Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

chuyên đề một số giải pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu môn toán lớp 6 trường THCS số 1 xuân quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.38 KB, 16 trang )

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN BẢO THẮNG
TRƯỜNG THCS SỐ 1 XUÂN QUANG

CHUYÊN ĐỀ
“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu môn Toán lớp 6 trường
THCS số 1 Xuân Quang”

I. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
* Về phía giáo viên: Được sự quan tâm từ phía nhà trường và tổ chuyên
môn đã tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian biểu và về lớp học tương đối phù hợp.
Được tập huấn đầy đủ về phương pháp dạy học mới.
*Về phía học sinh: Đa số các em học sinh lớp 6 đã được làm quen với mô
hình trường học mới từ tiểu học, có ý thức học tập tốt.
* Về phía PHHS: Đa số các gia đình đều quan tâm đến việc học tập của
con em mình.
2. Khó khăn
* Về phía HS: Nhiều học sinh có trình độ nhận thức và khả năng thực
hành chưa cao, học rất thụ động. Hầu hết các em có kĩ năng tính toán còn chậm
và thiếu chính xác, chưa linh hoạt, chưa vận dụng hợp lí các phương pháp giải
hợp logic.

1


Nhiều học sinh chưa tự tin, chưa tự giác trong hoạt động nghiên cứu bài
học, còn dựa dẫm vào hoạt động của các bạn khác.
Kỹ năng đọc hiểu của học sinh còn kém. Nhiều học sinh từ một bài giải
không xác định được đáp án đúng hay sai.
Một số em chưa tích cực học tập, còn mải chơi không chú ý, lười học tập
và tìm hiểu bài, chuẩn bị bài. Một số ít học sinh không có hứng thú học tập với


bộ môn khó như môn Toán.
Đối tượng học sinh yếu kém, chưa có phương pháp học tập phù hợp.
* Về phía PHHS: Một số phụ huynh còn mải lo kinh tế, chưa có điều kiện
để quan tâm đến vấn đề học tập của con em mình, còn có tư tưởng khoán trắng
cho giáo viên. Rất ít người quan tâm tới việc cùng học và hướng dẫn học ở nhà.
3. Nguyên nhân các yếu tố tác động
Do học sinh bị hổng các kiến thức cơ bản của lớp dưới.
Cách trình bày lời giải một bài toán chưa thật chặt chẽ và thực hiện các
phép tính chưa chính xác nên hướng dẫn học sinh cần phải thực hiện cho hợp lí.
Chưa có phương pháp học tập hợp lí, chưa xác định đúng các dạng toán;
Chưa có thời gian biểu học ở nhà cụ thể, không giải được nhiều bài tập ở lớp.
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Quan sát, tìm hiểu thông qua giảng dạy môn Toán để tìm đối tượng
yếu.
Thông qua học bạ lớp dưới, kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản,
trọng tâm mà các em đã được học. Qua đó giúp tôi nắm được những đối tượng
2


học sinh yếu kém và những ''lỗ hổng” kiến thức của các em. Trên cơ sở đó tôi
tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục.
2. Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn
đến học sinh học yếu đó là:
a. Học sinh có nhiều "lỗ hổng" về kiến thức cũng như kỹ năng do:
* Nguyên nhân khách quan:
Do kinh tế gia đình khó khăn nên về nhà em còn phải phụ giúp gia đình vì
vậy thời gian dành cho học tập ít, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế.
Do học sinh có sự tác động của bên ngoài thanh niên trong địa bàn nơi cư
trú đã nghỉ học lôi kéo chơi bời hay có nhiều trò chơi hấp dẫn như điện tử,..

trong cuộc sống dẫn đến sao nhãng việc học hành.
* Nguyên nhân chủ quan: Do học sinh lười học.
b. Do khả năng tiếp thu còn hạn chế
c. Do phương pháp học tập chưa phù hợp.
3. Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém.
a) Trước hết, tôi chú trọng khắc phục các yếu tố khách quan.
Trên cơ sở tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh trong lớp 6 mà bản thân đảm
nhiệm giảng dạy, tôi phân loại hoàn cảnh:
+ Với học sinh khó khăn về sách vở: tôi kêu gọi các bạn trong lớp và nhờ
sự giúp đỡ của nhà trường, ban đại diện cha mẹ học sinh để các em có thêm
quần áo, giày,dép và đủ đồ dùng học tập, sách, vở cho môn học.
3


+ Với các em đã có đủ sách vở nhưng điều kiện thời gian hạn chế do phụ
giúp cha mẹ, tôi tiếp cận giúp đỡ các em ngay trong tiết học, qua hoạt động thực
hành hướng dẫn giúp đỡ các em. Đồng thời động viên các em tranh thủ thời gian
rảnh rỗi cố gắng ôn bài ngay trên lớp. Thêm vào đó, tôi phân công các bạn học
khá hơn có trách nhiệm giúp đỡ bạn trong giờ học và ngoài giờ khi bạn cần
hướng dẫn.
Nếu học sinh có sự tác động của bên ngoài thanh niên trong địa bàn nơi
cư trú đã nghỉ học lôi kéo chơi bời hay có nhiều trò chơi hấp dẫn như điện tử,..
trong cuộc sống dẫn đến sao nhãng việc học hành, tôi gần gũi nói chuyện và
phân tích lợi ích của việc học và tác hại của việc em tham gia những hoạt động
ảnh hưởng không tốt tới việc học. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với PHHS và
GVCN lớp để điều chỉnh học sinh đi đúng hướng.
Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần, ví dụ như bố
mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm
trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng...Thông qua học sinh và phụ huynh tôi
thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em , động viên an ủi để các em

có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại
trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.
b) Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học.
Vì mô hình trường học mới tập trung đổi mới phương pháp giáo dục theo
hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh để giúp
các em biết chủ động trong học tập, tích cực hợp tác, tự tin, tự quản, tự học và tự
4


đánh giá. Mục tiêu dạy học trong mô hình trường học mới chú trọng hình thành
các kĩ năng nhận thức, năng lực hoạt động, năng lực tự học, các kĩ năng giải
quyết vấn đề. Mối quan hệ giữa giáo viên - học sinh và học sinh - học sinh mang
tính hỗ trợ, hợp tác.
Trong tổ chức của từng nhóm, có nhóm trưởng với nhiệm vụ tổ chức, điều
hành các hoạt động của nhóm. Thời lượng hoạt động chủ yếu là hoạt động cá
nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động nhóm (trong đó, hoạt động cá nhân chiếm
thời lượng lớn nhất), thời lượng dành cho hoạt động toàn lớp là rất ít. Vì vậy
trong quá trình dạy học, tôi quan sát học sinh làm việc đặc biệt là các học sinh
yếu để nhắc nhở các em tự giác, tích cực hợp tác thực hiện yêu cầu. Tôi đồng
thời xuống tận nơi hỗ trợ giúp đỡ các em làm việc. Tôi luôn nhắc nhở học sinh
trong cùng một cặp đôi, khi làm xong hoạt động cá nhân của mình thì quay sang
hỗ trợ bạn làm việc. Để có nhiều thời gian hỗ trợ học sinh học tập, khi có nhiều
nhóm, cặp đôi làm xong nhiệm vụ thì tôi kiểm tra một nhóm hoặc một vài cặp
đôi sau đó yêu cầu thành viên nhóm( cặp đôi) hỗ trợ mình đi kiểm tra nhóm
khác.
* Lười học do không có hứng thú học tập
Học sinh chỉ có được động cơ học tập khi các em cảm thấy hứng thú đối
với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình. Do vậy, ngoài việc sử dụng các
hình thức thi đua giữa các nhóm, các cặp đôi, lôi cuốn học sinh vào những hoạt
động trên lớp, giáo viên còn phải:


5


Cho học sinh thấy được ứng dụng thực tế trong đời sống hàng ngày của
bộ môn Toán, như thông qua tiết học với tình huống thực tế học sinh thấy được
nhu cầu cần phải dùng toán học để tính toán đưa đến kết quả.
Ví dụ 1: Tính quãng đường đi từ Hà Nội lên Yên Bái qua Vĩnh Yên và
Việt Trì. Biết quãng đường bộ Hà Nội – Vĩnh Yên là 54km, Vĩnh Yên –Việt Trì :
19km, Việt Trì –Yên Bài: 82km.
Ví dụ 2: Nhờ lập luận và thuật toán mà có thể dễ dàng tìm được số học
sinh của một khối 6 trong một trường, biết học sinh khối 6 của trường khi xếp
hàng 12 hàng, hàng 15, hàng 18 đều vừa đủ. Biết rằng số HS nằm trong khoảng
từ 200 đến 400.
Tích cực sử dụng đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin dạy học
trình chiếu khi hoạt động toàn lớp chốt lại nội dung kiến thức cơ bản của toàn
phần, toàn bài hoặc kết quả hoạt động của nhóm …để không khí học tập thêm
sinh động, học sinh dễ hình dung, tưởng tượng bài học, từ đó giúp học sinh có
tình cảm với môn học và có nhu cầu học tập hơn.
Trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt,
xấu và sự liên quan đến tương lai của các em.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải chú ý giao nhiệm vụ cụ thể tới
học sinh, quan tâm tới những khó khăn và giúp đỡ học sinh hoàn thành nhiệm vụ
học tập, đặc biệt là những học sinh yếu, học sinh còn khó khăn trong việc thực
hiện nhiệm vụ học tập. Giáo viên phải theo dõi, quan sát, phát hiện kịp thời
những khó khăn của các em, thực hiện hướng dẫn, gợi ý, giúp đỡ tận tình để các
6


em nắm được theo chuẩn kiến thức kỹ năng. Nếu nhiều em trong lớp cần giúp

đỡ thì giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho bạn học khá hướng dẫn hỗ trợ bạn
học kém. Kết hợp phương châm Đôi bạn cùng tiến để kêu gợi tinh thần bạn giúp
bạn nhắc nhở, đôn đốc, hướng dẫn bạn yếu hơn mình học tập vươn lên. Do đó,
những học sinh không học, nói chuyện riêng sẽ được Nhóm trưởng, bạn cùng
bàn (cặp đôi) và giáo viên nhắc nhở, giúp đỡ.
Về mặt chuyên môn, thông qua Nhóm trưởng, cặp đôi, tăng cường công
tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà: Các cặp đôi tự kiểm tra bài của nhau,
nhóm trưởng kiểm tra, nhắc nhở các thành viên trong nhóm thực hiện nhiệm vụ
học tập theo yêu cầu. Trong các giờ học, chỉ đạo các nhóm trưởng tích cực lấy ý
kiến đóng góp của các bạn học yếu, khuyến khích cho các bạn phát biểu và khi
hoạt động tập thể thì giáo viên phải biết gây dựng niềm tin cho các em:
Thầy, cô giáo phải khuyến khích, nâng đỡ các em, tạo cho các em có lòng
tin nơi chính mình, xây dựng các em có niềm tin vững chắc vào bản thân mình,
sự tự tin trong con người các em chính là những ngọn lửa mạnh mẽ thúc đẩy cho
các em tiến bộ.
Để giúp các em nhận thấy được sự tiến bộ trong học tập, giáo viên cần
phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học, tránh không nên đưa ra những yêu
cầu quá cao đối với học sinh. Ngoài ra giáo viên cần khuyến khích học sinh học
theo phương châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong quá trình thực hành.
Trong quá trình dạy, giáo viên không nên quá khắt khe với những lỗi mà
học sinh mắc phải để tránh cho các em tâm lí sợ mắc lỗi khi thực hành.
7


Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc
tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện
pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để
theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào
việc dạy học đồng loạt.
* Lười học do hổng kiến thức dẫn đến khó hiểu, khả năng tiếp thu chậm,

không có phương pháp học tập
Tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện
nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Vì vậy, tôi đã thực hiện như sau:
Đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp.
Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về
trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém
thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề đảm
bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả.
Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri
thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK,
SGV, chuẩn kiến thức kỹ năng ... Giảng dạy phải bám sát đối tượng xem năng
lực của HS đến đâu để soạn, nội dung bài soạn phải phù hợp với năng lực HS
nhưng vẫn phải đảm bảo theo chuẩn KTKN,có thể tinh giản KT để phù hợp với
đối tượng HS. Chỉ rõ những kiến thức học sinh cần ôn lại để tạo tiền đề cho bài
học mới

8


Ví dụ để học bài “Ước chung lớn nhất; Bội chung nhỏ nhất”, tôi cần nhắc
học sinh ôn tập lại nội dung bài Ước và bội; Ước chung và bội chung; phân tích
một số ra thừa số nguyên tố.
Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý khi
hướng dẫn học sinh (Hoạt động tập thể - toàn lớp):
- Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu
cách thực hiện thành thạo từng bước một.
- Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học
sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống.
- Khi dạy phụ đạo chiều, giáo viên cần soạn thêm nhiều bài tập đơn giản
và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều

lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức.
Sau khi kiến thức đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức
tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau
hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn.
* Thực hiện biện pháp lấp "lỗ hổng" về kiến thức và kỹ năng cho học sinh
Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh
" phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất
phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học. Còn việc lấp lỗ
hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát
không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới.

9


Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng
về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những "lỗ hổng" điển hình đối với
học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để
có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ.
Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém toán lớp 6 thường
không nhớ kiến thức của bài trước đã học có liên quan...,thường vẽ hình theo
diễn đạt còn kém. các khái niệm về trung điểm của đoạn thẳng…
Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng
này cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ đạo chiều và cả giao bài về nhà
kết hợp với việc tích cực kiểm tra tính đúng sai của các em, hướng dẫn các em
trình bày bài giải
Lấp lỗ hổng bằng cách cho học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức:
Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc
của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp
với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn.
Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? yêu

cầu cái gì?. Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải
toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thì giờ giúp
các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này.
Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức
độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường, cùng mức
độ. Chuyển thể từ kiến thức phức tạp thành thực hành đơn giản, dễ hiểu. Giáo
10


viên đưa liều lượng kiến thức vừa phải, thích hợp với năng lực và điều kiện của
học sinh.
Cụ thể:
Để giúp học sinh giải được bài toán rút gọn biểu thức chứa căn bậc hai thì
học sinh luyện các bài tập theo mức độ từ dễ đến khó như
Dạng bài toán tìm số tự nhiên x, biết
Bài 1. (mang tính chất ôn lại kiến thức lớp dưới). Tìm số tự nhiên x, biết
a, x +32 = 59

b, 2x + 15 = 37

Bài 2. Tìm số tự nhiên x, biết
a, (x -45). 27 = 0

b, 23.(42 – x) = 23

Bài 3. Tìm x, biết
a) 156 –(x+61) =82

b) 480 +45.4 = (x+125):5 +260


c) [(x+50).50 – 50] : 50 =50
...
Trong thực hiện các phép tính về số tự nhiên cũng tương tự, ban đầu thực
hiện với ít số, số nhỏ sau đó thực hiện với nhiều số
Bài 1. tính
a) 3 + 125 + 17 = (3 + 17) + 125 = 20 + 125 = 145.
b) 45 + 63 + 55 + 37 = (45 + 55) + (63 + 37) = 100 + 100 = 200.
c) 2 . 16 . 5 = (2 .5) . 16 = 10 . 16 = 160.
Bài 2. Tính nhanh
a) 26+ 27 + 28 + 29 +30 + 31+ 32 + 33
11


= (26 + 33)+ (27+ 32) + (28+ 31)+(29+30)
= 59. 4 = 236
b) 997 + 37 = ( 997 +3) + 34 = 1000 +34 =1034
c) 49 + 194 = 43 +(6 +194) = 43 + 200 = 243
d) 65.98 = 65.(100 – 2) = 65. 100 – 65.2 = 6500 – 130 = 6370
Bài 3. Tính nhanh
a) 2.31.12 +4.6.42 + 8.27.3 = 24.31 + 24.42 + 24.27= 24( 31 + 42 + 27)
= 24. 100 = 2400
b) 36.28 + 36. 82 + 64.69 +64.41
= 36(28 +82) + 64(69 + 41) = 36. 110 + 64. 110 = 110.( 36 +64 )
= 110. 100
= 11000
Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu không nên ra quá
nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra,
chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em.
Tiếp đó, tập cho học sinh cách làm thường xuyên các dạng tương tự, để
cho các em thành thạo nhiều hơn, đòi hỏi giáo viên phải dành thời gian cho các

em thực hành. Tích cực sửa bài vào trong vở kết hợp với việc yêu cầu trao đổi
kết quả theo cặp đôi, chia sẻ kết quả toàn lớp. Thông qua đó học sinh có thể
mạnh dạn hơn, không còn e dè, sợ sệt.

12


Cách trình bày giúp các em luôn nhớ được lí thuyết, dựa vào bài toán mà
các em đã học được lý thuyết. Bài toán phải luôn thể hiện các bước rành rọt của
quy tắc.
Tuy vậy, không phải chỉ một hay hai bài toán mà học sinh nắm được bài,
đòi hỏi phải có sự rèn luyện thường xuyên, có sự kiểm tra chéo giữa các học
sinh. Mỗi dạng bài tập, thông qua gợi mở của từng bài giúp các em được thực
hành nhiều lần, quen thuộc và sẽ thành thạo.
Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ
tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có
thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và
kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực
mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại.
*Giúp đỡ học sinh rèn luyện kỹ năng học tập, có phương pháp học tập
phù hợp.
Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như
thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa
học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã
đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp
lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết
sức quan trọng.
Như trong hình học, để giúp học sinh giải bài toán dễ dàng phần cộng
đoạn thẳng ví dụ bài tập tổng hợp của chương I –Hình học 6:
13



Bài 1. Trên tia Ox vẽ hai đoạn thẳng OA = 4 cm, OB = 6cm. Tính độ dài
đoạn thẳng AB
Bài 2. Cho tia Ax, xác định điểm B và M sao cho AB = 6cm, AM= 3cm.
a) M có nằm giữa A và B
b) M có là trung điểm của AB không?

Bước 1. Hoạt động tập thể. Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hình, so sánh
độ dài hai đoạn thẳng trên tia để kết luận điểm nào nằm giữa hai điểm còn lại.
Bước 2. yêu cầu học sinh viết hệ thức liên hệ khi điểm A nằm giữa hai
điểm O và B.
Bước 3. tính độ dài đoạn thẳng
Tùy vào bài toán mà giáo viên cho học sinh nêu hướng làm rồi giao nhiệm
vụ hoạt đông cá nhân, trao đổi kết quả cặp đôi, kết quả toàn nhóm thực hành bài
toán.
Giúp đỡ học sinh rèn luyện kỹ năng học tập,có phương pháp học tập phù
hợp.Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập toán:
- Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập.
- Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn
thận.
- Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức
(tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công

14


thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học
tập.
III. KẾT QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHUYÊN

ĐỀ
Quá trình thực hiện chuyên đề nêu trên đối với học sinh lớp 6 ở trường mà
tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả khả quan. Học sinh yếu kém có ý thức hơn
trong học tập. Hơn thế nữa qua cách làm này, các em rất hứng thú và yêu thích
môn Toán hơn, tự tin hơn trong học tập.
- Học sinh nắm vững các kiến thức và khắc sâu được kiến thức cho các
em.
- Rèn luyện khả năng phân tích và tìm mối quan hệ giữa các bài toán.
- Tăng khả năng tính toán, suy luận logic, lập luận chặt chẽ.
- Định hướng được các dạng bài toán để thực hiện.
- Tăng khả năng tự học của các em.
- Thấy được hiệu quả của đề tài mang lại.
Tuy nhiên, khả năng trình bày bài của các em học sinh lớp 6 chưa cao, các
em trình bày còn ẩu, láu táu nên kết quả bài làm mặc dù biết cách làm bài toán
nhưng thường bị trừ điểm vì những lỗi trình bày
Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu học tốt môn toán là việc làm rất khó
khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, hướng dẫn tỉ mỉ và và phải có tinh
thần trách nhiệm.

15


Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị
hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được.
Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương lai các em.
Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục.
Công việc tìm giải pháp giúp học sinh yếu giải được toán và yêu thích
môn toán cần phải làm thường xuyên và làm lâu dài mới làm tăng khả năng giải
toán cho các em. Qua đó cũng góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giảng
cũng như chất lương giáo dục ngày một đi lên.

Mặt khác, để nâng cao chất lượng hơn nữa, giáo viên cần chú ý nhiều tới
kỹ năng trình bày lời giải của các em học sinh khi làm toán.
Vậy trên đây là chuyên đề của cá nhân tôi rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến chân thành của các bạn, anh, chị đồng nghiệp bổ sung chuyên đề
đồng thời trao đổi với nhau trong việc dạy học sinh yếu. Giúp cho kết quả về
chất và lượng được nâng cao hơn. Góp sức nhỏ bé của mình vào việc dạy học
cho các em được tốt hơn.
Xuân Quang, ngày 12 tháng 3 năm 2019
Người thực hiện

Vũ Thị Hoàn

16



×