, đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng. Làm tốt việc truyền thông mới
có thể truyền tải được thông điệp của chính phủ tới người dân và làm cho người
dân hiểu đúng, hiểu trúng vấn đề, tạo sự đồng thuận trong thực thi các quyết
sách chính trị. Do đó, yêu cầu CBCC phải có năng lực truyền thông, năng lực
giải trình mới có thể đáp ứng quyền được tiếp cận thông tin của người dân và xã
hội ngày càng mở rộng và bảo đảm. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
giúp CB, CC VC đảm bảo thực chất yêu cầu, tiêu chuẩn về năng lực, trình độ,
phẩm chất theo chức đang, vị trí việc làm trong mỗi cơ quan, đơn vị.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp CB, CC, VC tiết kiệm chi
phí, nhất là thời gian học tập để tập trung cho thực thi công vụ;
Thực tế, việc học tập của cán bộ chưa thực sự hiệu quả do nhiều nguyên
nhân. Nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn lãnh đạo, quản lý, nhất là trong lĩnh vực quản lý
nhà nước. Một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng nặng về lý luận, dàn trải,

thiếu sự liên thông, kế thừa, trùng lặp về nội dung, thiếu tính thiết thực, chưa đi
sâu vào rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác cho cán bộ, công chức. Mặc dù
đã được đào tạo, bồi dưỡng, một số cán bộ, công chức còn lúng túng trong việc
thực hiện nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, giải quyết những vấn
đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn mới. Do vậy, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp CB, CC, VC
tiết kiệm chi phí, nhất là thời gian học tập để tập trung cho thực thi công vụ.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp CB, CC, VC ý thức đầy đủ
về nghĩa vụ học tập để không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về cả năng lực, phẩm
chất, kỹ năng thực hiện công việc.
Sau 7 năm gia nhập WTO, thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được
định hình và vận hành trong một khuôn khổ nhất định. Sự vận hành của nền
kinh tế thị trường đã kéo theo sự thay đổi và nhìn nhận lại vai trò của nhà nước
trong quản lý kinh tế. Nhà nước chuyển sang vai trò là “bà đỡ” cho sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội; kinh tế nhà nước chứ không phải doanh nghiệp nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước trở thành chủ thể hoạch định thể chế, chính
sách cho các chủ thể thị trường tham gia sản xuất, kinh doanh theo đúng như
thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ: “Nhà nước phải làm tốt
chức năng kiến tạo phát triển”. Điều đó kéo theo sự phân công lại giữa các công
việc của nhà nước và của thị trường. Muốn thực hiện tốt chức năng và vai trò
của nhà nước thì phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong xây dựng và hoàn thiện
thể chế, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường. Không ai khác, đội ngũ cán bộ,
công chức (CBCC) nhất là đội ngũ CBCC cấp cao làm việc ở các bộ, ngành
trung ương sẽ phải thay đổi nhận thức, tư duy, nâng cao năng lực trong việc
tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách. Việc nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp CB, CC, VC ý thức đầy đủ về nghĩa vụ
học tập để không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về cả năng lực, phẩm chất, kỹ năng
thực hiện công việc.
13



– liên hệ 0973707875

- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giúp CB, CC, VC tự tin làm chủ
được trang thiết bị và công nghệ tiên tiến và thực thi công vụ
Khoa học - công nghệ phát triển nhanh, đặc biệt là việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong công việc đã làm thay đổi nhận thức của mỗi cá nhân.
Muốn tồn tại được các cá nhân phải thích ứng với sự biến đổi nhanh và không
ngừng của khoa học công nghệ, nếu không sẽ làm chậm quá trình phát triển của
cá nhân và xã hội. Đối với khu vực nhà nước, việc ứng dụng công nghệ thông
tin và khoa học kỹ thuật làm xuất hiện mô hình “chính phủ điện tử”. Muốn
“chính phủ điện tử” vận hành được thì trước hết phải có “cán bộ, công chức điện
tử” và “công dân điện tử”. Nghĩa là, người dân nói chung và CBCC nói riêng
phải biết làm chủ công nghệ và tham gia vào quá trình tương tác mới có thể vận
hành và ứng dụng được thành tựu của khoa học công nghệ phục vụ cho công
việc của mình. Việc xuất hiện loại hình “thương mại điện tử” là minh chứng rõ
nét cho thấy tác động của công nghệ thông tin tới nhận thức và cách ứng xử của
nhà nước đối với quá trình phát triển của xã hội. Do đó, đòi hỏi CBCC phải tự
đào tạo và nâng cao năng lực để có thể theo kịp với tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội.
Đặc biệt trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và môi trường
“công dân toàn cầu” yêu cầu cán bộ, công chức phải nhạy bén và thích ứng với
diễn biến tình hình kinh tế - xã hội của khu vực và thế giới: Trong môi trường
toàn cầu hóa, các quốc gia trở thành những mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu,
vừa phải lệ thuộc vào nhau, vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Mặt khác,
những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, khủng bố,
dịch bệnh xuyên quốc gia... làm cho các quốc gia phải liên kết lại trong bối cảnh
vừa hợp tác vừa đấu tranh để cùng tồn tại trong ngôi nhà chung là trái đất. Với
môi trường quốc tế hiện nay thật khó để một quốc gia biệt lập có thể phát triển
được. Do đó, xu hướng chung là hình thành các tổ chức liên kết xuyên quốc gia,

khu vực, như Cộng đồng chung châu Âu, Cộng đồng chung ASEAN,... Điều này
đòi hỏi đội ngũ CBCC phải có “tầm nhìn toàn cầu” trong năng lực xây dựng
chính sách. Chính sách của mỗi quốc gia phải đặt trong bối cảnh bức tranh kinh
tế của khu vực và quốc tế.
Ý 3: Liên hệ thực tiễn đề xuất biện pháp.
- Nêu khái quát tình hình đào tạo, bồi dưỡng CB, CC, VC ở địa phương
(4đ)
- Đề xuất giải pháp (6đ):
+ Giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước
+ Giải pháp đối với cơ sở đào tạo
+ Giải pháp với cơ quan sử dụng CB, CC, VC và bản thân CB, CC, VC
Qua nghiên cứu về tình hình ĐT,BD CB,CC của nước ta hiện nay ta thấy
được vai trò của đội ngũ CB,CC là lực lượng đi đầu và quyết định đối với sự
14


– liên hệ 0973707875

phồn thịnh của đất nước. Lá bộ phận đề ra đường lối, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, đồng thời là lực lượng phổ biến những chính sách, đường lối ấy đến
cơ sở và hướng dẫn thực hiện, chiu trách nhiệm cơ bản về kết quả đạt được khi
thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước. Là lực lượng đi đầu, chỉ đạo
thực hiện mọi công việc cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Trong quá trình thực hiện
công việc, lượng kiến thức và yêu cầu về trình độ hiểu biết luôn đặt ra và buộ họ
không ngèng nâng cao kiếm thức cho mình. Để đáp ứng được điều nay thì công
tác ĐT,BD CB,CC đóng một vai trò vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo sự phát
triển kinh tế - xã hội, khẳng định vị trí của chúng ta trước bạn bè quốc tế. Trên
thực tế Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành triển khai công việc này khá hiệu quả
góp phần nâng cao trình độ cho đội ngũ CB,CC, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi
mới. Nhưng trong quá trình thực hiện triển khai công tác không thể tránh khỏi

việc gặp phải những khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Đáng giá chunglà
công tác ĐT,BD CB,CC còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ của thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Khi chúng ta chủ trương
phát triển nền kinh tế thi trường, mở cử hội nhập, với sự phát triển không ngừng
của khoa học, công nghệ, và lượng lớn thông tin luôn luôn biến đổi từng ngày,
từng giờ thì những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác ĐT,BD
CB,CC là rất cần thiết.
Một vài nhược điểm cụ thể trong đào tạo viên chức ở địa phương: Xây
dựng kế hoạch hàng năm chưa sát thực tế, chưa thực sự khoa học; nội dung giáo
trình chưa phản ánh đầy đủ yêu cầu cấp bách của nền hành chính Nhà nước; kết
quả sau đào tạo chưa được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan, nhất là đối
với cán bộ chính quỳên, Đảng và đoàn thể ở ccấp xã; các cơ sở đào tạo chưa
thực sự được quan tâm đúng mức. Tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý chưa
thống nhất, dội ngũ giảng dạy chưa đủ cả về số lượng và trình độ; Nguồn tài
chính đảm bảo cho công tác ĐT,BD còn hạn hẹp và phân tán. Các ngành,các địa
phương chưa huy động được sức mạnh tổng hợp.
Một số giải pháp cụ thể.
Giả i pháp về nhậ n thức và phương hướng chung
Trước hết phải đổi mới nhận thức về vai trò, vị trí của công tác ĐT,BD
CB,CC từ việc đổi mới quan niệm về CB,CC và để làm tôt ông việc nhất thiết
phải được đào tạo một cách cơ bản và hệ thống. Vì vậy công tác ĐT,BD CB,CC
có một vị trí rất quan trọng trong công tác CB,CC và trong việc xây dựng đội
ngũ CB,CC theo hướng chính quy, hiện đại. Đồng thời phải coi ĐT,BD CB,CC
là nhiệm vụ, biện pháp cơ bản và thường xuyên nhằm tiêu chuẩn hoá và nâng
cao năng lực và trình độ của CB,CC. Cần xây dựng kế hoạch ĐT,BD CB,CC
trên cơ sở chiến lược và quy hoạch tổng thể xây dựng đội ngũ CB,CC. Từ kế
hoạch này, từng khu vực, từng cấp, từng ngành xây dựng kế hoạch của mình
theo hướng mọi kế hoạch phải gắn với nhu cầu thực tiẽn của nhiệm vụ. Tránh
quan niện đơn giản coi ĐT,BD chỉ là chế đọ, chính sách đối với CB,CC
15



– liên hệ 0973707875

Tiếp theo là phải đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, Phương pháp
đào tạo theo hướng thiết thực, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế . Đào toạ cần
thêo sát tiêu chuẩn và chức danh, ngạch, bậc công chức, song cũng càn có trọng
tâm, trọng điểm tuỳ theo yêu cầu và đặc điêm của từng khối, từng ngành, từng
bộ phận, từng cấp để có nội dung chương trình, hình thức đào tạo thích hợp.
Tránh đào tạo tràn lan không theo nhu cầu sử dụng
Về hình thức đào tạo cần kêt hợp các hình thức: chính quy, tại chức, dài
hạn, ngắn hạn, tại chỗ và đào tạo từ xa, đào tạo trong nước và đào tạo ở nước
ngoài.Hướng vào một số trọng điểm như đào tạo ,đào tạo lại có mục tiêu, có
chất lượng khuyến khích các hình thức tự học, tự đào tạo để thường xuyên nâng
cao trình độ. Đặc biệt cần quan tâm phát hiện nhân ttthành thị, tạo nguồn cán bộ
quản lý chuyên gia từ những cán bộ trẻ
Cuối cùng là việc tăng cường, phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị
ĐT,BD tương thích với viẹc áp dụng,sử dụng các phương pháp trao đổi tích cực
trong ĐT,BD, số lượng học viên cho từng lớp học cững cần được xem xét giới
hạn đến con số thích hợp cần phải đổi mới, kiện toàn hệ thống các cơ sở ĐT,BD
CB,CC thống nhất nội dung, chương trình ĐT,BD để có thể tiến tới xây dựng bộ
giáo trình tiêu chuẩn quốc gia; xây dựng, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên của các trường đào tạo, nhất là đội ngũ giỏ về khoa học hành
chính, pháp lý và quản lý nhà nước
Cầ n tiế n hà nh già soát lạ i những nhiệ m vụ đ ược giao đ ể thực
hiệ n đ úng, đ ủ kế hoạ ch, nhiệ m vụ đ ã đ ể ra
Đây là một công việc rất cần thiết và cần làm ngay, vì công tác ĐT,BD hiện
nay về cơ bản là thiếu đồng bộ cả theo chiều ngang và chiều dọc. Để đảm bảo
công tác được tiến hành có hiệu quả cần thống nhất từ trung ương đến cơ sở,
muốn vạy cần tổng hợp rà soát, đánh giá nghiêm chính những gì làm được và

những gì còn vướng mắc chưa hiệu quả, những mặt nào còn hạn chế, gây cản trở
cho việc thực hiện kế hoạch, công việc này được tiến hành nhất là đối với những
công việc chưa được triển khai, hoặc triển khai còn chậm như việc tổ chức
ĐT,BD kiến thức cho đội ngũ CB,CC trước khi bổ nhiệm đề bạt; tổ chức đào tạo
tiền công vụ; xây dựng và thự hiện chương trình, giáo trình ĐT,BD kiến thức
ngoại ngữ, tin hoc, hành chính, kiến thức quản lý kinh tế; xây dựng ban hành
văn bản quy phạm pháp luật; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chương trình, giáo
trình ĐT,BD, đặc biệt là về kiến thức QLNN; tổ chức ĐT,BD nâng cao năng lực
cho đội ngũ giảng viên của các cơ sở ĐT,BD
Đẩ y nhanh tiế n đ ộ và nâng cao chấ t lượng hiệ u quả củ a những
công việ c đ ang thực hiệ n
Cụ thể là đẩy nhanh tiến độ đào tạo trình độ đại học về chuyên môn và cao
cấp lý luận chính trị cho lãnh đạo chủ chết cấp huyện, sở, ban, ngành; tăng
cường đào tạo lý luận trung cấo chính trị trở lên cho cán bộ chủ chốt và các chức
danh chuyên môn cấp xã. Cần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quy
16


– liên hệ 0973707875

hoạch ĐT,BD và ĐT,BD đúng đối tượng, đúng mục đích và sử dụng lâu dài;
nâng cao tính hệ thống và chất lượng các loại chương trình, giáo trình; đảm bảo
tính chiến lược trong ĐT,BD CB,CC ở ngoài nước theo hướng bổ khuyết các
nội dung mà đào tạo trong nước chưa thực hiện được; đào tạo xây dựngcán bộ
nguồn và cán bộ chiến lược
Điề u chỉ nh kế hoạ ch thực hiệ n mộ t số nộ i dung phù hợp với
tình hình mới đ ể hoà n thà nh mụ c tiêu đ ã đ ề ra
Trên cơ sở sơ kết các công tác đã thực hiện quyết định của Chính phủ về
công tác ĐT,BD CB,CC, các bộ, ngành, địa phương chủ động kiểm điểm tiến độ
thực hiện các nội dung, chỉ tiêu đã được Chính phủ giao , qua đó điều chỉnh cho

phù hộ với tình hình mới. Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần tiến
hành nghiên cứu, điều chỉnh kế hoạch ĐT,BD CB,CC cơ sở đảm bảo trong thời
gian tới số cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử được ĐT,BD đạt tiêu
chuẩn quy định đạt tỷ lệ cao (70-80%), số cán bộ chuyên môn trình độ trung cấp
trở lên với đồng bằng và sơ cấp đối với miềm núi đạt được tiêu chuẩn như trong
nghị quyết trung ương 5 đã đề ra
Xây dựng hệ thố ng kiể m tra, đ ánh giá ĐT,BD
Cần có những bộ phận chiu trách nhiệm với những hệ thống các tiêu chí
đáng giá. Trước tiên đưa ra các mục tiêu ĐT,BD rồi tiến hành công việc để đạt
mục tiêu mà lại bỏ quavà coi nhẹ việc đánh giá. Vì vậy mag câu hỏi ĐT,BD có
đáp ứng được nhu cầu đào tạo không, hiệu quả của nó đến đâu? chưa có câu trả
lời có sức thuyết phục, xông tác đào tạo cần được đánh giá thường xuyên để thu
thập thông tin phản hồi nhằm đưa ra những quyết định, những điều chỉnh kịp
thời, công tác này cần thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình đào tạo, nhất là
việc đánh giá sau đào tạo, xem xét hiệu quả đào tạo đối với học viên trong việc
họ có áp dụng những điều đã học vào công việc của họ hay không và hiệu quả
của ĐT,BD đối với quá trình phát triển của tổ chức như thế nào. Đánh giá cần
tiến hành theo kế hoạch, áp dụng những tiến bộ khoa học và những phương pháp
khác nhau, cần tiến hành để thấy đwợc kết quả đối với từng cá nhân và tổ chức.
Một số biện pháp khắc phục:
Xây dựng kế hoạch ĐT,BD dài hạn và ngắn hạn, các sở ngành, các địa
phương đều xây dựng đề án cải cách hành chính của ngành và địa phương mình.
Từ kế hoạch đó, Sở Nội vụ tông hợp và báo cáo UBND tỉnh phê duyệt; Việc
ĐT,BD có trọng tâm trọng điểm, chấm dứt tình trạng tràn lan, gắn liền ông tác
đào tạo với chiến lược cán bộ; Huy đọng sức mạnh tổng hợp từ ba nguồn kinh
phí (Nhà nước, các cơ quan đơn vị và cá nhân) để đầu tư cho công tác ĐT,BD.
Gắn trách nhiệm vật chất của người đi học với nhiệm vụ ĐT, BD cán bộ; Củng
cố và sắp xếp lại các cơ sở ĐT,BD, hiện nay ở tinh có Trung tâm giáo dục
thường xuyên, Trung tâm hước nghiệp dạy nghề, trường trung học kinh tế kỹ
thuật, trường trung cấp y, Trường trung học văn hóc nghệ thuật, Trường chính

trị tỉnh. Cần đầu tư cơ sở vật chất và đội ngũ ngang tầm với chức năng, nhiệm
17


– liên hệ 0973707875

vụ; thường xuyên kiểm tra các cơ sở đào tạo, kịp thơi phát hiện những vưỡng
mắc, những tồn tại để kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có biện
pháp khắc phục.
Câu 3: Theo anh/chị nhiệm vụ: "Áp dụng các mô hình, phương pháp,
công nghệ hiện đại trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng,
đánh giá cán bộ, công chức, viên chức" có ý nghĩa như thế nào đối với công
cuộc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Liên hệ thực tiễn đề xuất biện pháp thực hiện.
Trả lời
Ý 1. Nêu vai trò của đội ngũ CBCC
Đội ngũ cán bộ, công chức có vị trí rường cột trong tổ chức, hoạt động của
các cơ quan hành chính, có vai trò quyết định đến sự phát triển nền hành chính,
là người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, quản lý
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; tham mưu, hoạch định, tổ chức thực hiện
và thanh tra, kiểm tra việc thực thi các đường lối, chính sách.
Việc đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức là một trong những nội dung cơ bản của công cuộc cải cách hành chính
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã thực hiện nhiều hoạt động
cải cách trong công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức. Công tác quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức bao gồm nhiều nội dung công việc với các khâu: tuyển
dụng, sử dụng, bố trí, giám sát, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng luôn
chuyển, sử dụng, thực hiện chính sách chế độ đối với cán bộ, công chức, xây
dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng, đãi ngộ nhân tài, thu hút
nhân tài vào nền công vụ. Trong các nội dung này, có những khâu theo trình tự,

nhưng cũng có những khâu tiến hành song song, đan xen nhau, có quan hệ
tương hỗ với nhau. Do đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý đội ngũ công chức
trong nền công vụ là một yêu cầu có tính tất yếu khách quan vừa mang tính cấp
thiết và vừa mang tính kế thừa, thường xuyên, liên tục và lâu dài trong các giai
đoạn phát triển của đất nước (3đ)
Ý 2. Ý nghĩa của nhiệm vụ: "Áp dụng các mô hình, phương pháp, công
nghệ hiện đại trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng, đánh giá
cán bộ, công chức, viên chức” trong Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2016 - 2020 đối vớt công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở Việt
Nam
- Là cơ sở nâng cao chất lượng đầu vào của công chức, tạo nền tảng nâng
cao chất lượng thực thi công vụ.
Công tác tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên có tính quyết định đến chất
lượng nguồn nhân lực của cơ quan. Trong quá trình thực thi công vụ, việc tuyển
dụng đúng người sẽ cho kết quả hoạt động của cơ quan tốt hơn. Luật cán bộ,
công chức nêu rõ việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ,
vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế và thông qua thi tuyển theo nguyên tắc công
18


– liên hệ 0973707875

khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật, đảm bảo tính cạnh tranh. Hình
thức thi, nội dung thi tuyển công chức phải phù hợp với ngành, nghề, đảm bảo
lựa chọn được những người có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu
tuyển dụng. Đối với một số trường hợp sẽ thực hiện xét tuyển theo quy định.
Như vậy, việc tuyển dụng công chức trong giai đoạn hiện nay cũng như
trong thời gian tới phải thực sự xuất phát từ nhu cầu công việc thực tế của cơ
quan. Để làm được điều này phải kết hợp đồng bộ cùng với các giải pháp khác
như: xây dựng được hệ thống danh mục vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công

chức của cơ quan, từ đó làm cơ sở để tuyển dụng đúng người, đúng việc, đúng
số lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý… Việc áp dụng các mô hình, phương pháp,
công nghệ hiện đại trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng, đánh giá
cán bộ, công chức, viên chức là cơ sở nâng cao chất lượng đầu vào của công
chức, tạo nền tảng nâng cao chất lượng thực thi công vụ.
- Xây dựng cơ chế cạnh tranh, thực tài trong hình thành đội ngũ công chức
lãnh đạo quản lý.
Việc ứng dụng công nghệ tin học vào thi tuyển công chức không phải là
mới đối với các quốc gia có nền công vụ phát triển nhưng là mới đối với nước
ta, hình thức thi này đảm bảo được nguyên tắc cạnh tranh khách quan, công
bằng, minh bạch, thực tài và hạn chế được tiêu cực trong thi cử. Vấn đề đặt ra
hiện nay là nên bổ sung khâu phỏng vấn trong thi tuyển để lựa chọn được người
phù hợp nhất vào cơ quan. Bởi vì hoạt động công vụ của công chức bao gồm cả
các kỹ năng giao tiếp, ứng xử giữa công chức với công chức cùng và khác cấp
hành chính, giữa công chức với nhân dân, tổ chức. Do vậy, thông qua phỏng vấn
mới có thể nhận biết, lựa chọn được ứng viên có phẩm chất, năng lực, kỹ năng
thực sự trong quan hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp nhất cho vị trí việc làm cụ thể
cần tuyển dụng. Đồng thời áp dụng các mô hình, phương pháp, công nghệ hiện
đại trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng, đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức đảm bảo cơ chế chịu trách nhiệm đối với tổ chức cá nhân vi
phạm pháp luật về quản lý công chức.
- Là phương thức hạn chế tiêu cực trong công tác cán bộ. Đảm bảo cơ chế
chịu trách nhiệm đối với tổ chức cá nhân vi phạm pháp luật về quản lý công
chức.
Trong công tác cán bộ, việc đánh giá và sử dụng cán bộ là các khâu cực kỳ
quan trọng. Đánh giá chính xác cán bộ là cơ sở cho việc quyết định bố trí, sử
dụng hợp lý, tạo động lực mạnh mẽ, động viên cán bộ cống hiến sức lực, tài trí,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đánh giá cán bộ không đúng, không chính
xác có thể dẫn đến sử dụng cán bộ một cách tùy tiện, làm mất đi động lực phấn
đấu của từng cá nhân, thậm chí làm xáo trộn tâm lý của cả một tập thể, gây nên

sự trầm lắng, trì trệ trong công việc. Vì vậy phải áp dụng các mô hình, phương
pháp, công nghệ hiện đại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức
để hạn chế tiêu cực trong công tác cán bộ, đảm bảo cơ chế chịu trách nhiệm đối
với tổ chức cá nhân vi phạm pháp luật về quản lý công chức.
19


– liên hệ 0973707875

- Tạo cơ hội cho những người có năng lực, trình độ, tâm huyết được cống
hiến một cách công bằng, khách quan, thực chất.
Công tác tuyển dụng phải luôn đặt ở trạng thái “động” và “mở”. Để công
tác tuyển dụng mang tính “động” và “mở”, đòi hỏi công tác quản lý, phát triển
nguồn nhân lực phải dựa trên cơ sở của các hoạt động phân tích, đánh giá nguồn
nhân lực hiện tại và dự báo về nguồn nhân lực tương lai; các yếu tố tác động,
ảnh hưởng đến nền hành chính công vụ. Ngoài ra, việc tuyển dụng mới công
chức cần gắn với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế theo mục
tiêu đổi mới về chất, thay thế mạnh những người không đáp ứng được yêu cầu
thực thi công vụ trong nền hành chính hiện đại. Có như vậy mới xây dựng được
nền công vụ “mở”, nghĩa là có tuyển dụng vào nếu đáp ứng được yêu cầu của vị
trí việc làm và vị trí việc làm còn trống, có cơ chế chuyển ra (cho thôi việc,
chuyển vị trí công tác khác…) nếu không còn đáp ứng được yêu cầu công việc.
Đồng hành cùng việc đổi mới tuyển dụng công chức, phải tập trung thực
hiện chính sách nhân tài. Có cơ chế chính sách phù hợp góp phần phát hiện,
tuyển chọn, tiến cử, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ người hiền tài vào làm
việc tại các cơ quan hành chính. Nghiên cứu xây dựng và xác định đúng nội hàm
của khái niệm nhân tài, tránh hình thức, đánh đồng nhân tài với người có bằng
cấp cao nhưng thiếu kỹ năng nghề nghiệp, thiếu đạo đức trong thực thi công vụ.
- Góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương,
năng động, hiệu lực, hiệu quả.

Việc tuyển dụng công chức trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời
gian tới phải thực sự xuất phát từ nhu cầu công việc thực tế của cơ quan.
Đánh giá công chức là khâu quan trọng trong quá trình quản lý công chức,
kết quả đánh giá đúng sẽ giúp động viên, khuyến khích công chức nỗ lực học
tập, bộc lộ tiềm năng, phát huy tối đa khả năng, góp phần cải thiện văn hoá, môi
trường làm việc cho cá nhân công chức cũng như cho cả tập thể đơn vị, kết quả
đánh giá sai sẽ gây hậu quả ngược lại. Việc áp dụng các mô hình, phương pháp,
công nghệ hiện đại trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng, đánh giá
cán bộ, công chức, viên chức góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại,
chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả.
- Góp phần hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ phẩm chất đạo
đức, trình độ và kỹ năng hành chính với cơ cấu, chức danh, tiêu chuẩn đáp ứng
các yêu cầu cụ thể trong việc thực thi công vụ.
Đánh giá công chức là một công việc quan trọng trong quá trình quản lý
công chức. Kết quả đánh giá công chức sẽ giúp cho cán bộ quản lý có phương
án bố trí, sử dụng công chức hợp lý, phát huy được năng lực cá nhân của mỗi
công chức. Đồng thời việc đánh giá công chức sẽ khuyến khích được đội ngũ
công chức nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của mình để có hướng phấn đấu, hoàn
thiện bản thân, đáp ứng yêu cầu công việc. Luật Cán bộ, công chức nêu rõ hình
thức đánh giá công chức chuyển từ cách thức tự kiểm điểm và bình bầu sang
đánh giá trên các nội dung: chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của
20


– liên hệ 0973707875

Đảng và pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác
phong và lề lối làm việc; năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ; tinh thần trách nhiệm trong công tác; kết quả thực hiện được giao. Phương
pháp đánh giá kết hợp giữa hình thức tự đánh giá của công chức, các góp ý của

tập thể đơn vị công tác, và ý kiến của thủ trưởng đơn vị để xếp loại công chức
hàng năm theo 4 mức: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ,
hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và không hoàn thành
nhiệm vụ. Tuy nhiên, việc đánh giá công chức hiện nay còn chưa thật sự phản
ánh sát thực chất lượng đội ngũ công chức. Hơn nữa, các kết quả mức độ của
phân loại của mỗi công chức trong từng cơ quan, đơn vị lại có sự liên quan đến
trách nhiệm của người đứng đầu, phản ánh đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ,
thành tích của bộ máy lãnh đạo cũng như tập thể tổ chức, cơ quan nói riêng và
toàn ngành, lĩnh vực, địa phương nói chung. Do vậy, khi đánh giá vẫn mang tính
duy tình, “dĩ hòa vi quý” giữ vai trò chủ đạo. Các tiêu chí còn định tính, cảm
tính dẫn đến sự bất bình đẳng, thiếu công bằng do chủ quan của việc đánh giá
khác nhau, khắt khe hay dễ dãi. Vì thế, kết quả đánh giá còn thiếu chính xác,
khách quan, chưa tạo được cơ sở tin cậy để lập kế hoạch phát triển nguồn nhân
lực.
Vì vậy, việc áp dụng các mô hình, phương pháp, công nghệ hiện đại trong
công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng, đánh giá cán bộ, công chức, viên
chức góp phần hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ phẩm chất đạo
đức, trình độ và kỹ năng hành chính với cơ cấu, chức danh, tiêu chuẩn đáp ứng
các yêu cầu cụ thể trong việc thực thi công vụ.
- Là cơ sở lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh
nghiệp là tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức. Lấy kết quả
phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm tiêu chí đánh giá
nhằm định hướng cho việc lập kế hoạch trung hạn và dài hạn của chính quyền,
đánh giá quá trình truyền thông giữa chính quyền và người dân và đánh giá các
dịch vụ hành chính công phục vụ cộng đồng, định hướng các hỗ trợ về mặt
chính sách mà các cơ quan công quyền có thể thực hiện.
Ý 3. Liên hệ với thực tế địa phương, đề xuất những biện pháp để thực hiện
có kết quả nhiệm vụ trên
3.1. Đánh giá khái quát đội ngũ công chức
Trong công tác cán bộ, đánh giá đúng cán bộ là khâu tiền đề đầu tiên để

quyết định bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ làm cơ sở cho việc quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bố trí để phát huy được tiềm năng đội
ngũ cán bộ, để bản thân cán bộ có phương hướng đúng trong phấn đấu, rèn
luyện; là cơ sở để thực hiện đúng chính sách cán bộ, biểu dương, tôn vinh những
cán bộ hoàn thành xuất sắc trách nhiệm được giao, có đóng góp, có cống hiến
cho đất nước, cho địa phương, đơn vị; đồng thời phê bình những cán bộ không
hoàn thành nhiệm vụ, không nêu gương, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
tổ chức đảng. Đánh giá đúng cán bộ là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng
tình đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, địa phương, đơn vị, góp phần ổn định
21


– liên hệ 0973707875

chính trị, động viên, phát huy được tính tích cực của nhân dân, cán bộ vào sự
nghiệp chung. Ngược lại, nếu đánh giá sai cán bộ, nhất là người đứng đầu, thì dễ
gây ra những phân tâm trong cán bộ, ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ, làm giảm
lòng tin, có khi mất cả phong trào ở mỗi địa phương, ngành, đơn vị.
Trong những năm qua đã có nhiều cấp ủy, nhiều chính quyền, người đứng
đầu các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị đã làm tốt công tác đánh giá cán bộ;
nhưng trong thực tế vẫn còn một bộ phận chưa làm tốt công tác này.
Thứ nhất, con người nói chung, cán bộ nói riêng đều chịu sự chi phối, tác
động qua lại, biện chứng giữa ba yếu tố: truyền thống, môi trường công tác và
sự rèn luyện, tự phấn đấu của bản thân. Tuy nhiên, căn cứ vào lý lịch cán bộ,
trong đó có truyền thống gia đình thì vẫn chưa đủ, vẫn là phiến diện. Vừa qua
một số địa phương, đơn vị quan tâm bố trí người thân của cán bộ lãnh đạo, quản
lý vào một số chức danh mà không đánh giá đúng năng lực, trình độ thực tế của
họ, đã làm phân tâm đội ngũ cán bộ và nhân dân.
Để đánh giá cán bộ chủ trì một địa phương, đơn vị mà không nhìn nhận
thấu đáo môi trường, điều kiện công tác cũng dẫn đến đánh giá thiếu khách

quan. Đối với một số địa phương, như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam
Bộ, miền Trung, để lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội sẽ khó khăn, phức tạp
hơn nhiều so với những địa phương gần thị trường tiêu thụ lớn, có hệ thống kết
cấu hạ tầng và dịch vụ phát triển, thuận lợi về điều kiện địa lý, giao thông... hấp
dẫn các nhà đầu tư, như các tỉnh gần Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,...
Trong công tác đánh giá cán bộ thì đánh giá “lòng người” là khó nhất, vì trong
thực tế có một bộ phận cán bộ “nghĩ khác nói khác”, “nói khác làm khác”, “nói
mà không làm”.
Thứ hai, một số cơ quan tham mưu về công tác cán bộ và cấp có thẩm
quyền đánh giá cán bộ còn có biểu hiện nể nang, né tránh, sợ mất lòng hoặc nắm
không chắc cán bộ, không đánh giá được kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị
của cán bộ nên đánh giá, phân loại cán bộ thiếu công tâm, công khai, minh bạch.
Đảng ta đã có nghị quyết, quyết định, quy chế về công tác cán bộ, về đánh
giá cán bộ, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Quyết định số
286-QĐ/TW, ngày 8-2-2010, của Bộ Chính trị khóa X, “Về việc ban hành Quy
chế đánh giá cán bộ, công chức”. Chính phủ ban hành Nghị định số
56/2015/NĐ-CP, ngày 09-6-2015, về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức,
viên chức. Nghị định có nhiều điểm mới nhằm khắc phục những hạn chế trong
đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức trước đây... Tuy nhiên, việc tổ
chức thực hiện các văn bản trên lại phụ thuộc vào những người đứng đầu có
chức trách, nhiệm vụ quản lý cán bộ, đánh giá cán bộ; phụ thuộc vào cơ quan
tham mưu, cán bộ tham mưu chuyên trách về công tác cán bộ. Trong thực tế đã
có trường hợp người đứng đầu ở một số địa phương, đơn vị suốt cả một nhiệm
kỳ được một số đoàn về giám sát, kiểm tra, được cán bộ của các cơ quan chức
năng theo dõi đánh giá tốt, nhưng khi cán bộ đó phạm khuyết điểm, bị xử lý kỷ
22


– liên hệ 0973707875


luật thì không tổ chức nào, không cá nhân nào chịu trách nhiệm. Gần đây, có
một số cán bộ được cấp có thẩm quyền đề bạt, bổ nhiệm, nhưng chỉ một thời
gian ngắn phải thay thế, cho thôi giữ chức vụ vì vi phạm kỷ luật do sự đánh giá
cán bộ không chặt chẽ, thiếu công tâm.
Nhận thức là một quá trình, đánh giá cán bộ cũng cần xem xét quá trình
thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các chức danh mà cán bộ đó được giao đảm nhận,
nhất là những chức vụ quan trọng. Để đánh giá và sử dụng đúng cán bộ thì tập
thể và cá nhân được giao chức trách, nhiệm vụ quản lý cán bộ là rất quan trọng;
nhưng từ trước đến nay, các cơ quan này chưa làm tốt khâu đánh giá cán bộ
trong tham mưu cho cấp ủy, người đứng đầu đơn vị. Có cơ quan chức năng chỉ
căn cứ vào việc cung cấp thông tin và đánh giá nhận xét của cán bộ phụ trách
địa bàn nhưng thiếu khách quan, trung thực, thậm chí cán bộ đó bị chi phối bởi
“lợi ích nhóm”, nên việc tham mưu, bố trí, sử dụng cán bộ không đúng với năng
lực cán bộ, sự tín nhiệm của nhân dân, của đông đảo cán bộ, đảng viên, gây băn
khoăn, lo lắng trong cấp ủy, nhân dân địa phương, đơn vị.
Thứ ba, thước đo, căn cứ đánh giá kết quả, hiệu quả hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ và sự đóng góp thực tế của cán bộ thiếu chặt chẽ, khoa học.
Các văn bản của Đảng xác định lấy kết quả, hiệu quả hoàn thành nhiệm
vụ làm thước đo chủ yếu trong đánh giá cán bộ, nhưng lại chưa đưa ra được
những tiêu chí quan trọng, cụ thể trong việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ cho từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý trên từng lĩnh vực; chưa phân
định được thành tích hoặc hạn chế của cá nhân với tập thể dẫn đến đánh giá hoặc
phân định trách nhiệm không rõ ràng. Sự đóng góp thực tế của cán bộ chủ chốt
đó đối với ngành, địa phương, đơn vị hằng năm, từng nhiệm kỳ thường không
được đánh giá đúng mức, nhất là những sáng kiến, đổi mới trong lãnh đạo, quản
lý, những kiến nghị, đề xuất có hiệu quả góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
của ngành, đơn vị... Về kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về kinh tế - xã
hội ở một số địa phương, số liệu thống kê, tính toán độ chính xác không cao,
phương pháp lấy sự tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ chưa được thực
hiện...

Thứ tư, tiêu chuẩn cán bộ, tiêu chí đánh giá cán bộ còn chung chung, nên
khó định lượng cụ thể và khó đánh giá trong thực tế.
Yêu cầu đặt ra là việc xây dựng tiêu chuẩn, trách nhiệm cụ thể cho mỗi
chức danh cán bộ trong bộ máy đảng và nhà nước nhưng trong thực tế chậm
được ban hành, bổ sung. Vì thế, khi nhận xét, đánh giá cán bộ chủ yếu vẫn căn
cứ vào tiêu chuẩn chung. Ví dụ: tiêu chuẩn có lập trường, có bản lĩnh chính trị
vững vàng rất khó đánh giá khi cán bộ chưa được thử thách trong thực tiễn hoặc
tiêu chuẩn gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm chưa được cụ thể
hóa và chưa có phương pháp lấy ý kiến góp ý của nhân dân. Vừa qua, đã có một
số trường hợp cán bộ được nhân dân tín nhiệm nhưng không được cấp ủy tín
nhiệm và ngược lại. Trong nhiều tiêu chuẩn về cán bộ lãnh đạo, quản lý thì
23


– liên hệ 0973707875

chiến lược cán bộ đã nêu khá đầy đủ nhưng hiện nay đông đảo cán bộ, đảng viên
và nhân dân rất quan tâm đến tiêu chuẩn gương mẫu, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, gắn bó mật thiết với nhân dân và được nhân dân tín nhiệm.
Kinh nghiệm của Trung Quốc khi quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược
hầu hết phải kinh qua cương vị chủ trì ở một tỉnh giàu, một tỉnh nghèo để có
thực tiễn lãnh đạo, quản lý và cũng là cơ sở đánh giá năng lực cán bộ trước khi
bổ nhiệm chức vụ cao hơn, rất đáng để chúng ta quan tâm.
Tiêu chuẩn đức và tài là tiêu chuẩn chung cho mỗi chức danh cán bộ,
nhưng ở người lãnh đạo, quản lý rất cần có tố chất quyết đoán, mạnh mẽ, hấp
dẫn cán bộ và nhân dân bằng trí tuệ và nhân cách. Bác Hồ đã dạy: “Khi cất nhắc
một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được quần
chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng việc gì. Nếu
người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc”(2). Trong

thực tế, cán bộ lãnh đạo, quản lý mà không được nhân dân tín nhiệm thì khó tổ
chức thực hiện được chủ trương, nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị mình,
khó mà làm việc có hiệu quả. Vì thế, tiêu chuẩn này cần được cụ thể hóa và có
phương pháp đánh giá. Hiện nay, hiện tượng “chạy chức”, “chạy quyền”, tình
trạng “người đi cửa sau” lại lên làm lãnh đạo, quản lý, nếu không được ngăn
chặn sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân, làm tha hóa bộ máy lãnh đạo, quản lý
và cuối cùng là đe dọa sự tồn vong của chế độ.
3.2. Đề xuất biện pháp
- Biện pháp về hoàn thiện thể chế
- Biện pháp về đầu tư trang thiết bị kỹ thuật
- Biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng công chức
- Biện pháp về kiểm soát.
Thứ nhất, đổi mới công tác đánh giá công chức phải bắt đầu từ việc thay
đổi cách tiếp cận quan điểm, tư duy về đánh giá công chức, tiếp thu chọn lọc
cách tiếp cận quản lý, quản trị hiện đại. Cách tiếp cận quản trị hiện đại với mục
đích đánh giá là để phát triển cá nhân và tổ chức. Kết quả đánh giá nhằm cung
cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, là đầu
vào quan trọng cho công tác quản trị nhân lực, giúp bố trí, sử dụng cán bộ, công
chức hợp lý. Cần có quy định cụ thể, công bằng, khách quan và sự tách bạch rõ
ràng giữa trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức với kết quả đánh giá của
công chức; sự tách bạch giữa kết quả đánh giá cá nhân công chức với kết quả
thành tích của tập thể cơ quan, đơn vị để tránh tình trạng vì thành tích tập thể,
trách nhiệm người đứng đầu mà “dĩ hòa vi quý” với từng cá nhân công chức
trong tổ chức.
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó chú trọng
đến việc đánh giá cán bộ, công chức phải căn cứ vào kết quả, hiệu quả công tác
của cán bộ, công chức; thẩm quyền đánh giá cán bộ, công chức thuộc về trách
24



– liên hệ 0973707875

nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ, công chức. Sửa đổi,
bổ sung, ban hành mới quy trình đánh giá công chức, đảm bảo dân chủ, công
bằng, công khai, chính xác và trách nhiệm đối với việc đánh giá công chức.
Thứ ba, hoàn thiện danh mục hệ thống việc làm và cơ cấu theo ngạch công
chức, từ đó xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá của từng vị trí việc làm.
Thực hiện tốt được yêu cầu này, việc đánh giá đối với từng chức danh cán
bộ mới bảo đảm được khách quan, công tâm. Khi có được các tiêu chí đánh giá
cán bộ khoa học, thực tế và có sự đánh giá công khai, minh bạch của cấp có
thẩm quyền, chất lượng của các cơ quan tham mưu sẽ được nâng lên. Tiêu chí
đo kết quả, hiệu quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ và tiêu chí tín nhiệm của
nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ và đều quan trọng. Vì thế phải sớm xây dựng
cụ thể hai tiêu chí này. Nên chăng, tiêu chí để đánh giá người đứng đầu các ban
Đảng thì chủ yếu là chất lượng, số lượng và hiệu quả các tham mưu, đề xuất cho
cấp ủy thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách; tiêu chí đánh giá người đứng
đầu các bộ, ngành là hiệu quả, kết quả thực hiện chức năng quản lý nhà nước
nhưng quan trọng nhất là đề xuất được chính sách mới về lĩnh vực được giao,
tạo được sự đột phá hoặc góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển; tiêu chí đánh giá bí thư cấp ủy một địa phương chủ yếu là sự ổn định chính
trị và tăng trưởng một số chỉ tiêu chủ yếu về lĩnh vực kinh tế - xã hội (năm sau
cao hơn năm trước, khóa sau cao hơn khóa trước), qua đó nâng cao được đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương.
Về lâu dài, phải hướng tới đánh giá theo chỉ số hạnh phúc của người dân
mà nhiều nước đã làm để xác định hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng
đầu (chỉ số hạnh phúc của người dân bao gồm các thông số, như chỉ số hài lòng
của người dân, thu nhập, tỷ lệ lao động có việc làm, sức khỏe, số giờ làm việc,
môi trường...). Nếu đánh giá đúng hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở địa phương, đơn vị của người đứng đầu sẽ làm chuyển biến được tình
hình mọi mặt của đất nước. Đây cũng là cơ sở quan trọng để bố trí, sử dụng cán

bộ đúng, khắc phục được hiện tượng trong một số cấp ủy có cán bộ “lên không
xuống, vào không ra”.
Thứ tư, cá nhân mỗi công chức lập kế hoạch công tác cá nhân trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ của mình và kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan, đơn
vị. Mặt khác, cá nhân công chức có bản mô tả công việc cụ thể sẽ là cơ sở cho
việc theo dõi, giám sát tiến độ, chất lượng công việc để có đánh giá chuẩn xác
về kết quả thực hiện nhiệm vụ của công chức
Thứ năm, sử dụng kết hợp các phương pháp đánh giá khác nhau cho các
nhóm vị trí việc làm khác nhau. Một số vị trí việc làm nhất định có thể sử dụng
kết hợp phương pháp đánh giá trong nội bộ và đánh giá từ bên ngoài, đánh giá
chéo ... Ví dụ: vị trí việc làm nào mà có liên quan trực tiếp đến việc cung ứng
các dịch vụ công, có sự giao tiếp giữa công chức với nhân dân, cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp thì cần có ý kiến đánh giá từ các nhóm đối tượng khách hàng,
người dân, người hưởng thụ dịch vụ do công chức đó trực tiếp giao dịch.
25


×