Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ÔN tập môn NGUYÊN lý CÔNG tác tư TƯỞNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.64 KB, 36 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN NGUYÊN LÝ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
--------------------------------STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

12
13
14

15

CÂU HỎI
Phân tích vai trò của công tác lý luận đối với sự nghiệp cách mạng và đối
với công tác xây dựng Đảng.
Từ những hiểu biết về đặc điểm của công tác cổ động, hãy so sánh sự
khác biệt giữa công tác tuyên truyền và công tác cổ động.
Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính đảng trong công tác tư
tưởng.
Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính khoa học trong công tác
tư tưởng.
Cấu trúc của văn hóa chính trị và nội dung của giáo dục chính trị - tư


tưởng trong việc hình thành văn hóa chính trị.
Từ những nhân tố tác động đến quá trình hình thành văn hóa chính trị, hãy
phân tích những vấn đề cấp thiết của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
ở nước ta hiện nay.
Phân tích cấu trúc của văn hóa đạo đức và phương thức của giáo dục đạo
đức. Liên hệ tình hình giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay.
Phân tích ưu thế, hạn chế của phương pháp đối thoại. Vì sao trong tình
hình hiện nay, công tác tư tưởng cần phải tăng cường đối thoại.
Quan điểm và giải pháp sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng
trong công tác tư tưởng hiện nay.
Trình bày cơ sở phân loại phương pháp công tác tư tưởng. Phân tích ưu
thế, hạn chế của phương pháp trực quan và phương pháp nêu gương.
Phân tích các yếu tố quy định việc lựa chọn phương pháp công tác tư
tưởng. Theo anh (chị), trong các phương pháp công tác tư tưởng phương
pháp nào là quan trọng nhất, vì sao?
Phân tích những vấn đề có tính nguyên tắc trong sử dụng hình thức công
tác tư tưởng. Liên hệ thực tiễn sử dụng hình thức công tác tư tưởng ở
nước ta hiện nay?
Phân biệt hiệu quả với kết quả và chất lượng công tác tư tưởng. Phân tích
quan điểm và đặc điểm của việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng.
Phân tích nội dung các tiêu chuẩn đánh giá công tác tư tưởng. Vì sao niềm
tin lại là tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng?
Vẽ sơ đồ cấu trúc hệ thống công tác tư tưởng và nêu cơ sở phương pháp
luận xác định các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng. Phân
tích các biện pháp tác động vào các yếu tố của hệ thống công tác tư
tưởng?

Câu 1
1



Phân tích vai trò của công tác lý luận đối với sự nghiệp cách mạng
và đối với công tác xây dựng Đảng
---------------------Công tác lý luận là một bộ phận của công tác tư tưởng hướng vào việc nghiên cứu,
phát triển sáng tạo hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo cách mạng - giai cấp công nhân,
nghiên cứu và tổng kết thực tiễn cách mạng nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý luận và
cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách, các quyết định của Đảng và Nhà
nước, đấu tranh, phê phán các trào lưu tư tưởng sai trái, thù địch.
* Vai trò của công tác lý luận đối với sự nghiệp cách mạng
Lý luận soi đường cho cách mạng, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, tiến
hành cách mạng để đạt mục đích. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I.Lênin nêu luận điểm nổi
tiếng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”. Luận
điểm đó đã khẳng định vai trò động lực to lớn, vai trò là kim chỉ nam của lý luận cách
mạng đối với phong trào cách mạng.
Lý luận vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp tiến hành cách mạng để đạt
mục đích. Lịch sử đấu tranh của giai cấp vô sản đã chứng minh rằng, họ chỉ trở thành giai
cấp “vì mình” khi có lý luận chủ nghĩa Mác soi đường.
Lý luận là động lực của phong trào cách mạng. Năm 1911, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước,
thực chất là đi tìm một lý luận cách mạng mới. Tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng nên lý luận cách mạng Việt Nam
trong thời đại mới. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví lý luận như bó đuốc soi
đường, không có lý luận thì như người mù đi trong đêm tối, lần mãi không thấy đường ra.
Lý luận tạo ra sức mạnh vật chất cho phong trào cách mạng và góp phần đắc lực
vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận. V.I.Lênin đã khái quát quy luật về sự
ra đời của các Đảng cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công
nhân. Người còn khẳng định: “… chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”.
* Vai trò của công tác lý luận đối với công tác xây dựng Đảng
Là yếu tố cấu thành Đảng cộng sản, là điều kiện ra đời của Đảng. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và

phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng lý luận Mác - Lênin là tiền đề lý
luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta rất coi trọng lý luận và công tác lý luận, luôn xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.
Là cơ sở tạo ra sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Góp phần tăng cường vai trò
tiên phong của Đảng. Nhờ giữ vững ngọn cờ lý luận Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo lý
luận đó vào thực tiễn Việt Nam thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa cách
mạng Việt Nam vượt qua mọi chông gai, giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử.

2


Góp phần nâng cao năng lực, trí tuệ của Đảng, giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt
ra. Sớm phát hiện ra những khiếm khuyết của mô hình kinh tế kiểu cũ, Đảng ta đã từng
bước đề ra những chủ trương, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo hướng
đổi mới. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta chủ trương tiến hành đổi
mới căn bản và toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Vấn đề đặt ra là đổi mới
nhưng vẫn đứng vững trên nền tảng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy
đỏi chúng ta phải nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sao cho
đúng hơn, sâu sắc hơn để vận dụng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh, xây
dựng nên hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam trong thời đại mới.
Trên mặt trận tư tưởng, công tác lý luận là hình thái giữ vai trò trọng yếu nhất bởi
không có lý luận thì tuyên truyền, cổ động không có nội dung quan điểm cơ bản để triển
khai đúng hướng.
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa X đã đưa ra
những quan điểm mới về vai trò của công tác tư tưởng, lý luận trước yêu cầu mới: “Công
tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động
của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng hcinhs trị của chế độ, tuyên
truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng

định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị; lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo
đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đó
chính là những định hướng cơ bản để tiếp tục tăng cường công tác nghiên cứu lý luận phục
vụ sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay.

------------------------------------------

3


Câu 2
Từ những hiểu biết về đặc điểm của công tác cổ động,
hãy so sánh sự khác biệt giữa công tác tuyên truyền và công tác cổ động
----------------------* Công tác cổ động
- Khái niệm
Công tác cổ động là sự tác động của chủ thể vào tư tưởng, tình cảm của đối tượng
thông qua việc giải thích một việc cụ thể, thiết thực nhằm tạo nên một ấn tượng mạnh ở
đối tượng, kích thích và thúc đẩy họ hăng hái hành động thực hiện công việc đó.
- Vai trò của công tác cổ động
Công tác cổ động đóng vai trò to lớn trong việc thông tin những vấn đề quan trọng
trong đường lối đối nội và đối ngoại hiện thời của Đảng và Nhà nước, những nhiệm vụ của
địa phương và của tập thể lao động, làm cho mọi người thấy rõ tính đúng đắn của đường
lối, chính sách của Đảng, kêu gọi, hiệu triệu quần chúng nhân dân hành động thực hiện
đường lối, chính sách và các nhiệm vụ thực tiễn.
Cổ động chính trị là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động cách mạng của
Đảng, là công cụ lãnh đạo chính trị đối với quần chúng, nâng cao giác ngộ chính trị của
quần chúng, tạo ra sự nhất trí về quan điểm đối với những vấn đề thuộc đường lối đối nội,
đối ngoại của Đảng.
Cổ động đóng vai trò quan trọng không chỉ trong giai đoạn cách mạng giành chính

quyền mà còn trong giai đoạn xây dựng đất nước, trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội.
- Đặc điểm của công tác cổ động
Thể hiện ở mục đích và hiệu quả tác động: Công tác cổ động đặt ra yêu cầu là phải
đạt hiệu quả trực tiếp, biểu hiện ngay, lấy mục đích và hiệu quả về mặt hành động là chủ
yếu. Mục đích là tác động làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của con người. Đặc
điểm nổi bật của cổ động là hiệu quả về mặt hành động phải biểu hiện ra ngay. Chính vì
vậy mà công tác cổ động phải hướng vào những sự việc, sự kiện đã chín muồi trong cuộc
sống, những nhiệm vụ trước mắt đã được xác định rõ, đã được khẳng định trong đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như những sự kiện, sự việc phản ánh và liên quan
đến lợi ích thiết thân của quần chúng. Cổ động là một phương tiện quan trọng để cổ vũ
quần chúng hành động thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.
Đặc điểm về nội dung: Thiên về thông tin, giải thích những nhiệm vụ cụ thể trong
sách lược của từng thời kỳ, thiên về những chính trị trước mắt, đương thời, những vấn đề
và sự kiện đang diễn ra ở địa phương và cổ vũ quần chúng thực hiện những nhiệm vụ ấy.
Tuy rằng nội dung công tác cổ động có khác với công tác tuyên truyền về tầng bậc, mức
độ nhưng hai công tác này không hề mâu thuẫn nhau mà thống nhất với nhau trong việc
đạt tới mục đích chung của công tác tư tưởng. Sự thống nhất này nằm trong sự thống nhất
của lý luận cách mạng, mục tiêu chiến lược, đường lối chiến lược cách mạng và đường lối,
chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước, ở trung ương và ở địa phương.
Đặc điểm về trình độ và phương thức tác động: Trong công tác này người ta thường
lấy một sự việc nổi bật mà mọi người đã biết để chứng minh cho tư tưởng, ý đồ nhằm kêu
gọi quần chúng hành động. Phương pháp phản ánh sự kiện trong công tác cổ động phải
đảm bảo tính chân thật, chính xác, không được hư cấu, tưởng tượng. Tôn trọng sự thật là
bản chất, nguyên tắc và sức mạnh của cổ động vô sản. Cổ động thường tiến hành trước số
4


đông người. Nó mang tính quần chúng rộng rãi. Vì vậy, nội dung cổ động phải ngắn gọn,
rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ quần chúng. Để nhanh chóng tạo ra ấn tượng mạnh

trong công tác cổ động, người ta cũng rất haydùng phương pháp so sánh (so sánh tốt với
xấu, địa phương này với địa phương khác) và phương pháp nêu gương điển hình. Thông
qua con đường tình cảm, tác động thẳng vào cảm xúc, tâm trạng quần chúng. Niềm tin của
con người sẽ trở nên sâu sắc hơn nếu được bổ sung bằng xúc cảm.
* Sự khác biệt giữa công tác tuyên truyền và công tác cổ động
Nội dung
Công tác tuyên truyền
Hiệu quả tác động - Hiệu quả diễn ra trong một
khoảng thời gian nhất định
Nội dung
- Thiên về phổ biến, giải
thích những vấn đề thuộc về
đường lối chiến lược, những
mục tiêu cách mạng cơ bản,
lâu dài, bao quát sự phát
triển của xã hội trong một
thời gian dài.

Phương thức tác - Giải thích để người ta hiểu,
động
tin và làm theo. Lập luận
bằng lý lẽ, tác động chủ yếu
vào lý trí, phân tích, lý giải
nhằm đạt tới bản chất của
vấn đề.
- Thường tiến hành trước
đông người hoặc ít người.
- Có thể tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp tới quần
chúng.

Trình độ
- Nội dung tuyên truyền
thường phải phân tích, giải
thích, chứng minh.

Công tác cổ động
- Hiệu quả về mặt hành động
phải biểu hiện ra ngay.
- Thiên về thông tin, giải
thích những nhiệm vụ cụ thể
trong sách lược của từng
thời kỳ, thiên về những
chính trị trước mắt, đương
thời, những vấn đề và sự
kiện đang diễn ra ở địa
phương và cổ vũ quần chúng
thực hiện những nhiệm vụ
ấy.
- Thường lấy một sự việc nổi
bật mà mọi người đã biết để
chứng minh cho tư tưởng, ý
đồ nhằm kêu gọi quần chúng
hành động.
- Thường tiến hành trước số
đông người.
- Chủ yếu dùng phương thức
tác động trực tiếp tới số
đông quần chúng.
- Nội dung cổ động phải
ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.


-------------------------------------

5


Câu 3
Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính đảng trong công tác tư tưởng
--------------------------* Cơ sở khách quan quy định tính đảng của công tác tư tưởng
Tính đảng là sự tự giác và kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động.
Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, xuất phát từ bản chất
giai cấp của hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp. Điều đó
biểu hiện ở chỗ nó phản ánh, bảo vệ lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác trong cuộc
đấu tranh giữa các giai cấp. Chừng nào trong xã hội còn có sự phân chia giai cấp và đấu
tranh giai cấp thì không thể có hệ tư tưởng phi giai cấp. Trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản, chỉ có hệ tư tưởng vô sản hay hệ tư tưởng tư sản, không có hệ tư
tưởng trung gian ở ngoài hoặc trên các giai cấp.
Tính đảng là biểu hiện tập trung ở tính giai cấp, có nghĩa là, tính đảng là tính giai
cấp, nhưng là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất. Chính do yêu
càu của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng mà phái phát triển tính giai cấp
thành tính đảng. “Tính đảng chặt chẽ là bạn đồng hành và kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp phát triển cao độ. Và ngược lại, cần phát triển tính đảng chặt chẽ để tiến hành cuộc
đấu tranh giai cấp công khai và rộng rãi”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ giữa hệ tư tưởng vô sản
và hệ tư tưởng tư sản ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt. Trong cuộc đấu tranh đó,
những người mác-xít công khai tuyên bố về tính giai cấp, tính đảng của hệ tư tưởng vô
sản. Ngược lại, các nhà tư tưởng tư sản thì mưu toan che giấu tính đảng của hệ tư tưởng tư
sản. Bởi lẽ, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ tư chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội, giai cấp tư sản và hệ tư tưởng tư sản đã trở nên lỗi thời về mặt lịch sử, đi ngược tiến
trình phát triển khác quan của xã hội loài người. Núp dưới chiêu bài “phi hệ tư tưởng hóa”,
“tính phi đảng”, “tính đứng ngoái các giai cấp”, các nhà tư tưởng tư sản dang cố gắng che
giấu và làm lu mờ sự trung thành của họ với giai cấp tư sản.
Nguyên tắc tính đảng, nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với công tác tư tưởng còn là
bài học kinh nghiệm rút ra từ chính thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản.
Toàn bộ thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trên lĩnh vực ý thức hệ và những
biến cố quốc tế trong thế kỷ XX, kể cả những bài học đắc giá của sự sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh cho sự cần thiết khách quan của nguyên
tắc này trong công tác tư tưởng.
* Biểu hiện của tính đảng trong công tác tư tưởng
Tính đảng của công tác tư tưởng biểu hiện trước hết ở chỗ “mỗi khi đánh giá một
sự kiện phải trực tiếp và công khai đứng trên quan điểm của một tập đoàn xã hội nhất
định”. Vì vậy, nguyên tắc tính đảng của công tác tư tưởng đòi hỏi phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, luôn xuất phát từ thế giới quan Mác-Lênin, từ quan điểm
của đảng để xem xét đánh giá những vấn đề tư tưởng, chính trị diễn ra trong nước và thế
giới, để giải thích cho quần chúng hiểu biết đúng đắn những sự kiện và hiện tượng diễn ra
trong đời sống xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng là căn cứ tư tưởng, việc ra rời lập trường giai cấp công nhân, xa
6


rời quan điểm của Đảng là biểu hiện nghiêm trọng của sự xa rời tính đảng. Xa rời tính
đảng sẽ dẫn đến dao động trước những biến động phức tạp của lịch sử, bi quan trước
những khó khăn của cách mạng, thậm chí rất dễ tiếp thu quan điểm của giai cấp tư sản.
Bởi vì “Tính đảng là tư tưởng tư sản”. Tính đảng là tư tưởng của xã hội chủ nghĩa”.
Tuân thủ tính đảng có nghĩa là quán triệt hệ tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, coi đó là cơ sở khoa học, là nội dung
cốt lõi của công tác tư tưởng. Toàn bộ công tác lý luận, công tác tuyên truyền, cổ động
phải hướng vào việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyên truyền nhiệt thành

cho sự thắng lợi của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đường lối, chính sách của Đảng, góp phần
làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội.
Ra đời trên cơ sở cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và trở thành một hình
thức của cuộc đáu tranh ấy - hình thức đấu tranh lý luận - tư tưởng - công tác tư tưởng trở
thành công cụ đắc lực bảo vệ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng;
đấu tranh không khoan nhượng với hệ tư tưởng tư sản và mọi tư tưởng thù địch, đi ngược
lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng niềm tin sâu sắc vào sự toàn
thắng của hệ tư tưởng Mác-Lênin và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Một biểu hiện khác của tính đảng trong công tác tư tưởng là công tác tư tưởng phải
góp phần đắc lực khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của
cách mạng nước ta; kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những nhân tố mới xuất
hiện trong phong trào cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời,
công tác tư tưởng phải trở thành vũ khí sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền
tảng tư tưởng, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống
âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù
địch đối với cách mạng nước ta.
Tính đảng không chỉ biểu hiện trong mục đích và nội dung của công tác tư tưởng,
mà còn biểu hiện về mặt tổ chức. Tính đảng đòi hỏi công tác tư tưởng phải trở thành một
bộ phận khăng khít trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, và do đó phải đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Tính đảng đòi hỏi mọi hoạt động tư tưởng phải được tiến hành theo đúng pháp
luật, trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Đồng thời tính đảng cũng đòi hỏi công tác tư
tưởng phái góp phần xây dựng đời sống tinh thần trong sáng, lành mạnh, phong phú; góp
phần hình thành, bảo vệ hệ thống các giá trị xã hội, giá trị văn hóa và đạo đức; góp phần
đắc lực vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và con người xã hội chủ nghĩa.
Tính đảng còn thể hiện ở chỗ, khi tiến hành công tác tư tưởng phải đứng vứng trên
lập trường duy vật biện chứng mác-xít, đấu tranh khắc phục những biểu hiện duy tâm, duy

ý chí, chủ quan trong công tác tư tưởng.
Tính đảng hoàn toàn thống nhất với tính khoa học trong công tác tư tưởng. tính
đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu, do đó công tác tư tưởng càng phục vụ đắc lực
nhiệm vụ chính trị của Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
------------------------------7


Câu 4
Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính khoa học trong công tác tư tưởng
-----------------------------Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng,
nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp trong quần chúng, thúc đẩy
quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
* Cơ sở khách quan qui định tính khoa học của công tác tư tưởng:
Tính khoa học là khái niệm chỉ sự phù hợp với qui luật khách quan khi tiến hành
công tác tư tưởng và là một nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng.
Tính khoa học không chỉ xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng,
mà có cơ sở sâu xa từ bản chất cách mạng và khoa học của hệ tư tưởng Mác - Lênin và
đường lối, quan điểm của Đảng. Ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, Ph.Ăng ghen đã nhắc
nhỡ những người công sản rằng chủ nghĩa Mác là một học thuyết khoa học, đòi hỏi phải
đối xử như một khoa học.
Công tác tư tưởng xét về nội dung là quá trình phát triển và truyền bá hệ tư tưởng
Mác - Lênin làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng thống trị trong toàn xã
hội, củng đòi hỏi tiến hành một cách khoa học. Do yêu cầu truyền bá hệ tư tưởng Mác Lênin vào phong trào công nhân và quần chúng lao động và vận dụng nó để đề ra chiến
lược, sách lược cho phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. Vì vậy công tác tư tưởng
trở thành một bộ phận không thể tách rời của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mác cho rằng học thuyết của ông không chỉ để giải thích thế giới mà còn cải tạo
thế giới. Muốn như vậy thì học thuyết này phải thâm nhập vào quần chúng tất yếu phải
bao gồm một bộ phận lý luận khoa học nghiên cứu tính quy luật của quá trình vận dụng nó
vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Quá trình chuyển hóa tri thức khoa học cách mạng

thành hành động cách mạng.
Tóm lại: Việc khoa học nghiên cứu những tính quy luật này chính là tính khoa học
trong công tác tư tưởng.
* Biểu hiện của tính khoa học trong công tác tư tưởng:
- Công tác tư tưởng được tiến hành có cơ sở khoa học và kế thừa thành tựu của các
khoa học khác để hoàn thiện tính khoa học của mình. Để nắm vững và vận dụng sáng tạo
các quy luật của lĩnh vực tư tưởng, nâng cao tính khoa học của công tác tư tưởng, cán bộ
làm công tác tư tưởng cần nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê nin và đường lối chính sách của
đảng, hiểu biết sâu về các vấn đề như xã hội học, Tâm lý học, giáo dục học….
- Nội dung công tác tư tưởng là những nội dung mang tính khoa học. Trước hết là
quan điểm lịch sử cụ thể đối với các hiện tượng và quá trình diễn ra trong đời sống xã hội.
Phân tích vấn đề một cách toàn diện trong sự vận động và biến đổi, trong mối quan hệ với
nhau, trong không gian và thời gian cụ thể.
- Công tác tư tưởng chỉ truyền bá những nội dung mang tính khoa học, đánh giá
khách quan, trung thực các sự kiện lịch sử, các vấn đề quá khứ và gìn giữ những truyền
thống giá trị của dân tộc. Tính chân thật đảm bảo sức mạnh cho tư tưởng, vì bản thân sự
thật có sức mạnh thuyết phục, lôi cuốn quần chúng vào hành động đúng.

8


- Tính khoa học, tính chân thật trong công tác tư tưởng của chúng ta có nghĩa là
phản ánh một khách quan cả những thành tựu to lớn lẫn những khó khăn, thiếu sót còn
mắc phải trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Tính khoa học của công tác tư tưởng không thể dung thứ, không thể không phê
phán có cơ sở khoa học và triệt để nhận thức phiến diện, một chiều, chủ quan và thậm chí
có ý đồ xuyên tạc, bôi nhọa lịch sử, hạ thấp những giá trị…
Tóm lại: Trong công tác chính trị tư tưởng có nhiều quy luật nhưng sử dụng quy
luật nào là do nguyên tắc chi phối. Người làm công tác tư tưởng phải biết sáng tạo, lựa
chọn phương pháp, hình thức và phương tiện nhằm mạng lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó

còn phải biết kế thừa những thành tựu của khoa học công nghệ mới, biết sử dụng các
phương tiện hiện đại vào công tác tư tưởng. Đồng thời phải biết kết hợp giữa các phương
tiện truyền thống và phương tiện hiện đại để mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác tư
tưởng.

--------------------------

9


Câu 5
Cấu trúc của văn hóa chính trị và nội dung của giáo dục chính trị - tư tưởng
trong việc hình thành văn hóa chính trị
---------------------------* Cấu trúc của văn hóa chính trị
+ Tri thức chính trị:
Yếu tố đầu tiên, đồng thời là nền tảng của văn hóa chính trị, là tri thức chính trị
được biểu hiện ở trình độ học vấn, sự hiểu biết về chính trị. Tri thức chính trị với tư cách
một yếu tố cấu thành văn hóa chính trị là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức lý luận với tri
thức kinh nghiệm về chính trị. Vì vậy, không nên cô lập, tách rời giữa tri thức lý luận với
kinh nghiệm thực tiễn trong giáo dục chính trị tư tưởng.
Việc phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tri thức lý luận với kinh nghiệm
chính trị là cơ sở để một mặt khắc phục những biểu hiện của bệnh lý thuyết suông, giáo
điều và mặt khác khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm và thực dụng.
+ Niềm tin chính trị:
Là nhân tố thứ hai cấu thành văn hóa chính trị, niềm tin chính trị là kết quả của quá
trình nhận thức cực kỳ sâu sắc, tri thức chính trị đã lựa chọn. Niềm tin chính trị khi được
hình thành trên cơ sở khoa học và qua trải nghiệm cá nhân sẽ mang tính tự giác cao độ, trở
thành bản tính chính trị. Niềm tin chính trị được hình thành không chỉ do nắm vững những
tri thức chính trị được trang bị, mà còn là sự kết hợp tri thức đó với tình cảm và ý chí cách
mạng. Niềm tin chính trị được cũng cố vững chắc khi được nuôi dưỡng trong môi trường

chính trị lành mạnh.
+ Hành động chính trị tích cực:
Là toàn bộ hành động cách mạng của quần chúng, tham gia vào đời sống chính trị
đất nước được thể hiện thông qua những hình thức sau:
Sự tham gia vào hoạt động sáng tạo và truyền bá hệ tư tưởng của một giai cấp, một
chính đảng nhằm gây ảnh hưởng về tư tưởng và chính trị cho giai cấp, đảng phái đó.
Sự tham gia vào việc hiện thực hóa các nhiệm vụ chính trị của đất nước; sự tham
gia vào các công việc quản lý nhà nước và xã hội.
Sự tham gia vào các phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của
Đảng nhằm đấu tranh chống lại các hành vi gây rối loạn kỷ cương, phép nước, chống tệ
quan lêu tham nhũng…
+ Hệ tư tưởng chính trị là yếu tố cốt lõi của văn hóa chính trị:
Hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp phản ánh khái quát những lợi ích cơ bản
cũng như phương thức, con đường thực hiện.
Hệ tư tưởng chính trị là yếu tố cốt lõi của văn hóa chính trị nó gắn kết các yếu tố
còn lại trong cấu trúc văn hóa chính trị, quyết định tính chất, chi phối sự vận động, xu
hướng pháp triển và mức độ tác động của các yếu tố đó.
Tóm lại: Văn hóa chính trị mà chúng ta cần hình thành cho nhân dân lao động là
văn hóa chính trị XHCN, thấm nhuần thế giới quan khoa học duy vật biện chứng, lấy chủ
10


nghĩa mác Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và của giai cấp công nhân nhằm hướng con người tới hành động tích cực, vì độc
lập dân tốc và chủ nghĩa xã hội.
* Nội dung của giáo dục chính trị tư tưởng trong việc hình thành văn hóa
chính trị:
Giáo dục chính trị tư tưởng với mục đích hình thành văn hóa chính trị cho nhân
dân lao động gồm các nội dung sau:
- Giáo dục hệ thống tri thức chính trị mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa Mac -Lenin,

tư tưởng HCM và đường lối chính sách của Đảng: Giáo dục chính trị tư tưởng là hình
thành ở mỗi con người, tri thức chính trị cơ bản có hệ thống mà cốt lõi của nó là chủ nghĩa
Mác - Lênin và những di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị. Làm cho thế giới quan
Mac - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần
xã hội.
- Giáo dục truyền thống chính trị và những giá trị chính trị được đúc kết trong lịch
sử: Kết hợp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh với giáo
dục truyền thống chính trị quá báu của dân tộc sẽ góp phần tạo nên một nền văn hóa chính
trị tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa chính trị phản ảnh sâu sắc sự thống
nhất của độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
- Giáo dục sâu sắc lý tưởng chính trị của giai cấp công nhân và của dân tộc, niềm
tin vào sự nghiệp các mạng do đảng lãnh đạo: Lý tưởng chính trị là mục đích cần đạt tới
trong hoạt động chính trị, là cơ sở cho việc hình thành niềm tin, là độgn lực thúc đẩy con
người tham gia hoạt động chính trị. Lý tưởng chính trị còn là căn cứ để xác định phương
tiện, lựa chọn phương thức hoạt động chính trị thực tiễn. Vì vậy, giáo dục chính trị tư
tưởng cần hướng tới việc hình thành lý tưởng chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động mà Đảng cộng sản là người đại diện, biến lý tưởng đó thành lý tưởng của mỗi
người.
- Giáo dục bản lĩnh, sự nhạy bén chính trị và đấu tranh khắc phục sự mơ hồ về
chính trị: Bản lĩnh chính trị được hình thành trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về lý tưởng chính
trị, về tính khoa học và cách mạng của hệ tư tưởng chính trị là yếu tố cốt lõi của văn hóa
chính trị. Hiểu sâu tri thức chính trị, bám sát thực tiễn chính trị, tích cực tham gia vào
phong trào chính trị của quần chúng, hòa mình vào đời sống chính trị đất nước là con
đường chủ yếu đạt tới bản lĩnh chính trị và sự nhạy bén chính trị ở mỗi cá nhân.
- Giáo dục tính tích cực chính trị - xã hội, đấu tranh chống sự thụ động và thói thờ
ơ chính trị: Đây là yếu tố đặc trưng cho phẩn chất chính trị tư tưởng của nhân cách; Giáo
dục tính tích cực chính trị xã hội, thông qua việc lôi cuốn quần chúng tham gia vào đời
sống chính trị đất nước, vào QLNN và xã hội là khâu cuối cùng quan trọng nhất của công
tác giao dục chính trị tư tưởng.
Để giáo dục tính tích cực chính trị - xã hội cho con người ngoài việc tăng cường

tập hợp họ tham gia vào đời sống chính trị đất nước, cần tích cực đấu tranh khắc phục thói
thờ ơ chính trị còn tồn tại ở một bộ phận công chúng.

11


Tóm lại: Có thể nói, khắc phục căn bản thói thờ ơ chính trị, xa lánh, đứng ngoài
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước là một trong những nội dung quan
trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là một biện pháp quan trọng để hình thành,
phát triển tính tích cực chính trị xã hội cho nhân dân lao động nước ta hiện nay.

----------------------------

12


Câu 6
Từ những nhân tố tác động đến quá trình hình thành văn hóa chính trị,
hãy phân tích những vấn đề cấp thiết của công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng ở nước ta hiện nay
------------------------------------Sự nghiệp đổi mới đất nước thực chất là có tính văn hóa. Thành bại công cuộc đổi
mới một phần quan trọng phụ thuộc vào trình độ văn hóa nói chung và trình độ văn hóa chính
trị nói riêng. Sự nghiệp đổi mới đất nước càng đi vào chiều sâu càng đồi hỏi trình độ nhận
thức chính trị cao, ý thức chính trị tự giác, quan điểm chính trị rỏ ràng, sự lãnh đạo chính trị
và quản lý xã hội hết sức khoa học…
Vì vậy, vấn đề hình thành văn hóa chính trị cho toàn đảng, toàn dân đang nổi lên như
vấn đề cốt lõi và cấp thiết của sự nghiệp đổi mới. Đối với nước ta quá trình chuyển từ nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tác
động mạnh mẽ đến văn hóa chính trị từ cả hai phía tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực đối với kinh tế đã thúc đẩy con người có ý thức rỏ về nghề nghiệp,

chuyên môn, sự cạnh tranh của cơ chế thị trường làm cho con người quan tâm hơn đến yếu tố
chất lượng, hiệu quả.
Tuy nhiên bước vào cơ chế thị trường và tiến hành mở cửa chúng ta không sớm phát
hiện mặt trái của cơ chế thị trường, tình trạng đó đã kéo theo một loạt hiện tượng tiêu cực, tác
động xấu đến quá trình hình thành văn hóa chính trị.
Quá trình đổi mới hệ thống chính trị đã tạo ra tiền đề cho việc dân chủ hóa các lĩnh
vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia vào đời sống chính trị đất nước, vào việc quản lý xã hội.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế và bùng nổ thông tin hiện nay, yêu cầu văn hóa của
con người được phát triển đa dạng, tầm hiểu biết được mở rộng. Trước những biến động phức
tạp của tình hình thế giới, đặc biệt là những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm và sự từng trãi
về chính trị đã tỏ ra giao động, giảm sút niềm tin, có nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác Lênin và CNXH, đối với đường lối, chủ trương của đảng và nhà nước. Bôi nhọa, xuyên tạc
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng, chia rẻ
khối đại đoàn kết toàn dân…
Nhận rõ những mặt tích cực và tiêu cực trên trong quá trình hình thành văn hóa chính
trị là rất cần thiết. Vì vậy công tác giáo dục chính trị tư tưởng ở nước ta hiện nay cần tập trung
giải quyết những vấn đề cấp bách sau đây:
- Tăng cường giáo dục lý luận chính trị, nâng cao khả năng vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh mới ở nước ta, đấu tranh chống lại những quan
điểm sai trái, thù địch:
Để giữ vững định hướng XHCN cần tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị
đặc biệt là kiên định mục tiêu lý tưởng mà Đảng và bác hồ đã lựa chọn, quyết tâm thực hiện
thắng lợi Cương lĩnh chính trị của đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Những bài học kinh
nghiệm bước đầu tổng kết thực tiễn đổi mới. Cần coi trọng giáo dục khả năng vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời chống mọi biểu hiện
của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội…
13


- Tăng cường giáo dục truyền thống chính trị của dân tộc:

Tính kế thừa trong sự phát triển văn hóa chính trị đòi hỏi một cách khách quan phải
tăng cường giáo dục truyền thống dân tộc, đặc biệt là truyền thống yêu nước, truyền thống
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cho thế hệ trẻ, những người mang
văn hóa truyền thống của dân tộc chuyển tải vào tương lai. Trên thực tế hiện nay một bộ phận
không nhỏ công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ đang thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí quay lưng lại với
các giá trị truyền thống của dân tộc. Vì vậy cần tăng cường tuyên truyền giáo dục về truyền
thống cho quần chúng nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách báo,
truyền hình, tuyên truyền miệng….
Tóm lại cần tạo ra và dựng dậy môi trường văn hóa dân tộc tốt đẹp, lành mạnh để giáo
dục truyền thống dân tộc cho con người Việt Nam hiện nay.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các phương tiện giáo dục chính trị tư tưởng, sáng
tạo nhiều hình thức giáo dục mới phù hợp với nội dung và đối tượng:
Để làm tốt vấn đề này cần tằng cường phối hợp giữa các trường trong hệ thống giáo
dục nước ta hiện nay, đồng thời phát huy tốt các phương tiện thông tin đại chúng, sinh hoạt,
hội họp của các tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng, hệ thống báo cáo viên…. Nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp trong công tác tuyên truyền.
Cần phân biệt đâu là phương tiện truyền thống, đâu là phương tiện hiện đại mà có
cách sử dụng phối hợp với nhau. Mặt khác cần nhanh chống hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ
thuật của các phương tiện giáo dục chính trị tư tưởng, thường xuyên đổi mới các hình thức
giáo dục phù hợp từng đối tượng. nhằm nâng cao chất lượng truyền tải thông tin đến mọi
người, nhất là vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây….
- Tập hợp rộng rãi quần chúng vào các tổ chức chính trị - xã hội phù hợp với trình độ
giác ngộ của họ là biện pháp chủ yếu để giáo duch chính trị tư tưởng hiện nay:
Giáo dục chính trị tư tưởng sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi được tiến hành trong một tổ
chức, tùy theo trình độ giác ngộ mà chúng ta có thể tập hợp họ vào một tổ chức phù hợp từ đó
tạo điều kiện để mỗi người tiếp thu sự giáo dục về mặt chính trị của đảng.
Chính vì thế cần phải mở rộng các hình thức tập hợp quần chúng thông qua các tổ
chức và nâng dần trình độ từ thấp lên cao. Trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta cần chú trọng xây dựng các tổ chức quần chúng và xã hội trong các tổ chức kinh tế
tư nhân, trong các xí nghiệp liên doanh và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thông

qua đó ta có thể thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ phận công chúng làm việc tại các
địa bàn trên.
Tóm lại: đối với Việt Nam chúng ta hiện nay thì công tác chính trị tư tưởng được xem
là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho thế hệ trẻ hiện nay.
Để làm tốt vấn đề trên đòi hỏi Đảng ta cần nắm vững bốn vấn đề đã nêu, trên cơ sở đưa ra
những chủ trương, đường lối đúng đắn, chính sách cho phù hợp với từng địa phương đơn vị
nhằm làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho mọi tầng lớp nhân dân góp phần vào
thắng lợi chung trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.

--------------------------------------14


Câu 7
Phân tích cấu trúc của văn hóa đạo đức và phương thức của giáo dục đạo đức.
Liên hệ tình hình giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay
-------------------* Cấu trúc của văn hóa đạo đức
Cấu trúc của văn hóa đạo đức bao gồm: tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hành
vi đạo đức.
Tri thức đạo đức là sự hiểu biết của mỗi con người và hệ thống nguyên tắc, chuẩn
mực, hành vi đạo đức trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Tri thức đạo đức được hình thành và hoàn thiện trong quá trình nhận thức đạo đức. Với
những trình độ nhận thức khác nhau, con người có được những tri thức đạo đức khác nhau
như kinh nghiệm, các chuẩn mực và cao hơn là khái niệm, tư tưởng, quan điểm, lý thuyết
được luận chứng bằng lý luận trong đó tri thức lý luận phản ánh đời sống đạo đức một
cách toàn diện và sâu sắc, đáp ứng nhu cầu phát triển và hoàn thiện đạo đức, nhân cách
của cá nhân và sự tiến bộ của toàn xã hội.
Tình cảm đạo đức là sự phản ánh mang tính cảm xúc của chủ thể trước hiện thực
đạo đức, nó được hình thành trên cơ sở nhận thức đạo đức của mỗi cá nhân. Tình cảm đạo
đức thể hiện thái độ của con người trước những hiện tượng đạo đức nảy sinh trong đời
sống, là cơ sở để hình thành niềm tin, động lực của hành vi đạo đức. Người có tình cảm

đạo đức sẽ tự giác thực hiện nghĩa vụ đạo đức của mình đối với người khác và đối với xã
hội.
Hành vi đạo đức là sự phục tùng tự nguyện ý thức đạo đức bằng những hành động
cụ thể xuất phát từ những động cơ muốn làm cho người khác được hạnh phúc, nó được thể
hiện ở sự vô tư hoàn toàn trong sáng, ở tình thương yêu thực sự đối với con người. Giá trị
đạo đức được cấu tạo bằng tính có ích cho người khác, tính tự nguyện và tính không vụ lời
của hành vi.
* Phương thức của giáo dục đạo đức
a. Giáo dục gia đình kết hợp với giáo dục xã hội
Đây là phương thức rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành nhân
cách nói chung và đạo đức nói riêng của con người.
Giáo dục gia đình là hoạt động giáo dục đầu tiên và thường xuyên đối với mỗi
người. Đây là phương thức có hiệu quả rất cao vì nó dựa trên quan hệ huyết thống, tình
thương yêu thực sự và bao quát tất cả các hoạt động sống của con người.
Muốn phát huy tác dụng giáo dục đạo đức của gia đình thì trước hết gia đình phải
là một môi trường đạo đức tốt đẹp, là tấm gương, là người dìu dắt, giáo dục con người
theo những chuẩn mực đạo đức xã hội đặt ra. Ngoài ra, trong qua trình hình thành nhân
cách, đạo đức con người còn chịu sự giáo dục đạo đức của xã hội. Chính những mối quan
hệ xã hội cũng tác động đến cá nhân trong việc hình thành đạo đức, trong đó con người
chịu hai loại tác động là tự giác và tự phát.
Để phương thức này được thực hiện đạt hiệu quả cần kết thực hiện thống nhất và
hiệu quả sự kết hợp giáo dục đạo đức giữa gia đình và xã hội. Điều cốt lõi là tất cả vì “Dân
15


giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bằng đường lối, chính sách đúng đắn,
Đảng và Nhà nước chăm lo xây dựng môi trường đạo đức chung của xã hội, các tổ chức và
gia đình phải chăm lo cụ thể tới việc giáo dục từng thành viên gia đình đồng thời phải chủ
động phối hợp với nhau để công tác giáo dục đạt hiệu quả cao.
b. Kết hợp giáo dục và tự giáo dục

Nhu cầu đạo đức bắt nguồn từ xã hội, nhưng cuối cùng lại thể hiện ở hành vi đạo
đức của mỗi con người. Để những nhu cầu đạo đức xã hội chuyển hóa thành đạo đức cá
nhân của mỗi người đòi hỏi phải có hoạt động giáo dục đạo đức, đồng thời phải thông qua
quá trình tự giáo dục. Giáo dục đạo đức có ý nghĩa vạch phương hướng, chuẩn mực, quy
tắc để mọi thành viên trong xã hội thực hiện, nhưng sự thực hiện là tùy thuộc vào mỗi cá
nhân, là kết quả của tự giáo dục.
Để thực hiện phương thức này, một mặt phải tăng cường các hoạt động giáo dục
nói chung, mặt khác phải quan tâm tới giáo dục các nhóm nhỏ và giáo dục cá biệt, phải sử
dụng các phương pháp khích lệ, động viên….tạo điều kiện cho mọi người được thể
nghiệm và tự rút ra kết luận đạo đức cho bản thân mình.
c. Kết hợp giáo dục đạo đức với các nội dung giáo dục khác
Trong thực tế, các nội dung giáo dục đều có sự đan xen lẫn nhau, nằm trong nhau,
bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Hoạt động của con người là hoạt động mang tính tổng hòa,
mỗi hoạt động là sự phản ánh nhân cách tổng hợp của họ, không chỉ là những yếu tố cá
nhân riêng biệt. Vì vậy, kết hợp giáo dục đạo đức với các nội dung giáo dục tư tưởng khác
trong hoạt động giáo dục là một phương thức mang tính tất yếu. Trong quá trình giáo dục
đạo đức cần thiết phải kết hợp nội dung chính với các nội dung giáo dục khác, vấn đề là
làm thế nào để cho nội dung chính được nổi bật nhưng vẫn thực hiện sự kết hợp giáo dục
nhiều nội dung. Trong công tác giáo dục, các chủ đề cũng cần được sắp xếp hợp lý sao cho
các nội dung giáo dục đều lần lượt được đề cập, phù hợp với nhiệm vụ công tác tư tưởng
trong từng thời kỳ.
d. Kết hợp “xây” và “chống” trong giáo dục đạo đức
Như mọi hoạt động giáo dục khác trong công tác tư tưởng, giáo dục đạo đức cũng
cần thường xuyên thực hiện phương châm kết hợp “xây” và “chống”. Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, vì vậy những tàn dư đạo đức của xã
hội cũ không thích hợp với tồn tại xã hội mới vẫn còn tồn tại dai dẳng. Muốn phát triển,
chúng ta cần phải đấu tranh chống lại những tàn dư đạo đức bảo thủ, lạc hậu của xã hội cũ.
Trong bất cứ hoạt động nào cũng phải thực hiện phương thức kết hợp giữa “xây”
và “chống”. Chống là tiền đề, là điều kiện để xây và xây là mục đích của chống, vì vậy
quá trình kết hợp này cần diễn ra liên tục cho tới khi đạt được mục đích xây dựng đạo đức

mới.
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới đã chứng minh tính quyết liệt, gay gắt của cuộc đấu
tranh trên nhiều bình diện, đặc biệt là vấn đề đạo đức. Trong điều kiện đó, công tác tư
tưởng vừa phải quán xuyến, bao quát chung, vừa đi sâu nghiên cứu từng vấn đề cụ thể để
tác động tới các đối tượng khác nhau thì mới đạt hiệu quả.

16


* Liên hệ tình hình giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay (tham khảo)
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Một trng những nhân tố ảnh hưởng, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển
đúng định hướng chính trị là người lao động phải có văn hóa đạo đức. Điều này đã dược
Đảng khẳng định trong nội dung văn kiện qua các kỳ Đại hội, ngày càng xác định tầm
quan trọng của công tác giáo dục văn hóa đạo đức cho mỗi cá nhân và cho toàn xã hội.
Để phát huy tối đa và cùng hướng tới mục đích chung là xây dựng nhân cách, văn
hóa đạo đức trong mỗi cá nhân, mỗi con người Việt, bằng những Chính sách, đường lối,
chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tập trung xây dựng hệ thống giáo dục, hệ
thống quản lý và nhiều phương thức mới trong nhằm đẩy mạnh có hiệu quả việc giáo dục
văn hóa đạo đức trong tình hình mới, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa mà toàn
dân đang nổ lực xây dựng. Ngoài việc nâng cao tầm quan trọng và hiệu quả của công tác
giáo dục gia đình, hệ thống trường học, cơ sở đào tạo, lý luận và chương trình đạo tạo các
bậc học đều gắn liền và xen kẽ giữa nội dung học tập với nội dung giáo dục đạo đức. Hoạt
động của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội ngoài việc phát huy và phát triển,
đẩy mạnh phong trào còn hướng đến công tác giáo dục văn hóa đạo đức cho các thành
viên phù hợp với những chuẩn mực xã hội, theo chủ trương và mục tiêu của Đảng, Nhà
nước. Các nội dung giáo dục luôn giữ vững lập trường chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa; khuyến khích và thúc đẩy con
người lao động tích cực và trung thực, xem đó là một giá trị đạo đức của cá nhân; tiếp thu
tinh hoa văn háo nhân loại nhưng không ngừng phát huy những truyền thống văn hóa, đạo

đức quý báu được dân tộc ta hun đúc từ bao đời nay như lòng yêu nước nồng nàn, tính tự
lực tự cường, cần cù, sáng tạo…..bên cạnh đó nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân và
toàn xã hội trong công tác hội nhập quốc tế, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng và từng
bước xây dựng trong mỗi một cá nhân, một con người Việt Nam lòng nhân ái đối với cộng
đồng, phát huy truyền thống sống có đạo lý, sống có nhân nghĩa của cha ông, coi việc giáo
dục đạo đức là một trong những nhiệm vũ cơ bản của công tác tư tưởng.
Mặt khác, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang phải chống “diễn biến hòa bình”
của chủ nghĩa đế quốc. Kẻ thù không che giấu âm mưu muốn xóa bỏ chế độ chính trị ở
nước ta, lái quỹ đạo của nước ta vào quỹ đạo “thế giới tự do”, chính vì vậy, mục tiêu giáo
dục văn hóa đạo đức vô sản được nâng tầm quan trọng hơn bao giờ hết. Đồng thời, đất
nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn
năm đến nay vẫn còn tàn dư ảnh hưởng chung đến tình hình phát triển đất nước, vì vậy
muốn xây dựng đạo đức mới phải phê phán, đấu tranh chống lại đạo đức lạc hậu, phản
động. Đây là cuộc đấu tranh gian khổ và lâu dài, phức tạp tuy nhiên toàn Đảng, toàn dân ta
phải thực hiện để hoàn thành mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội đã đặt ra.

------------------------------

17


Câu 8
Phân tích ưu thế, hạn chế của phương pháp đối thoại.
Vì sao trong tình hình hiện nay, công tác tư tưởng cần phải tăng cường đối thoại
------------------------Phương pháp đối thoại là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh luận
giữa hai hay nhiều người để làm sáng tỏ hay đi đến thống nhất vấn đề tư tưởng nào đó.
* Ưu thế, hạn chế của phương pháp đối thoại
- Ưu thế
+ Đối thoại là phương pháp rất phù hợp với quá trình dân chủ hóa trong công tác tư
tưởng; với điều kiện trình độ dân trí ngày càng cao và sự bùng nổ thông tin ngày càng lớn

hiện nay. Khi sử dụng phương pháp đối thoại có thể thực hiện thông tin hai chiều, giải đáp
kịp thời những vấn đề nhiều người quan tâm với sự tham gia ý kiến của cả đối tượng công
tác tư tưởng.
+ Phương pháp này đặt ra các tình huống “có vấn đề”, cuốn hút đối tượng cùng
tham gia giải quyết trong quá trình nhận thức, kích thích cả trí nhớ lẫn tư duy, gây hứng
thú, chủ động tìm hieru quan điểm, tư tưởng. Vì thế, những nội dung cần truyền đạt trong
công tác tư tưởng thường được đối tượng hiểu sâu, nhớ rất lâu. Phương pháp đối thoại có
thể lưu giữ khoảng 50% thông tin.
+ Thông qua đối thoại, đối tượng được trình bày ý kiến của mình, được giải tỏa
tâm lý về những vấn đề tư tưởng còn đang băn khoăn, khúc mắc. Đối thoại thành công,
cũng có nghĩa là tư tưởng được thông suốt.
+ Phương pháp đối thoại được sử dụng thường xuyên sẽ rèn kỹ năng dư duy logic
và khả năng ăn nói lưu loát cho người tham gia đối, bởi vì ý kiến có sức thuyết phục người
khác, người nói bao giờ cũng cần phải cố gắng khái quát, tổng hợp ý kiến trình bày ý kiến
mạch lạc, lập luận vấn đề chặt chẽ.
- Hạn chế
+ Đối thoại là phương pháp khó. Trong đối tượng có những ý kiến khá sắc sảo mà
ngay chủ thể cũng chưa hề nghĩa đến hoặc nắm chưa chắc. Nếu không có đủ trình độ kiên
thức chuyên sâu, chủ thể dễ bị rơi vào tình thế khó, lúng túng, bị động. Hơn nữa, một nội
dung có thể sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, trái chiều, dẫn đến những mâu thuẫn xảy ra
trong quá trình tranh luận trong khi tâm lý người tham gia đối thoại bao giờ cũng muốn
người khác hiểu ý mình, muốn khẳng định ý kiến của mình, bảo vệ quan điểm của mình,
vì vậy nếu không thống nhất được quan điểm thì cuộc đối thoại dễ đi đến bế tắt và không
đạt kết quả. Phương pháp đối thoại đòi hỏi chủ thể công tác tư tưởng cần có trình độ tri
thức vững vàng, lập trường, quan điểm rõ ràng, đủ khả năng hướng đối tượng đến những
quan điểm của Đảng.
+ Trước đây, khi phương tiện truyền tải thông tin còn hạn chế, trình độ dân trí còn
thấp, chủ thể công tác tư tưởng thường sử dụng phương pháp độc thoại với mục đích cung
cấp nhiều nhất có thể thông tin. Ngày nay, trình độ dân trí ngày một nâng lên cùng với sự


18


bùng nổ thông tin, thì vấn đè “định hướng thông tin” nổi lên hàng đầu trong ocong tác tư
tưởng.
+ Cùng một vấn đề tư tưởng có thể có nhiều quan điểm, nhiều ý kiến, chỉ có thông
qua tranh luận, trao đổi mới có thẻ đi đến thống nhất. Vì vậy, chủ thể nên mở rộng, tăng
cường phương pháp đối thoại, tạo điều kiện cho đối tượng cùng tham gia trao đổi, tranh
luận để đi đến thống nhất ý chí và hành động theo định hướng tư tưởng của Đảng.
+ Tâm lý của người tham gia đối thoại là mong muốn người khác hiểu mình, muốn
được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Đề cuộc đối thoại có kết quả tốt, phải đảm bảo
môi trường tâm lý thuận lợi. Đó là thái độ chân thành, cởi mở, thẳng thắn, bình đẳng và
thể hiện sự tôn trọng đối tượng đối thoại. Chủ thể nên khéo léo lái cuộc đối thoại theo
hướng tích cực, tán thành và ủng hộ những ý kiến thăngr thắn. Trong trường hợp có ý kiến
trái ngươc, cần phải phản bác bằng luận chứng, luận cứ khoa học, chứ không nên quy kết,
áp đặt ý kiến chủ quan. Biết tự kiềm chế, biết chờ đợi và thuyết phục đối tượng cũng là
nghệ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp đối thoại.
* Vì sao trong tình hình hiện nay, công tác tư tưởng cần phải tăng cường đối
thoại

-------------------------

19


Câu 9
Quan điểm và giải pháp sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng
trong công tác tư tưởng hiện nay
--------------------------------* Quan điểm
Một là, các phương tiện truyền thông đại chúng phải đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng và sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là Ban tuyên giáo Trung ương và Bộ thông
tin - Truyền thông.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng,
từ thực tế các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, về công tác lãnh đạo và quản
lý báo chí, xuất bản, Chỉ thị 22-CT/TW ngày 176-10-1997 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã khẳng định: “Báo chí, xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật”. Đây có thể xem như là một quan điểm
mang tính nguyên tắc về mặt tổ chức đối với hoạt động của báo chí - xuất bản nói riêng và
các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung của Đảng ta. Là tiếng nói của Đảng, của
Nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội và là diễn đàn của nhân dân, các phương tiện
truyền thông đại chúng luôn đi đầu trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì thế không thể tách rời, buông
lỏng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các phương tiện truyền thông
đại chúng.
Hiện nay, hiện nay nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm lật đổ chế
độ chính trị của các thể lực thù địch trong và ngoài nước, chúng ta càng phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với các phương tiện truyền thông đại
chúng, qua đó làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Hai là, phát huy thế mạnh của từng loại phương tiện truyền thông đại chúng trong
sự chỉ đạo thống nhất để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng.
Hiệu quả của công tác tư tưởng không thê và không chỉ do một loại phương tiện
nào đó trong số các phương tiện truyền thông đại chúng mang lại. Mỗi phương tiện có ưu
nhược điểm khác nhau, vì vậy trong công tác tư tưởng cần phải khai thác triệt để nhằm
phát huy sức mạnh của từng phương tiện trong việc thực hiện các chức năng tư tưởng của
chúng. Mặt khác trong quá trình sử dụng phải có sự chỉ đạo sâu sát để đảm bảo sự thống
nhất từ nội dung đến phương thức tuyên truyền, giáo dục của mỗi loại phương tiện.
Thực hiện quan điểm này, trong quá trình chỉ đạo, tổ chức hoạt động của các
phương tiện truyền thông đại chúng phải bám sát vào tư tưởng chỉ đạo của Đảng, cụ thể là
tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng phải bảo đảm tính tư tưởng, chaant hật, nhân
văn, tính chiến đấu và đa dạng, có trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp

phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí tính tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân.
Ba là, phối hợp chặt chẽ các phương tiện truyền thông đại chúng với các phương
tiện khác của công tác tư tưởng.
Trong công tác tư tưởng có một hệ thống các phương tiện, bao gồm: hệ thống giáo
dục lý luận chính trị của Đảng và nhân dân; tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ
20


báo cáo viên, tuyên truyền viên; các phương tiện truyền thông đại chúng; các thiết chế văn
hó, văn nghệ. Muốn tiến hành công tác tư tưởng có hiệu quả, không thể tách rời hoạt động
giữa các loại phương tiện này với nhau. Nội dung của sự phối hợp được biểu hiện trên hai
chiều trong mối quan hệ biện chứng giữa truyền thông đại chúng và các phương tiện còn
lại của công tác tư tưởng. Các phương tiện truyền thông đại chúng với những ưu thế đặc
thù phải chủ động phối hợp để khai thác thông tin từ chính hoạt động của các phương tiện
khác của công tác tư tưởng, ngược lại các phương tiện khác của công tác tư tưởng, trong
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, một mặt cần có sự phối hợp với các phương
tiện truyền thông đại chúng để quảng bá hoạt động, mặt khác cần nắm bắt kịp thời những
nội dung mang tính định hướng của Đảng, Nhà nước thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng để điều chỉnh, định hướng nội dung hoạt động phù hợp.
* Giải pháp sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng trong công tác
tư tưởng ở nước ta hiện nay
Một là, sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng phải đảm bảo phát huy
được vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, cùa Nhà nước, của đoàn thể vừa là diễn đàn tự do
tư tưởng của nhân dân. Các phương tiện truyền thông đại chúng cần tăng cường phản ánh
ý kiến, thu hút trí tuệ của nhân dân đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ dất nước.
Đồng thời kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm sai lệch, đề cao cảnh giác,
chống lại những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Hai là, sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để chuyển tải, giải thích,
hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng và Nhà nước.
Thông tin nhanh, chính xác đến toàn xã hội các nội dung đường lối, chính sách, giải thích

có cơ sở lý luận, khoa học và thưc hiện thuyết phục, động viên nhân dân tự giác, sáng tạo
thực hiện hiệu quả.
Ba là, sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để phát hiện, biểu dương
nhân tố mới, tham gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện tiêu cực góp
phần làm lành mạnh xã hội, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, bản sắc
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Tăng cương giáo dục tinh thần yêu nước, nhân văn,
ý chí tự lực cho nhân dân.
Bốn là, xây dựng các phương tiện truyền thông đại chúng phải chú ý thường xuyên
nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu thông tin của quần chúng. Giữ vững định hướng
chính trị - tư tưởng, nâng cao hiểu biết, đáp ứng yêu cầu giải trí lành mạnh, hướng dẫn
hình thành dư luận đúng đắn và lạnh mạnh cho xã hội.
Năm là, đội ngũ cán bộ hoạt động trong các cơ quan truyền thông đại chúng phải là
những người được đào tạo cơ bản, có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, có bản lĩnh chính trị
vững vàng và tính chiến đấu cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có kiến thức sâu rộng
và luôn bám sát thực tiễn.
Với tính hình đất nước và thế giới hiện nay, để không ngừng nâng cao hiệu quả của
công tác tư tưởng cần đầu tư phương tiện và sử dụng một cách khoa học, hợp lý hệ thống
các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta hiện nay.
--------------------------------21


Câu 10
Trình bày cơ sở phân loại phương pháp công tác tư tưởng.
Phân tích ưu thế, hạn chế của phương pháp trực quan và phương pháp nêu gương
----------------------------------* Cơ sở phân loại phương pháp công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng có ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công
tác cổ động. Mỗi hình thái đó có những phương pháp riêng. Với quan niệm như vậy,
phương pháp công tác tư tưởng có thể phân chia thành nhiều loại dựa trên một số căn cứ
khác nhau:
1. Căn cứ vào cách sử dụng các phương tiện giáo dục

- Nhóm phương pháp dùng lời nói: sử dụng phương tiện lời nói để tác động trực
tiếp đến đối tượng. Trong nhóm phương pháp này, người ta còn phân chia thành hai nhóm
nhỏ: Phương pháp độc thoại và Phương pháp đối thoại
- Nhóm phương pháp trực quan: Sử dungh phương tiện trực quan để tác động tư
tưởng
- Nhóm phương pháp thực tiễn: giáo dục tư tưởng thông qua hoạt dộng thực tiễn
hoặc giúp đối tượng tự phân tích đánh giá sự kiện, hiện tượng trong thực tiễn đời sống trên
quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin…
2. Căn cứ vào tính chất các biện pháp tác động tư tưởng
- Phương pháp thuyết phục: dung lý lẽ và thực tế có cơ sở khoa học, có lôgic để
thuyết phục đối tượng hiểu và có niềm tin vào vấn đề cần tuyên truyền giáo dục
- Phương pháp ám thị: dung uy tín và ưu thế của chủ thể bộc đối tượng chấp nhận
quan điểm, tư tưởng mà không cần chứng minh, giải thích.
- Phương pháp nêu gương: nêu điển đình tốt để đối tượng gáo dục học tập, bắt
chước và điển hình xấu để học phê phán, lê án, tránh mắc phải
3. Căn cứ phạm vi tác động đối tượng
- Phương pháp giáo dục cá nhân là phương pháp tác động tư tưởng đến từng người
(có đặc điểm riêng biệt, hoàn cảnh đặc biệt hoặc uy tính đặc biệt)
- Phương pháp giáo dục nhóm là phương pháp cùng lức tác động tư tưởng đến từng
nhóm nhỏ có đặc điểm riêng, hoặc hoàn cảnh gần giống nhau.
- Phương pháp giáo dục đại chúng là phương pháp cùng lúc tác động tư tưởng đến
số đông người
4. Căn cứ và mức độ tự giác của đối tượng, người ta còn có thể phân thành
phương pháp giáo dục và phương pháp tự giáo dục; phương pháp phê bình và
phương pháp tự phê bình v.v…
Việc phân loại các phương pháp công tác tư tơpngr như trên chỉ mang tính chất
tương đối. Chẳng hạn, kh sử dụng các phương pháp dùng lời như thuyết trình, giảng giải
cũng là khi sử dụng phương pháp nhóm; khi sử dụng phương pháp trực quan như dùng
pano, áp phích, khẩu hiệu… cũng chính là phương pháp đại chúng v.v…


22


* Ưu thế, hạn chế của phương pháp trực quan và phương pháp nêu gương
Phương pháp
công tác
tư tưởng

Khái niệm

Ưu thế

Hạn chế

Phương pháp trực quan

Phương pháp nêu gương

Trong công tác tư tưởng là
phương pháp sử dụng các phương
tiện trực quan để tác động vào lý
trí, tình cảm con người nhằm
hướng dẫn nhận thức và hành vi
của họ.

Là phương pháp tác động vào
tâm lý, tình cảm của đối tượng
bằng những tấm gương điển hình
(tốt hoặc xấu) trong cuộc sống,
nhằm tạo ra sự bắt chước với

những hành động được xã hội tôn
vinh, đồng thời ngăn chặn những
hành động đi ngược lại với lợi ích
xã hội.
Tốn ít thời gian và công sức
mà vẫn có thể nhanh chóng thay
đổi nhận thức, thái đội và hành vi
của đối tượng theo hướng chủ thể
mong muón, đem lại hiểu quả giáo
dục cao.
Việc nêu gương tốt hay gương
xấu trong xã hội đồi hỏi phảo có
sự hài hòa thì tác dụng giáo dục
mới cao. Nếu như thiên về nêu
gương tốt thì sẽ tạo cảm giác nhìn
xã hội toàn “màu hồng”. Ngược
lại nếu thiên về nêu điển hình xấu
thì dễ tạo ra cách nhìn xã họi chỉ
thấy màu đen, gây cảm giác bi
quan đối với cuộc sống, cũng
không có lợi cho công tác tư
tưởng

Dễ gây ấn tượng mạng cho đối
tượng, vì hình ảnh trực quan tác
động trực tiếp vào các giác quan
(tai nghe, mắt thấy), tạo cảm xúc và
sự khắc sâu kiến thức.
Do tác động trực tiếp vào tâm
lý, tình cảm của đối tượng nên dễ

có khái niệm cụ thể về đúng - sai,
đồng thời nhanh chóng hình thành
những hành động noi gương, bắt
chước với những việc làm nhân
đạo, những hành động hợp với lẽ
phải trong khả năng và điều kiện
hiện có của đối tượng.
Trong thông tin cổ động, nhờ
việc kết hợp chặt chẽ các yếu tố
kiến trức, mỹ thuật, tuyên truyền
hoành tráng với nội dung tư tưởng
sâu sắc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ
có tính kích thích xúc cảm, tình
cảm, cỗ vũ khơi dậy hành động tự
giác theo định hướng của Đảng
Việc sử dụng nó đòi hỏi phải có
điều kiện vật chất nhất định. Nếu
quá lạm dụng phương pháp trực
quan có thể hạn chế phát triển năng
lực tư duy trừu tượng.
Sử dụng không đúng lúc đúng
chỗ, có thể phân tán sự chú ý vào
nội dung hoặc gây cảm giác khó
chịu cho đối tượng

23

Chỉ thích hợp với những nội
dung nhất địn, gắn với việc cổ vũ
những hành động cách mạng cụ

thể. Mặt khác, những tấm gương
đửaa phải có tính chất điển
hìnhthif mới có sức cảm hóa mạnh
mẽ đối tượng


Câu 11
Phân tích các yếu tố quy định việc lựa chọn phương pháp công tác tư tưởng.
Theo anh (chị), trong các phương pháp công tác tư tưởng phương pháp nào
là quan trọng nhất, vì sao?
----------------------------* Các yếu tố quy định việc lựa chọn phương pháp công tác tư tưởng
1. Đặc điểm đối tượng công tác tư tưởng
Đặc điểm đối tượng là yếu tố đầu tiên quyết định việc lựa chọn phương pháp công
tác tư tưởng. Hêghen cho rằng, phương pháp phải gắn liền với đối tượng, phụ thuộc vào
đối tượng. Trước hết, việc sử dụng phương pháp phải căn cứ và nhu cầu và trình độ nhận
thức các vấn đề tư tưởng của đối tượng, vì nhu cầu và trình độ này là không đồng đều. Do
đó, cần phải đi sâu tìm hiểu đối tượng thông qua ý kiến, phản ứng của học đối với mỗi vấn
đề tác động tư tưởng để sử dụng phương pháp phù hợp.
Chẳng hạn, trong nhóm phương pháp dùng lời, với đối tượng có trình độ thấp thì
có thể dùng nhiều phương pháp độc thoại vì nhu cầu chính của họ là muốn được cung
cung cấp thông tin. Nhưng đối với đối tượng có trình độ cao cần tăng cượng sử dụng các
phương pháp đối thoại, vì trình độ dân trí cao thì nhu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội,
nhu cầu định hướng tư tưởng ngày càng cao, yêu cầu chủ thể phải tăng cường trao đổi, đối
thoại, gợi mở vấn đề cho phù hợp với nhu cầu và trình độ đó. Mặt khác, đặc điểm tâm lý
của đối tượng cũng là một căn cứ quan trọng khi lựa chọn phương pháp tác động tư tưởng.
Độ tuổi, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo… đều có những đặc điểm tâm lý đặc trưng,
đồi hỏi những phương pháo phù hợp nhất định. Chẳng hạn, thanh thiếu niên tuổi đời còn
ít, vốn sống và tri thức còn hạn hẹp thì phương pháp trực quan đối với học là cần thiết,
trong khi trung niên hoặc người cao tuổi thì phương pháp thuyết trình thích hợp hơn vì họ
muốn nhiều thông tin trong thời gian ngắn.

Chủ thể công tác tư tưởng phải tìm hiều và nắm vững đặc điểm đối tượng để lựa
chọn phương pháp phù hợp đặc điểm tâm lý, nhu cầu và trình độ nhận thức của ho.
2. Mục đích, nội dung, nhiệm vụ công tác tư tưởng trong từng trường hợp cụ thể
Mục địch của công tác tư tưởng là cơ sở quan trọng để lựa chọn phương pháp. Tùy
theo mục đích cần đạt tới của công tác tư tưởng mà chủ thể sử dụng phương pháp khác
nhau. Chẳng hạn với mục đích cung cấp tri thức thì có thể dùng phương pháp thuyết trình
là chính; với mục đích hình thành và củng cố niểm tin thì cần sử dụng nhiều phương pháp
đối thoại; với mục đichs cổ vũ thành động thì cần dùng phương pháp nêu gương, phương
pháp trực quan
Nội dung công tác tư tưởng là yêu tíi quan trọng trực tiếp quy định việc lựa chọn
phương pháp. Mỗi nội dung cụ thể yêu cầu những phương pháp cụ thể, phù hợp để chuyển
tải. Chẳng hạn, với những nội dung rộng lớn và cần trang bị một cách có hệ thống thì nên
chú ý lựa chọn sử dụng những phương pháp dùng lời mời có thể lý giải cặn kẽ vấn đề; với
nội dung của một đợt tuyên truyền giáo dục trong một thời điểm nhất định thì nên dùng
24


nhiều phương pháp nêu gương, phương pháp trực quan để hình thành ý thức và tính tích
cực hành động kịp thời… Giữa nội dung và phương pháp có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ. Nội dung quy định phương pháp phù hợp sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, thậm chí
góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn nội dung.
Việc lựa chọn và sử dụng phương pháp cũng tùy thuộc từng nhiệm vụ cụ thể của
công tác tư tưởng trong từng thời điểm, ở từn địa phương, cơ sở nhất định
3. Các điều kiện cụ thể của công tác tư tưởng
Việc lựa chọn phương pháp công tác tư tưởng phụ thuộc rất nhiều vào năng lực sử
dụng phương pháp cùng khả năng làm chủ các phương tiện của chủ thể. Trong thực tế, có
khi có đầy đủ phương tiện vật chất - kỹ thuật hiện có. Ở những nơi kinh tế phát triển, đời
sống nhân dân ổn định, mặt bằng dân trí tương đối cao và công tác tư tưởng có khả năng
trang bị những phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, truyền hình, Internet thì cần
tăng cưởng sử dụng những phương pháp phát huy sáng tạo, tính tích cực chủ động của đối

tượng như phương pháp đàm thoại, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp trực quan…
Ngược lại, những nơi đời sống khó khăn, mặt bằng dân trí thấp và điều kiện, phương tiện
trang bị cho công tác tư tưởng còn nhiều hạn chế thì sử dụng phương pháp dùng lời;
phương pháp nêu gương… là chủ yếu
C.Mác đã chỉ ra rằng, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội. Cuộc sống con người rất đa dạng, phong phú, do đó, phương pháp
tác động tư tưởng cũng phải đa dạng, phong phú thì mới không gây cảm giác nhàm chán,
đơn điệu. Hơn nữa trong công tác tư tưởng không có phương pháp nào là hoàn hảo tuyệt
đối, mỗi phương pháp đều có ưu thế và hạn chế nhất định, nhưng khi kết hợp với nhau
chúng sẽ bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Bởi vậy chủ thể công
tác tư tưởng phải biết cách sử dung tổng hợp phương pháp trong công tác tư tưởng. Việc
sử dụng tổng hợp các phương pháp đòi hỏi chủ thể phải nắm vững nội dung, biết sử dụng
linh hoạt, nhuần nhuyễn nhiều phương pháp và cần có điều kiện vật chất, phương tiện sắn
sàng để khi cần là có thể sử dung được ngay.
Để sử dụng phương pháp công tác tư tưởng có hiệu quả, ngoài việc nắm vững các
ưu thế và hạn chế của từng phươn gphasp, chủ thể cần xác định đúng mục đích, nội dung
công tác tư tưởng cho phù hợp nhiệm cụ cách mạng từng thời điểm; căn cứ điều kiện chủ
quan, khách quan, đặc biệt là căn cứ đặc điẻm từng loại đối tượng cụ thể mà xác định sử
dụng phương pháp nào là chủ đạo và cần phối hợp với những phương pháp nào là phù
hợp.
* Trong các phương pháp công tác tư tưởng, quan trọng nhất là phương pháp
trực quan vì đây là phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan để tác động vào
lý trí, tình cảm của con người nhằm hướng dẫn nhận thức và hành vi của họ. Là
phương tiện quan trọng để phổ biến, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những vấn
đề thời sự lớn của đất nước, của quốc tế và của địa phương; qua đó, nâng cao nhận thức

25



×