Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

ÔN tập môn CHÍNH TRỊ học đại CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.67 KB, 25 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
--------------------------------STT

CÂU HỎI

1

Khái niệm, đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của
chính trị học.

2

Tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại.

3

Tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại phương Tây cổ đại.

4

Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị.

5
6
7
8

Quyền lực chính trị: Khái niệm, cấu trúc. Sự chuyển hóa quyền lực chính
trị thành quyền lực nhà nước.
Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Liên hệ với hệ thống tổ chức quyền


lực chính trị ở Việt Nam.
Thủ lĩnh chính trị: Khái niệm, phẩm chất và vai trò. Liên hệ thực tiễn Việt
Nam.
Nội dung mối quan hệ chính trị với kinh tế? Liên hệ với đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam?

9

Văn hóa chính trị: Khái niệm, chức năng, phương hướng?

10

Khái niệm, cấu trúc của chính trị quốc tế đương đại.

1


Câu 1
Khái niệm, đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của chính trị học
---------------------* Khái niệm
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các
quốc gia đối với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự tham gia
của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp
đảng phái, nhà nước, nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục
tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
* Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất của
đời sống chính trị xã hội, những cơ chế tác động, cơ chế vận dụng; những phương thức,
thủ thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó.
Hay nói cách khác, Chính trị là một bộ phận của kiến thức thượng tầng và xã hội

gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước liên quan đến giai cấp, tổ chức, đảng phái, dân tộc các
tầng lớp xã hội mà cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, lãnh đạo tổ chức và xác định nội
dung hoạt động của nhà nước. Chính trị học đi sâu nghiên cứu các hình thức hoạt động xã
hội đặc biệt có liên quan đến nhà nước.
Hoạt động xác định mục tiêu chính trị trước mắt, mục tiêu triển vọng duwois dạng
khả năng và hiện thực cũng như con đường giải quyết các mục tiêu đó. Hoạt động tìm
kiếm, thực thi các phương pháp, phương tiện, những thủ thuật, những hình thức tổ chức có
hiệu quả đạt mục tiêu đã đề ra. Việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp những cán bộ thích hợp
nhằm hiện thực hóa có hiệu quả mục tiêu.
Đồng thời chính trị học còn nghiên cứu các quan hệ giữa các chủ thể chính trị.
Quan hệ giữa các giai cấp, liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác giai cấp vì yêu cầu
chính trị. Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực. Quan hệ giữa các
dân tộc để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân tộc trong điều kiện mỗi quốc gia dân
tộc. Quan hệ giữa các quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc tế trong thời đại
quốc tế hóa hiện nay.
* Chức năng
Chức năng của chính trị là phát hiện, dự báo những quy luật, tính quy luật cơ bản
nhất của đời sống chính trị trong phạm vi mỗi quốc gia và quốc tế; hình thành hệ thống tri
thức có tính lý luận, có căn cứ khoa học và thực tiễn: lý luận về tổ chức chính trị và cơ cơ
chế vận dụng những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị, lý luận về công nghệ
chính trị, nghệ thuật tổ chức và thực thi quyền lực chính trị, phục vụ sự nghiệp xây dựng
chế độ chính trị tiến bộ.

2


* Nhiệm vụ
Trang bị cho đội ngũ lãnh đạo chính trị những tri thức, kinh nghiệm cần thiết, giúp
cho hoạt động củ họ phù hợp với quy luật khách quan, tránh được những sai lầm: giáo
điều, chủ quan, duy ý chí...

Trang bị cho mỗi công dân những cơ sở khoa học để họ có thể nhận thức về các sự
kiện chính trị, trên cơ sở đó xây dựng thái độ, động cơ đúng đắn phù hợp với khả năng
trong sự phát triển chung mà mỗi công dân tham gia như một chủ thể.
Góp phần hình thành cơ sở khoa học cho các chương trình chính trị, cho việc
hoạch định chiến lược với những mục tiêu đối nội, đối ngoại, cùng các phương pháp,
phương tiện, những thủ thuật chính trị nhằm đạt mục tiêu chính trị.
Phân tích các thể chế chính trị và mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng, xây
dựng học thuyết, lý luận chính trị, làm rõ sự phát triển của nền dân chủ.
* Phương pháp nghiên cứu của Chính trị học
Chính trị học có hệ thống nghiên cứu độc lập bao gồm ba cấp độ: Phương pháp
luận, hệ phương pháp riêng và những phương pháp cụ thể.
- Là một ngành khoa học xã hội và nhân văn, chính trị học lấy chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu lĩnh
vực chính trị của đời sống xã hội. Qua đó nhận thức đúng đắn về lĩnh vực chính trị trong
quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và nhận thức đúng đắn về thực chất các
hiện tượng, quá trình chính trị: Chúng xuất hiện như thế nào trong khuôn khổ một thời kỳ
lịch sử nhất định dưới ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế và các nhân tố khác...và chỉ dựa
trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, chính trị học khi nghiên cứu mới nhận thức được logic
khách quan, bản chất, quy luật của nó. Quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan
điểm lịch sử được kết hợp để nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể nhằm nhận thức rõ
bản chất của chính trị ở những không gian và thời gian cụ thể.
- Trên cơ sở phương pháp luận Mác-xit, với tư cách là khoa học tổng hợp, khoa
học liên ngành, chính trị sử dụng phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác như xã
hội học chính trị, địa chính trị, triết học chính trị... Chính trị học triệt để sử dụng phương
pháp thống nhất giữa loogic và lịch sử, phân tích và hệ thống. Sự khác nhau chỉ là ở mức
độ kết hợp giữa lôgic và lịch sử
Ngoài những phương pháp trên, chính trị học còn sử dụng các phương pháp cụ thể
như phương pháp so sánh, phương pháp thực nghiệm chính trị và hàng loạt các phương
pháp công cụ như thống kê, mô hình hóa, miêu tả...
Ngoài ra, việc nghiên cứu đời sống chính trị cũng cần được kết hợp chặc chẽ giữa

tài liệu chính trị khách quan với sự đánh giá từ phương diện đạo lý.
--------------------------------------

3


Câu 2
Tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại
----------------------Nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị phương Đông, chúng ta thấy nổi trội lên nhất
là lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Các trường phái tư tưởng chính trị Trung Quốc
xuất hiện chủ yếu trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770-221TCN). Đây là giai đọn
với những biến động lịch sử xã hội to lớn, có ý nghĩa vạch đường, đặt nền móng cho tư
tưởng Trung Quốc.
Thời kỳ này Trung Quốc đang nằm trong sự chuyển giao hình thái kinh tế -xã hội từ
chiếm hữu nô lệ sang phong kiến, sự thống trị của chế độ tông pháp nhà Chu đang suy tàn.
Các nước chư hầu được nhà Chu lập nên lúc này quay sang chế độ cát cứ, thôn tính lẫn
nhau, xưng bá chủ với các nước khác. Chiến tranh nổ ra liên miên, đạo đức, trật tự xã hội
suy thoái, nhân dân đói khổ bần hàn. Nhu cầu xã hội bức thiết đặt ra lúc này là phải có
những học thuyết chính trị phản ánh được xu thế thời cuộc, thỏa mãn được lợi ích các giai
cấp, các tầng lớp xã hội.
1. Nho gia
Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị
Trung Quốc. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc trong
suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, trong đó Khổng Tử và Mạnh Tử là hai nhân vật tiêu biểu.
a. Khổng Tử
Là một trong những nhà tư tưởng, nhà giáo và là người sáng lập ra tư tưởng Nho
giáo vĩ đại của Trung Quốc. Rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử cho đến nay vẫn rất giá trị,
như “Nhân - Lễ - Chính danh”. Ông cho rằng, “nhân” có nghĩa là phải biết quan tâm đến
người khác, nếu những việc gì mà bản thân không thích thì cũng không nên ép người khác
làm. Lễ là những trật tự, phân chia thứ bậc trong xã hội, là chuẩn mực đạo đức cho mọi

hành động của các nhân và toàn xã hội. Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng,
xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng các nhân, tầng lớp trong xã hội. Ba yếu tố
trên có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên tính chặc chẽ của học thuyết. Tuy nhiên về
bản chất học thuyết của Khổng Tử là duy tâm và phản động, vì nó không tính đến các yếu
tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu tố tinh thần (đạo đức). Mục đích của học thuyết
naỳ là bảo vệ chế độ đẳng cấp, củng cố địa vị thống trị của giai cấp thống trị.
b. Mạnh Tử
Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của Khổng Tử như: Thuyết
tính thiện, theo ông bản tính tự nhiên của con người là tính thiện; Quan niệm về vua- tôidân: ông là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trong dân “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh”. Nhưng dân dân ở đây chỉ là kẻ phụ thuộc. Coi trong dân chỉ là thủ đoạn chính
trị để thống trị tốt hơn mà thôi; Quan niệm về quân tử- tiểu nhân; Chủ trương vương
đạo...Học thuyết “nhân chính” của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ hơn so với Khổng Tử, tuy
nhiên điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý giải vấn đề
quyền lực.
2. Mặc gia
Người sáng lập ra trào lưu tư tưởng này là Mặc Tử, tư tưởng chính trị của ông được
thể hiện trong cuốn sách Mặc Tử với những nội dung như: Thuyết yêu thương cùng có lợi;
Mọi người đều phải lao động và tiết kiệm; tôn trọng người hiền và học tập người trên...ông
kich liệt phản đối chiến tranh. Tư tưởng chính trị của ông ôn hòa, phù hợp với lợi ích của
4


người sản xuất nhỏ. Ông mong muốn xây dựng xã hội bình đẳng, bác ái. Phương thức để
đạt được xã hội đó là chính trị “dân chủ”, dựa trên tiêu chuẩn hiền tài, không dựa trên quan
hệ thân thuộc họ hàng. Tuy hiên tư tưởng Mặc gia này không phù hợp với xu thế thời cuộc
và không thể thực hiện.
3. Pháp gia
Đại biêu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, ông cho rằng xã hội loài người luôn phát
triển theo hướng đi lên, bản tính con người là ham lợi. Tư tưởng của ông được xây dựng
trên cơ sở thống nhất pháp- thuật- thế: Pháp luật là những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn

mực do vua ban ra được phổ biến rộng rãi để nhân dân thực hiện; Thuật là thủ đoạn hay
thuật cai trị của người làm vua để kiểm tra giám sát, điều khiển bầy tôi; Thế là uy thế,
quyền lực của người cầm quyền, thế phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được
chia sẻ, không được để rơi và tay kẻ khác...Như vậy, tư tưởng Pháp gia đã phục vụ đắc lực
cho giai cấp thống trị hiện thời. Tuy nhiên, học thuyết này bị cực đoan hóa dẫn đến sự cai
trị hà khắc tàn bạo (như vụ án Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn kẻ sĩ).
Tóm lại, các trường phái tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại tuy còn sơ khai
nhưng phần nào đã đặt nền móng cho sự phát triển của các luồng tư tưởng sau này. Tính da
dạng của các học thuyết nói lên tính phức tạp của thực tiễn chính trị, sự khốc liệt trong
thời kỳ hình thành và phát triển chế độ phong kiến. Cuộc đấu tranh giữa các chủ trương
Đức trị của Nho gia, Pháp trị của Pháp gia nói lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp quý tộc
bảo thủ, lạc hậu và giai cấp địa chủ mới có tư tưởng cấp tiến. Trong đó phái pháp gia đã
tích cực tác động, thúc đẩy lịch sử phát triển và có công trong việc thống nhất đất nước.
Điểm chung nhất của các học thuyết chính trị này là muốn xã hội ổn định, phát triển. Do
vậy những tưởng chính trị trên có những giá trị chung cho mọi thời đại và việc kế thừa có
chọn lọc những tinh hoa trong đó là rất cần thiết cho thực tiễn chính trị ngày nay.

------------------------------------

5


Câu 3
Tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại và phương Tây cổ đại
--------------------------* Tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại:
1. Hêrêđốt (484 - 425 TCN)
Hêrêđốt được coi là người cha của chính trị học. Ông là người đầu tiên phân biệt
và so sánh các thể chế chính trị khác nhau. Theo ông, có ba thể chế chính trị: quân chủ,
quý tộc và dân chủ.
+ Quân chủ: Thể hiện sự độc quyền của một người là vua

+ Quý tộc: Là thể hiện quyền lực thuộc về một nhóm người ưu tú
+ Dân chủ: Quyền lực thuộc về đám đông, thông qua con đường bỏ phiếu
2. Xênôphôn (khoảng 427 - 355 TCN)
- Ông thuộc tầng lớp quý tộc. Khi bàn về chính trị, ông bàn về cách cai trị và cách
quản lý. Ông thấy chính trị có một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao nhất - nghệ thuật
của bậc đế vương. Ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực,
người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nô lệ.
- Tư tưởng chính trị của ông thể hiện ở quan điểm về thủ lĩnh chính trị. Theo ông,
thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, biết cảm hóa người
khác. Nhưng người thủ lĩnh cũng phải có những phẩm chất đặc biệt như biết bảo vệ lợi ích
chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần chúng. Thiên tài của thủ lĩnh không phải
tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn vể mặt thể chất, với
ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh liêm.
3. Platôn (428 - 347 TCN)
- Platôn là nhà triết học thiên tài, đồng thời còn là nhà chính trị xuất sắc. Tư tưởng
chính trị của ông được phản ánh trong tác phẩm: “Nước cộng hòa”, “Các đạo luật và Nền
chính trị”. Ông là người đầu tiên đạt tới quan niệm giá trị phổ biến, tầm vĩ mô của chính trị
và hoạt động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị đích thực.
+ Ông quan niệm về xã hội lý tưởng, là xã hội được trị vì bởi sự thông thái, phải
thực hiện đúng trật tự mà ông phân chia xã hội thành 3 giai tầng ( tầng lớp cai trị, tầng lớp
bảo vệ thành ban, tầng lớp tạo ra của cải).
+ Điều kiện để duy trì xã hội lý tưởng là cộng đồng về tài sản và hôn nhân, không
dựa vào sở hữu tư nhân và tình yêu gia đình.
4. Arixtốt (384 - 322 TCN)
- Arixtốt là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai công trình nghiên
cứu và chính trị là “Chính trị” và “Hiến pháp Aten”, ông đã tổng kết và phát triển tài tình
các kết luận của các bậc tiền bối về nguồn gốc và bản chất, hình thức và vai trò của nhà
nước pháp quyền.
+ Quan niệm về chính trị ông cho rằng con người là động vật chính trị
+ Quan niệm về nguồn gốc: Bản chất của nhà nước: nhà nước xuất hiện tự nhiên

được hình thành từ gia đình công xã, chức năng của nhà nước là lãnh đạo. Thể chế chính
trị điều hành và quản lý xã hội về 3 phương diện: lập pháp, hành pháp và phân xử.
+ Tư tưởng chính trị của Arixtot chứa đựng những giá trị tích cực, con người có
khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Chính trị là làm sao trong đời sống
cộng đồng, cái chung cao hơn cái cá nhân riêng biệt; giáo dục đạo đức và phẩm hạnh cho
công dân là khoa học lãnh đạo con người….
6


* Tư tưởng chính trị phương Tây cận đại:
1. J.Lốccơ (1632 - 1704)
Ông là một nhà triết học duy vật người Anh, là một nhà tư tưởng chính trị lớn. Tư
tưởng chính trị của ông tập trung trong tác phẩm “quyền lực dân sự”. - Pháp quyền tự
nhiên: Đó là hành động từ ý chí cá nhân lên bằng trật tự nội tại sẵn có ở bản chất con
người. Nó xuất hiện như là pháp quyền hợp pháp duy nhất, là cái có khẳ năng duy nhất, là
cái có thể được thừa nhận duy nhất. Tư tưởng có ý nghĩa quyết định của ông là chuyển
pháp quyền tự nhiên sang tự do cá nhân.
Nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Theo ông
quyền tự nhiên của con người là bất khả xâm phạm. Đó là quyền được sống, quyền tự do,
quyền sở hữu. Sự vận động tự nhiên của xã hội dẫn đến tình trạng người dư thừa, kẻ thiếu
đói, xã hội rơi vào tình cảnh mất an ninh, quyền tự nhiên của mỗi cá nhân bị xâm phạm.
Để bảo vệ những quyền tự nhiên đó mà con người, mọi thành viên trong xã hội cùng ký
kết hình thành chính quyền. Đó là cơ quan quyền lực chung mà chức năng gốc của nó là
bảo vệ những quyền tự nhiên của mỗi con người. Từ đó ông đưa ra kết luận:
2. S.L. Môngtexkiơ (1689 - 1755)
Ông là một nhà tư tưởng chính trị vĩ đại người pháp. Tác phẩm chính “Tinh thần
luật pháp”
- Học thuyết về nguồn gốc nhà nước Ông cho rằng nhà nước xuất hiện ở một trình
độ phát triển nhất định của xã hội loài người. Quy luật đầu tiên của con người là hòa bình,
quy luật thứ 2 là mong muốn kiếm thức ăn cho mình, quy luật thứ 3 là nhu cầu hỗn hợp

(con người giao tiếp với nhau), quy luật thứ 4 là con người là mong muốn sống trong xã
hội (lập gia đình, giao tiếp, xã hội, nhà nước). Nhà nước chỉ xuất hiện một cách tất yếu khi
trong xã hội xuât hiện tình trạng chiến tranh mà không thể chấm dứt bằng bạo lực. Nhà
nước là sản phẩm của những mâu thuẫn không thể điều hòa được.
- Lý luận về chính phủ Ông đưa hai khái niệm cơ bản là bản chất và nguyên tắc
của nhà nước. Bản chất là quan hệ giữa người cầm quyền và người bị quản lý. Nguyên tắc
là cái làm cho chính phủ hoạt động Từ bản chất và nguyên tắc đó ông đã nghiên cứu các
hình thức nhà nước.
Theo ông tự do chính trị của công dân đó là quyền mà người ta có thể làm mọi cái
mà pháp luật cho phép. Như vậy, tự do chính trị chỉ có ở những quốc gia mà tất cả quan hệ
đều được pháp luật công nhận. Theo ông thể chế chính trị tự do phải là thể chế chính trị
mà trong đó quyền lực tối cao được phân chia thành 3 quyền, lập pháp, hành pháp, tư
pháp, sao cho 3 quyền này cân bằng và kiềm chế lẫn nhau.
3. J.Rutxô (1712 - 1778)
Là nhà tư tưởng vĩ đại pháp, có đóng góp to lớn vào học thuyết chính trị. Tác phẩm
chính của ông là “khế ước xã hội”.
- Tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản – chủ nghĩa tự do cấp tiến Ông cho rằng sự
vận động từ trạng thái tự nhiên sang xã hội có hai mốc quan trọng, đó là sự xuất hiện luyện
kim và nông nghiệp, tạo sự xuất hiện chế độ tư hữu, nảy sinh khoảng cách giàu nghèo và
bất công xã hội. Con người có xu hướng liên kết với nhau để thoát khỏi sự diệt vong vật
chất và từ đó xã hội công dân ra đời.
- Những giá trị trong học thuyết chủ quyền tối thựợng của nhân dân: để vương lên
đạt tới tự do, thủ tiêu chuyên chế, ông chủ chương nhượng quyền của mỗi cá nhân thành
7


viên, để tập trung hinh thành quyền lực chung tối cao – quyền lực tối thượng của nhân
dân.
Quan niệm của Rutxo về các loại hình chính phủ.
+ Chính phủ dân chủ: là chính phủ lý tưởng, ở đây hành pháp gắn với lập pháp

+ Về chính phủ quân chủ: ông thừa nhận chính phủ quân chủ với điều kiện nền
quân chủ phải được chấp nhận bởi toàn thể nhân dân, nghĩa là phải được dân bầu ra và cai
trị bằng pháp luật.
+ Chính phủ quí tộc: ông tán thành dân chủ quý tộc tức là chính phủ chịu sự chi
phối của những quyền lực nhân dân do một số ít người. Đảm bảo sự tuyển chọn, trước khi
đưa ra quyết định.
-------------------------------

8


Câu 4
Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị
-----------------------------1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao trùm là
tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng đó được Người quán triệt và thể
hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”. Đây là hạt nhân cốt lõi nhất trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư
tưởng trọng tâm xuyên suốt toàn bộ hệ thống.
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc phải thực sự
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó độc lập là tiền đề, là điều kiện để đi đến chủ nghĩa
xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân
tộc. Điều này bắt nguồn từ bản chất của sự vận động lịch sử mà sau những tìm tòi công
phu cùng sự nếm trải thân phận của một người dân mất nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức
được. Người chỉ rõ rằng, giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản cũng giành độc lập, nhưng
sau đó nó quay lại thống trị dân tộc, áp bức nhân dân. Chỉ có giai cấp công nhân sau khi
giành độc lập dân tộc thì không chỉ giải phóng mình mà còn giải phóng toàn xã hội. Do
đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang tính cách mạng
phổ biến của cách mạng thể giới, mang tính quy luật của thời đại. Người khẳng định: “Chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phong này

chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”. Đó là con đường
đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc ta và các dân tộc bị phụ thuộc. Tư tưởng cách mạng
đó của Người đã đặt nền tảng vững chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá trình cách
mạng Việt Nam.
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, trở
thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng thường
xuyên góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
qua mọi thời kỳ.
Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở đại đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của
toàn xã hội. Đoàn kết trên lập trường của giai cấp công nhân, được thể hiện trên mọi
phương diện: đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết, theo Hồ Chí Minh, phải dựa trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa, đoàn kết
là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ cách mạng, cách mạng muốn thắng lợi thì phải
đoàn kết, đoàn kết lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng, lấy lợi ích tối cao của
dân tộc làm điểm quy tụ để đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích.
3. Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì
dân, bao nhiều quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân, chính quyền từ xã đến Chính
phủ Trung ương do dân cử ra, Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm
lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Từ quan niệm này, Hồ Chí Minh cho rằng: chế độ dân chủ phù hợp với nhà nước
ta. Đó là một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Tính chất nhân dân và
bản chất giai cấp của nhà nước ta được Hồ Chí Minh xác định rõ ràng và đích thân Người
9


cùng toàn Đảng, toàn dân, ra sức xây dựng. Người chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam…” và

“Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra chính phủ. Chính phủ
đó là thật, là chính phủ của toàn dân”.
Nhà nước của dân, theo quan niệm của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ dân không
chỉ có quyền giám sát, kiểm tra mà còn có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội. Hồ Chí
Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Về bản chất giai
cấp của nhà nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đoàn
kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, do giai cấp công
nhân lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quản lý xã hội
bằng hiến pháp và pháp luật, thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân
cấp rõ ràng.
Cùng những quan điểm trên, Hồ Chí Minh còn nêu lên quan điểm phục vụ của
cán bộ nhân viên nhà nước là: Việc gì có lợi cho dân, thì làm cho kỳ được. Việc gì có hại
cho dân, thì phải hết sức tránh. Chú ý thật sự đến quyền lợi của nhân dân thì trước hết phải
quan tâm đến quyền lợi thiết thực hàng ngày của dân, “làm cho dân có ăn, làm dân cho có
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”, chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu
cực khác, giữ bộ máy nhà nước thật trong sạch. Người thường xuyên nhắc nhở rằng, Nhà
nước ta không phải bộ máy áp bức dân, cán bộ viên chức nhà nước không phải là những
người “làm quan cách mạng” bóc lột nhân dân, kéo bè cánh để thu vén lợi ích cá nhân.
Người căn dặn, cán bộ phải tôn trọng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực hành “cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, nếu phạm khuyết điểm thì cả quyết công khai sửa lỗi
của mình.
4. Lý luận về Đảng cầm quyền
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chung, ngoài thì liên lạc với dân tộc vị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như có người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không
có bàn chỉ nam”

Theo cách thể hiện của Hồ Chí Minh, thì “đảng cách mệnh” có nghĩa là “đảng của
giai cấp vô sản”, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây dựng trên cơ sở những nguyên
tắc về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi hoạt động của Đảng. Như vậy, bản chất giai
cấp của đảng đã được Hồ Chí Minh khẳng định. Không chỉ như vậy, theo quan điểm của
Người thì cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta thì “quyền lợi của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một”. Chính vì Đảng Lao động
Việt Nam là đảng của giai cấp công nân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của
dân tộc Việt Nam.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng Cộng sản ở Việt Nam vừa
quán triệt đầy đủ học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, vừa phù hợp với hoàn cảnh
một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi có truyền thống đấu tranh yêu nước lâu
đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp công nhân còn ít ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt
10


chẽ trong phong trào yêu nước ngay từ đầu. Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
5. Phương pháp cách cách mạng
Cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa về
phương pháp cách mạng, song Người là bậc thầy về phương pháp cách mạng trong mọi
thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Qua các
tác phẩm của Người, những tư tưởng về cách lãnh đạo, cách tổ chức, cách làm cách học.
cách vận động nhân dân, cách thuyết phục kẻ thù, cũng như cách tiến cách lùi trong đánh
giặc, cách xây dựng đất nước cũng như cách bảo vệ đất nước… Tất cả đã toát lên “linh
hồn và nội dung” của một nội dung hoàn chỉnh phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh
vừa là cách mạng vừa là nghệ thuật mang tính thực tiễn sâu sắc. Có những phương pháp
thuộc từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, có những phương pháp chung được vận
dụng cho toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Phương pháp cách mạng Việt Nam là phương pháp cách mạng vô sản được vận

dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến. Các biện
pháp, bước đi thích hợp với hệ thống các nguyên tắc Hồ Chí Minh nhằm định hướng, điều
chỉnh hành động. Chủ thể hành động là các lực lượng cách mạng, trong đó, giai cấp công
nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, quần chúng nhân
dân là lực lượng tiến hành cách mạng. Mục tiêu cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
=>> Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội” cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của người là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điểu kiện Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong
kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã
trở thành tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó đã và đang biến thành
lực lượng vật chất hùng hậu và là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Trải qua bao
khúc quanh của lịch sử và những biến cố khắc nghiệt của thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, tư tưởng chính trị của người nói riêng vẫn có trong hành trang của dân tộc ta đi
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với ý nghĩa đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là
học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh, là nắm vững
lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí Minh để xử trí trước mọi việc.

--------------------------

Câu 5
11


Quyền lực chính trị: Khái niệm, cấu trúc
Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước
---------------------------* Khái niệm
Quyền lực chính trị là một khái niệm có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nhưng

hiểu tổng quát nhất, quyền lực chính trị là quyền được sử dụng sức mạnh chính trị cho
mục đích chính trị. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lenin, quyền lực Chính trị là
bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.
* Cấu trúc
Quyền lực chính trị bao gồm: chủ thể và đối tượng; mục tiêu và nội dung; công cụ
và phương tiện thực hiện.
- Chủ thể của quyền lực chính trị: quyền lực chính trị chia ra thành quyền lực chính
trị của tổ chức và quyền lực chính trị của cá nhân. Quyền lực chính trị của tổ chức bao
gồm quyền lực của các nhóm xã hội, tập đoàn người như giai cấp, dân tộc, quốc gia, các tổ
chức quốc tế, biểu hiện tập trung nhất của quyền lực giai cấp là quyền lực Nhà nước,
quyền lực của Đảng chính trị. Quyền lực chính trị của các nhân bao gồm quyền lực của thủ
lĩnh chính trị, của các chính khách, của công dân.
- Đối tượng của quyền lực chính trị là nhóm xã hội, giai cấp hay tập đoàn người
mà sự phục tùng của nó đối với chủ thể là cách mà quyền lực chính trị được thể hiện trong
việc thực thi.
- Mục tiêu của quyền lực chính trị là nhằm đạt tới sự áp đặt ý chí của chủ thể đối
với đối tượng và thông qua đó lợi ích của chủ thể được thực hiện.
- Nội dung của việc thực thi quyền lực chính trị là việc sử dụng mọi sức mạnh mà
chủ thể có được để đạt tới mục tiêu chính trị.
- Công cụ của quyền lực chính trị là những tổ chức chính trị và các tổ chức khác
nhưng nội dung chính trị, được chủ thể thiết lập và dựa và hoạt động để thực thi quyền lực
chính trị ở những mức độ nhất định.
- Phương thức thực hiện quyền lực chính trị là hình thức tổ chức công cụ và cách
thức chủ thể sử dụng cho hoạt động của công cụ theo mục tiêu và nội dung của quyền lực
chính trị.
* Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước
Trong chế độ xã hội có giai cấp và còn đối kháng giai cấp, về cơ bản, tồn tại hai
loại quyền lực chính trị: Một là, quyền lực chính trị của giai cấp (hay nhóm xã hội) thống
trị (quyền lực nhà nước); Hai là, quyền lực chính trị của giai cấp và các nhóm xã hội
không ở địa vị thống trị. Nhóm quyền lực thứ hai này có thể chia thành hai phân hóm nhỏ

hơn:

12


Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp và các tầng lớp xã hội tuy có lợi
ích khác biệt nhưng không đối kháng với lợi ích cơ bản của giai cấp cầm quyền. Xét cơ
bản thì nó vẫn nằm trong nhóm xã hội cầm quyền, vì thế không có sự khác biệt về chất với
quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền vì vậy nó vẫn tồn tại dung hòa với quyền lực
nhà nước hiện tồn hay gọi là nền chính trị “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay tầng lớp xã hội có lợi ích đối
kháng với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Về bản chất, nhóm này đối kháng với nhà nước
hiện tồn, và vì vậy, nó là đối tượng phải bị trấn áp, phải được xóa bỏ trong nhà nước ấy.
Như vậy, phân nhóm quyền lực chính trị này sẽ chỉ có một trong hai kết cục sau đây trong
sự vận động của nó:
Hoặc là nó sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực nhà nước hiện tồn.
Hoặc là nó sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ, bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện
tồn cho tới lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực chính trị của giai cấp đang cầm quyền, xóa bỏ
quyền lực nhà nước hiện tồn và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp ấy, thiết lập bộ máy
nhà nước mới phù hợp với lợi ích giai cấp của nó. Khi đó, quyền lực chính trị thực sự đã
chuyển hóa thành quyền lực nhà nước - là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ
bản nhất của quyền lực chính trị.
Ngoài ra, còn có hình thức đảo chính trung tính nhằm giành giật và chuyển giao
quyền điều khiển nhà nước giữa các nhóm xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp. Các
hình thức “đảo chính cách mạng” nhằm lật đổ quyền thống trị của giai cấp công nhân, xóa
bỏ chủ nghĩa xã hội, khôi phục lại nhà nước tư bản chủ nghĩa là một hình thức và là một
bài học chính trị về quá trình chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước bất
lợi cho giai cấp công nhân mà các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đang cố gắng thực hiện
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” phản cách mạng của chúng ta hiện nay.
----------------------------


13


Câu 6
Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị
Liên hệ với hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở Việt Nam
------------------------------------* Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị
Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở mỗi nước khác nhau không hoàn toàn giống
nhau, tuy nhiên về cơ bản gồm đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
1. Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Trong sự phát triển của xã hội loài người, Đảng chính trị - yếu tố cơ
bản của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công dân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng chính trị là bộ phận tích cực
nhất, có tổ chức của một giai cấp nào đó hay một tầng lớp nào đó của một giai cấp. Đây là
một trong những công cụ quan trọng nhất mà nhờ đó giai cấp đấu tranh cho lợi ích của
mình. Những tổ chức tiền thân của Đảng xuất hiện ngay từ những giai đoạn phát triển đầu
tiên của xã hội có giai cấp.
- Bản chất của đảng chính trị
Xét về mặt bản chất, đảng chính trị nào cũng mang bản chất giai cấp, cũng tồn tại
với mục đích nắm quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mà nó đại diện. Không
có đảng chính trị nào phi giai cấp, siêu giai cấp.
- Vai trò của đảng chính trị tùy thuộc vào địa vị lịch sử của các giai cấp mà nó
đại diện như vai trò cách mạng, tiến bộ hay bảo thủ, phản động.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, vai trò của các đảng chính trị thể hiện rõ nhất trong
các cuộc bầu cử giành quyền lực nhà nước giữa các đảng chính trị cùng tồn tại, nó biểu
hiện trên cả mặt tích cực và tiêu cực.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo,
thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Thể chế nhà nước là trụ cột của hệ thống quyền lực chính trị.
- Về mặt bản chất, thể chế nhà nước đề cập tới tính chất cai trị, điều hành của một
nhà nước thông qua những biện pháp nhất định, trong đó cưỡng chế là biện pháp đặc
quyền của nhà nước.
- Về mặt cơ cấu, thể chế nhà nước được xem xét từ khía cạnh tổ chức bộ máy,
định rõ các vị trí, thẩm quyền chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Những nội dung cơ bản của thể chế nhà nước bao gồm:
Về nguyên tắc tổ chức của nhà nước, trong lịch sử thường tồn tại hai nguyên tắc
nhà nước khác nhau là phân quyền và tập quyền.
Về hệ thống các cơ quan nhà nước, bộ máy nhà nước được tổ chức thành hệ thống
các cơ quan nhằm thực hiện các chức năng thống trị chính trị và chức năng công quyền. So
với các tổ chức chính trị - xã hội nó có đặc điểm: thay mặt nhà nước và nhân danh nhà
nước để tiến hành các hoạt động trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau; các cơ
14


quan nhà nước bao giờ cũng có quyền lực nhà nước; thực hiện hoạt động của mình trên cơ
sở pháp luật và trong phạm vi thẩm quyền do luật định; các cơ quan nhà nước thực hiện sự
quản lý đối với con người, tổ chức hoạt động vật chất và tinh thần cho con người.
Về nguyên tắc hoạt động của nhà nước, đó là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
mọi hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong
hoạt động đối nội và đối ngoại. Mỗi nhà nước có những nguyên tắc hoạt động khác nhau
căn cứ vào bản chất giai cấp, tương quan lực lượng giai cấp trong xã hội hay truyền thống
dân tộc, tuy nhiên nhìn chung hoạt động của các nhà nước bao giờ cũng phải tuân theo các
nguyên tắc: đảm bảo địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền; bảo đảm duy trì và phát triển
chế độ; trấn áp sự phản kháng của giai cấp và các lực lượng thù địch.
3. Các tổ chức chính trị - xã hội
Hoạt động của những tổ chức này có ý nghĩa rất to lớn trong việc thực thi quyền
lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Sức mạnh của con người là ở tổ
chức, chỉ trong tổ chức và thông qua tổ chức, thông qua quan hệ với người khác mà con

người hiểu được mình là gì và có thể làm được gì.
Trong xã hội tồn tại nhiều tổ chức khác nhau nhằm những nhu cầu và mục đích
khác nhau. Tổ chức chính trị - xã hội ngoài nhà nước là tổ chức mang tính quần chúng,
hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự chủ và nhằm mục tiêu tác động tới các quá trình chính
trị - xã hội để thỏa mãn nhu cầu chính trị - xã hội của các thành viên. Những tổ chức này
vừa mang tính quần chúng vừa mang tính chính trị, đây là phương tiện chủ yếu để tập hợp,
tổ chức hành động nhằm gây ảnh hưởng với mức độ khác nhau đối với quyền lực chính trị
và lợi ích của các thành viên trong tổ chức mình.
Là những nhân tố cấu thành hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội này phải là những tổ chức hợp pháp, sự ra đời, tồn tại và hoạt động của
nó phải phù hợp với hiến pháp và pháp luật của chế độ chính trị đương thời. Sự ra đời của
các tổ chức chính trị - xã hội nhằm thực hiện 3 chức năng cơ bản: Một là, bảo vệ những lợi
ích của các thành viên trong tổ chức mình trong quan hệ với nhà nước; Hai là, tập hợp các
thành viên tham gia vào đời sống chính trị của đất nước; Ba là, giáo dục nâng cao trình độ
mọi mặt của các thành viên để thực hiện có hiệu quả mục tiêu mà tổ chức đó đặt ra.
* Liên hệ với hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở Việt Nam (tham khảo)
Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của nước ta cũng tương tự như những nước
xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, là lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của
giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ghi nhận tại Điều 4
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp nước ta xác định
rõ Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

15


do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Ngoài việc không ngừng củng cố định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa của toàn
đảng, toàn dân; Ngày nay Đảng ta vẫn tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội nhằm phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, giữ vững
bản chất giai cấp của Nhà nước. Đảng mạnh thể hiện một Nhà nước mạnh, Nhà nước
mạnh vì có Đảng trong sạch vững mạnh. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Ngoài tăng cường vai trò lãnh đạo đối với Nhà
nước, Đảng vẫn không ngừng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, tăng
cường công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí
và hành động, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong sự nghiệp đưa đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội, ngoài vai trò lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước còn ghi nhận vai trò hết sức to lớn của các tổ chức chính trị xã hội khác như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ Việt Nam. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội đã không ngừng củng cố, hoàn thiện và
thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng xã hội chủ nghĩa trong
đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò là liên minh chính trị, đóng góp to lớn trong
việc hình thành và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Trong giai đoạn cách mạng mới, cần đổi mới tổ
chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng đa dạng về
hình thức, chức năng, nhiệm vụ; nêu cao tính thiết thực hiệu quả, làm tốt chức năng phản
biện, giám sát xã hội, góp phần vào việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.

---------------------------------------


16


Câu 7
Thủ lĩnh chính trị: Khái niệm, phẩm chất và vai trò. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
-------------------Thủ lĩnh chính trị
* Khái niệm
Thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu một tổ chức chính trị. Đó là nhân vật xuất sắc
trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định, có sự
giác ngộ lợi ích, mục tiêu, lý tưởng giai cấp, có khả năng nắm bắt và sử dụng quy luật, có
năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử
đặt ra.
* Phẩm chất
Thứ nhất, vè trình độ hiểu biết: nhất thiết đó phải là người thông minh, hiểu biết
sâu rộng các lĩnh vực; có tư duy khoa học, nắm vững được quy luật phát triển theo hướng
vận động của quá trình chính trị; có khả năng dự đoán được tình hình, làm chủ được khoa
học và công nghệ lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, về phẩm chất chính trị: là người giác ngộ lợi ích giai cấp; đại diện tiêu
biểu cho lợi ích giai cấp; trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn; dũng cảm đấu tranh
bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của
lịch sử.
Thứ ba, về năng lực tổ chức: là người có khả năng về công tác tổ chức, nghĩa là
biết đề ra mục tiêu đúng; phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới và cho từng
người; biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị; có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ
mọi người hoạt động; có khả năng kiểm soát, kiểm tra công việc.
Thứ tư, vè đạo đức, tác phong: là người có tính trung thực, công bằng không tham
lam, vụ lợi; cởi mở và cương quyết; có lối sống giản dị; có khả năng giao tiếp và tạo mối
quan hệ tốt với mọi người; biết lắng nghe ý kiến của người khác; có lòng tin vào chính bản
thân mình; có khả năng tự kiểm tra bản thân, khả năng giữ gìn và bảo vệ ý kiến của mình;
có chính kiến và bảo vệ chính kiến của mình; có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp

dưới.
Thứ năm, về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường độ
cao, có khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo; những lúc phong trào lâm vào
khó khăn, thủ lĩnh chính trị có thể đưa ra được những quyết định sáng suốt; nhạy cảm và
năng động; biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.
* Vai trò
- Vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị:
Do nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ lĩnh
chính trị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực
mà họ chính là linh hồn của hệ thống đó.
Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lôi kéo, tập hợp quần chúng,
thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong đấu tranh chính trị

17


nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, phù hợp với nhu cầu xã hội và lợi ích giai
cáp.
Thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân
tộc, do có khả năng nhìn xa trông rộng cho nên không những có khả năng tổ chức, tập hợp
lực lượng lãnh đạo phong trào mà còn có khả năng đưa phong trào vượt qua những khúc
quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị đã đề ra.
Thủ lĩnh chính trị có vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiệu
quả cao cho phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng. Sau khi hoàn thành
nhiệm vụ của thời đại đặt ra, thủ lĩnh chính trị đi vào lịch sử, sống trong tâm tưởng của
thời đại sau.
- Ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị
Do thiếu tài, kém đức nên không có khả năng lãnh đạo phong trào, không biết
“chớp thời cơ, vượt thử thác” để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đặt ra, đặc biệt, trước những
bước ngoặc của lịch sử thường tỏ ra bối rối, dao động, thậm chí trở nên phản động, lái

phong trào đi ngược lại lợi ích của quần chúng.
Người thủ lĩnh không xuất phát từ lợi ích chung mà vì quyền lợi riêng, động cơ
không trong sáng nên thường gây ra bè phái chia rẽ, mất đoàn kết trong hệ thống tổ chức
quyền lực, làm suy giảm vai trò, sức mạnh của tổ chức, hạn chế, ngăn cản khả năng của
mỗi cá nhân, làm giảm hiệu quả giải quyết những nhiệm vụ, mục tiêu chính trị đã đề ra.
Do phong cách làm việc độc đoán, chuyên quyền, hoặc do năng lực hạn chế của
người thủ lĩnh mà nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động bị tước bỏ, nhân quyền
thường bị vi phạm, phong trào cách mạng thiếu động lực và sinh khí để phát triển.
Trong điều kiện thế giới biến động đầy phức tạp như hiện nay, quyết định sai trái
của “những cái đầu nóng” của các vị thủ lĩnh khiến nhân loại phải trả giá đăt, đôi khi
không thể lường trước được.
* Liên hệ thực tiễn Việt Nam

------------------------------

18


Câu 8
Nội dung mối quan hệ chính trị với kinh tế?
Liên hệ với đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
----------------------------Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là quan hệ cơ bản nhất của đời sống xã hội nói một cách khái quát, là quan hệ giữa quyền lực chính trị (tập trung ở quyền lực nhà
nước) đối với kinh tế với tư cách là cơ sở nền tảng của quyền lực chính trị và của toàn xã
hội. Nói một cách thực chất hơn, ngắn hơn là quan hệ giữa quyền lực nhà nước với kinh tế,
hướng tới sự phát triển kinh tế - xã hội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của giai
cấp cầm quyền.
1. Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế:
a. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế:
Xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, theo Lênin, chính trị là một
hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất.

Nội dung quyết định hình thức, nên kinh tế quyết định chính trị. Nghĩa là, kinh tế làm nảy
sinh chính trị cả với tư các là một chế độ bao gồm: thể chế chính trị, công cụ, phương tiện
để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị.
Chính trị không đứng ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát triển của kinh
tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì
chính trị tiến bộ và ngược lại, kinh tế khủng hoảng, chính trị không hợp lý cũng khủng
hoảng theo. Do đó, ở thời nào cũng vậy, chính trị nếu không hướng vào giải quyết thỏa
đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế, thì chính trị sẽ không có cơ sở tồn tại,
sớm muộn cũng phải thay thế bởi chính trị mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn với kinh tế.
Kinh tế xét đến cùng là nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống
chính trị, từ lịch sử hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp đến lịch sử các chính đảng và
hoạt động của các chính đảng, lịch sử hình thành các thiết chế quyền lực nhà nước.
Chính trị là sự phản ánh, sự biểu hiện tập trung của kinh tế, đòi hỏi chính trị và hệ
thống chính trị phải mang trong nó những quy định kinh tế khách quan. Nghĩa là trong cấu
trúc, các quan hệ và phương thức hoạt động chính trị phải phù hợp với những quy định
khách quan của kinh tế.
Trong các đường lối, chính sách của đảng cầm quyền tác động vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội thì tính đúng đắn của đường lối, chính sách kinh tế giữ vai trò quyết
định. Cũng trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu sự nghiệp đối mới từ tư duy lý
luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế.
b. Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế:
Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, là điều kiện tiên quyết cho những
biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này, hoàn toàn rõ ràng đối với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn giải phóng
mình khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan hệ tư sản và tiền tư sản, trước hết phải giành

19



được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Chỉ sau đó họ mới có tiền đề để cải tạo
quan hệ kinh tế, biến mình trở thành chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản.
Với tính độc lập tương đối, chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế theo những
hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tác động ngược lại của quyền lưc nhà nước đối
với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại: Nó có thể tác động cùng chiều hướng - khi ấy sự
phát triển diễn ra nhanh hơn, nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì
hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định hoặc là nó có thể cản
trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng
khác.
Bởi vậy, muốn để kinh tế phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị vào
kinh tế, đòi hỏi phải quan tâm tới cả ba phương diện: đường lối chính sách kinh tế, thể chế
kinh tế, và chủ thể kinh tế.
Hệ thống các quan hệ kinh tế cũng như những quan hệ kinh tế cơ bản cho chính trị
thiết lập ra là cơ sở cho sự tồn tại, ổn định, bền vững của chính trị. Do đó, chính trị trước
hết phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính trị đã đạt được nhằm duy trì địa vị của
giai cấp thống trị.
Chính trị đóng vai trò định hướng và trường chính trị - xã hội ổn định cho phát
triển kinh tế. Sự định hướng chính trị thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển
kinh tế: xây dựng, thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế, định hướng quá trình tổ chức
định hướng xã hội cho phát triển kinh tế để không có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để
lợi ích của giai cấp thống trị không bị vi phạm. Hơn nữa, sự ổn định chính trị là điều kiện
thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ những
vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính tiền tệ, chính
sách kinh tế, đối ngoại…
Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản, nhạy cảm và phức tạp
trong các quan hệ xã hội. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần phải tránh cả hai khuynh
hướng sai lầm: tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối hóa chính trị. Đi theo hướng thứ nhất,
kinh tế sẽ phát triển tự phát, vô chính phủ. Đi theo hướng thứ hai, nền kinh tế sẽ phát triển
theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan. Nhưng nếu đồng nhất chính trị với

kinh tế thì sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất của sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo môi trường xã hội ổn
định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và định hướng phát triển. Sự
phát triển xã hội còn đòi hỏi phải có sự ưu tiên của chính trị đối với kinh tế, phải có giải
pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì chính trị càng phải mở rộng,
đổi mới, tạo tiền đề tiên quyết cho kinh tế phát triển.
* Liên hệ với đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

-------------------------

20


Câu 9
Văn hóa chính trị: Khái niệm, chức năng, phương hướng?
----------------------------------* Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc trưng của văn hóa của loài
người trong xã hội có giai cấp, là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu
biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn mực giá trị
xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của
giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.
* Chức năng của văn hóa chính trị
Một là, chức năng tổ chức và quản lý xã hội
Trong lịch sử phát triển của loài người, ngoại trừ xã hội công sản nguyên thủy
được tổ chức sơ khai, bầy đàn, còn lại các xã hội đều được tổ chức theo hình ảnh, lập
trường và lợi ích của giai cấp thống trị, theo văn hóa của giai cấp cầm quyền. Văn hóa
chính trị của giai cấp cầm quyền trước hết thể hiện trong việc tổ chức, kiện toàn hệ thống
chính trị, hệ thống tổ chưc quyền lực và trong kết cấu của đời sống. Trong xã hội dựa trên
cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu trước đây, do bản chất của văn hóa chính
trị của giai cấp cẩm quyền là bóc lột, vô nhân đạo, phản văn hóa nên xã hội chỉ được tổ

chức nhằm phục vụ cho một số ít người, còn lại, tuyệt đại bộ phận người lao động bị tha
hóa. Còn trong chế độ xã hội chủ nghĩa, văn hóa chính trị vô sản thể hiện trong chế độ xã
hội chủ nghĩa, văn hóa chính trị vô sản thể hiện nền dân chủ, bảo đảm toàn bộ quyền lực
thuộc về nhân dân. Kiểu tổ chức xã hội dựa trên nền tảng văn hóa chính trị vô sản đã mở
ra khả năng giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội cho phát
triển.
Hai là, chức năng định hướng điều chỉnh các hành vi của con người và các
quan hệ xã hội
Chính trên cơ sở nhận thức chính trị đúng đắn về mục tiêu lý tưởng, giai cấp cầm
quyền và các nhà lãnh đạo chính trị có thể xây dựng được đường lối chính trị, hình thành
các tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn theo mục tiêu chính trị đặt ra. Cùng với trình độ
văn hóa xác định , con người chính trị có thể chủ động hành động theo những lý tưởng đã
chọn, phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Đặc biệt, trên nền tảng văn hóa chính trị cao,
giai cấp cầm quyền có khả năng phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực
của nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan, nhân tố cá nhân, nhân tố cộng đồng, nhân tố
bên trong, nhân tố bên ngoài, hương sự hoạt động của xã hội theo những mục tiêu chính trị
đã xác định, đồng thời có những điều chỉnh những mục tiêu, phương hướng thực hiện phù
hợp với xu thế và những điều kiện, hoàn cảnh mới. Đồng thời, cũng trên nền tảng văn hóa
chính trị cao có thể đièu chỉnh những hành vi thái quá ngăn ngừa những “đầu nóng” trong
quan hệ xã hội và quan hệ quốc tế có thể dẫn tới sự đối đầu gay gắt, ảnh hưởng tiêu cực
đến ổn định chính trị, gây nguy cơ chiên stranh. Đối đầu với cá nhân và tập thể, văn hóa
chính trị sẽ góp phần khắc phục những mặt trái, những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị
21


trường và mở cửa đến đạo đức, lối sống, đồng thời khơi dậy tính năng động, sáng tạo trong
việc vận dụng cơ hội, điều kiện thuận lợi cho phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Ba là, chức năng đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị, làm cho mọi công dân quen
với hoạt động chính trị
Trong xã hội phát triển - xã hội có văn hóa chính trị cao - một mặt, mỗi cá nhân ý

thức đầy đủ về vị trí của mình trong hệ thống quyền lực chính trị của xã hội cũng như
những nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với xã hội; mặt khác, xã hội cũng phải tạo ra và
hoàn thiện cơ chế để mỗi cá nhân công dân tham gia một cách tích cực, tự giác vào công
việc hằng ngày của mỗi người, thành nề nếp sinh haotj xã hội. Đó là quý trình xã hội hóa
về chính trị, từng bước thể hiện bản chất dân chủ của chế độ xã hội.
Bốn là, chức năng cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của ocn người,
hình thành nhân cách công dân, nhân cách những nhà lãnh đạo chính trị
Trình độ sự giác ngộ về mục tiêu lý tưởng và niềm tin vào lý tưởng của mỗi cá
nhân cũng những điều kiện thuận lợi cả về cơ chế và những điều kiện vật chất kỹ thuật do
xã hội tạo nên sẽ là nguồn gốc tạo nên động lực cho những hoạt động sáng tạo có tính tích
cực chính trị - xã hội của mỗi cá nhân và từng tổ chức. Đồng thời, thông qua các phong
trào chính trị, bản lĩnh chính trị cá nhân công dân đã được rèn luyện, thử thách để hình
thành nhân cách công dân, nhân cách những nhà hoạt động chính trị
* Phương hướng giáo dục văn hóa chính trị trong thời kỳ đổi mới
Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
để nâng cao chất lượng của văn hóa chính trị, công tác giáo dục văn hóa chính trị cần thực
hiện một số phương hướng sau:
Thứ nhất, công tác giáo dục văn hóa chính trị hướng vào đổi mời tư duy, nâng cao
trình độ nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, trau dồi đạo đức, rèn luyện hành vi có văn hóa.
Việc giáo dục văn hóa chính trị hướng vào đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức, đồng thời
cũng nhằm bồi dưỡng tình cảm cách mạng, trau dồi đạo đức và rèn luyện hành vi có văn
hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, để mỗi người, mỗi tổ chức soi vào trong quan hệ
với chính bản thân mình, với người khác, với tổ chức, đoàn thể và với công việc. Trong
giai đoạn hiện nay, giá trị chuẩn cho hành vi là sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ hai: Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào xây dựng và thực hiện thắng lợi
chiến lược phát triển đồng bộ kinh tế, chính trị, văn hóa, con người
Việc giáo dục văn hóa chính trị nhằm nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng tình
cảm cách mạng,… để trên cơ sở đó xây dựng đúng đắn và thể hiện thắng lợi mục tiêu
chính trị đề ra, mà mục tiêu cao cả nhất là xây dựng con người Việt Nam với năm đức
tính:

+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì hòa bình và chủ nghĩa xã
hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. đoàn kết với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hộik
+ Đề coa tinh thần tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung

22


+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất
cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể xã hội
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, năng lực thẩm
mỹ và thể lực.
Thứ ba: Giáo dục văn hóa chínht rị hướng vào việc đổi mới kiện toàn hệ thống
chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng Cộng sản Việt nam, vai trò trụ
cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị, thực hiện tốt các chức năng quản lý xã hội, phát
huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc lôi cuốn nhân dân lao động vào
việc xây dựng và phát triển văn hóa chính trị
Thứ tư: Giáo dục văn hóa chính trị hướng tới cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, lý luận để khắc phục những tư tưởng tư sản, phong cách, lối sóng tư sản, tiểu tư sản
hướng tới cuộc đấu tranh chống cả hai khuynh hướng hoạc phủ nhận truyền thống, cực
đoan trong tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc, hoặc tuyệt đối hóa những giá trị truyền
thống, giáo điều trong tiếp thu…

-------------------------------------------

23



Câu 10
Khái niệm, cấu trúc của chính trị quốc tế đương đại.
----------------------------------* Khái niệm
Chính trị quốc tế (chính trị thế giới) là nền chính trị được triển khai trên quy mô
hành tinh, toàn thế giới, vượt khỏi phạm vi mỗi quốc gia. Nền chính trị quốc tế đương đại
là nền chính trị quốc tế được hình thành bởi sự tương tác của các quốc gia dân tộc có chủ
quyền, các nhà nước - dân tộc, các tổ chức quốc tế, các cường quốc. Đó là trật tự thế giới
đa cực.
* Cấu trúc của chính trị quốc tế đương đại:
a. Các nhà nước - dân tộc
Nhà nước dân tộc là những đơn vị cơ bản tạo nên nền chính trị quốc tế đương đại.
Chính sự hoạt động của các nhà nước - dân tộc thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại
vì lợi ích dân tộc, quốc gia và quốc tế đã tạo nên những quan hệ thuận chiều với nền hòa
bình, ổn định và phát triển chung của nhân loại. Sự tổng hòa những quan hệ tương tác này
tạo nên xu hướng vận động và phát triển chung của nhân loại. Sự tổng hòa những quan hệ
tương tác này tạo nên xu hướng vận động và phát triển của nền chính trị thế giới, do đó,
việc bảo đảm tính độc lập của dân tộc và chủ quyền của các nhà nước - dân tộc, giống như
việc bảo đảm tự do và nhân quyền của các cá nhân trong xã hội quốc dân - cơ sở chủ nghĩa
dân chủ - là căn nguyên tạo nên sự chuyển động của nền chính trị quốc tế. Cũng như vậy
nếu đi quá tự do cá nhân sẽ biến thành chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, còn nếu đi quá xã chủ
nghĩa dân tộc sẽ trở thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan: hoạc bài ngoại, tự ti học xô vanh
xâm lược - nguyên nhân của những xung đột khu vực và thế giới.
Vì vậy để tạo ra một trật tự thế giới hòa bình, ổn định và phát triển, đòi hỏi các nhà
nước - dân tộc phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc có tính phổ biến:
tôn trọng độc lập chủy quyền, không can thiệp vaò nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng trên cơ sở luật pháp và
tập quán quốc tế. Điều kiện cho sự tôn trọng quốc tế là:
Thứ nhất, ở mỗi quốc gia, dân chủ, nhân quyền phải được tôn trọng, đồng thời các
nhà nước - dân tộc dù lớn hay nhỏ phải thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác

cùng có lợi
Thứ hai, các nước không được theo đuổi ý đồ tạo trật tự thế giới bằng sức mạnh
quân sự, đặc biệt các nước lớn phải loại bỏ tham vọng chính trị xã hội quốc tế, bắt các
nước nhỏ phụ thuộc vào nước lớn. Các nước nhỏ trên cơ sở giác ngộ lợi ích dân tộc, tự lập
vươn lên và tham gia tích cực vào phong trào không liên kết để bảo vệ độc lập chủ quyền
và lợi ích chân chính của mình
Thứ ba, tôn trọng sự khác nhau về chế độ chính trị của mỗi quốc gia dân tộc, các tổ
chức khu vực (ASEAN, EU…) các cộng đồng có chung mối quan tâm (công đông Pháp
ngữ, công đồng, Anh ngữ, công đông Mỹ La tinh,…); Phấn đấu vì hòa bình khu vực, lợi
ích cộng đồng trên cơ sở những quy ước khu vực không trái với luật pháp và tập quán
quốc tế.
24


b. Các tổ chức Quốc tế:
Tổ chức Quốc tế là tổ chức được thành lập trên cơ sở những thỏa thuận quốc tế
giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền, các đảng phái, các tổ chức chính trị, kinh tế xã hội
vì mục tiêu và lợi ích chung. Đó là một thiết chế của quan hệ quốc tế đa phương, có mục
tiêu, quyền hạn, quy định về cấu trúc tổ chức do các thành viên của tổ chức thỏa thuận
Các tổ chức quốc tế rất đa dạng về quy mô, lĩnh vực, tính chất, mục đích hoạt
đông, nhưng đều có nhứng đặc trưng sau:
- Được thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thể (chính trị, kinh tế, xã hội,
…) quốc tế;
- Không có cư dân và lãnh thổ cố định
- Được hình thành bởi các quốc gia có chủ quyền;
- Các quyết định của tổ chức quốc tế mang tính khuyến nghị, không có tính chất ép
buộc, mà chủ yếu dựa vào tính tự giác của các thành viên hoặc sức ép của dư luận quốc tế;
- Có quyền hưởng ưu đãi và miễn trừ ngoại giao; có quyền ký các điều ước quốc tế
với các quốc gia và tổ chức quốc tế khác; có quyền trao đổi đại diện với các tổ chức khác;
có những nghĩa vụ quốc tế nhất định

Các tổ chức Quốc tế có vai trò sau:
+ Góp phần duy trì nền hòa bình và củng cố an ninh quốc tế
+ Hợp tác và hòa giải quốc tế rộng lớn
+ Tham gia quản lý những vấn đề toàn cầu và mở rông không gian quốc tế
+ Từng bước xây dựng cơ chế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế
+ Bảo vệ quyền tự nhiên của con người, như quyền tự do, dân chủ, tự do ngôn
luận, không phân biệt chủng tộc, tôn gíao, ngôn ngữ…
Trong thế giới đương đại có một số tổ chức có vai trò to lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ,
sâu sắc tới nền chính trị quốc tế. Đó là: Liên hiệp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới, Tổ
chức hiệp ước Bắc đại tây dương (NATO), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN)…

--------------------------

25


×