Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hoạt động thương mại giữa Việt Nam thời Pháp thuộc và vùng lãnh thổ Hồng Kông giai đoạn 1930–1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.13 KB, 6 trang )

KHOA HỌC XÃ HỘI

Hoạt động thương mại

giữa Việt Nam thời Pháp thuộc
và vùng lãnh thổ Hồng Kông
giai đoạn 1930–1945
Trần Văn Hùng
Khoa KHXH & NV – Đại học Hùng Vương

Nhận bài ngày 29/11/2017, Phản biện xong ngày 13/12/2017, Duyệt đăng ngày 14/12/2017

TÓM TẮT

G

iai đoạn 1897–1929, thương mại Việt Nam – Hồng Kông có sự tăng trưởng liên
tục và đạt đỉnh giá trị những năm 1926–1929. Sang giai đoạn 1930–1945, thương
mại Việt Nam – Hồng Kông vẫn tiếp tục được duy trì, Hồng Kông vẫn là thị trường
xuất nhập khẩu đứng đầu của Việt Nam ở khu vực châu Á. Tuy nhiên thương mại Việt
Nam – Hồng Kông giai đoạn này không ổn định và theo đà dần suy giảm về mức gần
ngừng trệ hoàn toàn quan hệ trong những năm 1942–1945.
Từ khóa: Việt Nam, Hồng Kông; thương mại; xuất khẩu; nhập khẩu.

1.Đặt vấn đề

Trong những năm 20 của thế kỷ XX,
thương mại Việt Nam – Hồng Kông tăng
trưởng mạnh, đạt kim ngạch cao, nhưng từ
năm 1930 trở đi, thương mại hai chiều hai
bên giảm dần và về mức gần như không còn


quan hệ trong những năm 1942–1945. Vì vậy,
vấn đề thương mại Việt Nam – Hồng Kông
trong giai đoạn 1930–1945 có nhiều vấn đề
cần nghiên cứu rõ: cán cân thương mại Việt

Nam – Hồng Kông duy trì như thế nào? Cơ
cấu mặt hàng xuất nhập khẩu như thế nào,
có gì thay đổi? Tại sao quan hệ thương mại
hai bên trong giai đoạn này có biến động
không ổn định và theo đà chung suy giảm
mạnh? Làm rõ những vấn đề trên, chúng ta
có những khái quát, đánh giá toàn diện hoạt
động thương mại giữa Việt Nam thời Pháp
thuộc với vùng lãnh thổ Hồng Kông giai
đoạn 1930–1945 và cả giai đoạn 1897–1945.
Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 3 (8) – 2017  17


KHOA HỌC XÃ HỘI

2.Kết quả nghiên cứu
2.1.Bối cảnh lịch sử

Giai đoạn 1930–1945, tình hình thế giới,
khu vực, Việt Nam và Hồng Kông có những
diễn biến mới tác động lớn đến quan hệ
thương mại hai bên. Khủng hoảng kinh tế
thế giới 1929–1933 có tác động sâu rộng đến
nhiều quốc gia, khu vực, đặc biệt đối với các
nước tư bản. Hậu quả lớn nhất của khủng

hoảng kinh tế thế giới 1929–1933 là sự hình
thành chủ nghĩa phát xít, với trục phát xít
Berlin – Roma – Tokyo. Chiến tranh thế giới
lần thứ hai (1939–1945) ảnh hưởng nhanh
chóng, toàn diện đến thế giới, nền kinh tế
của nhiều nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng,
trong đó có nước Anh, nước Pháp. Hoạt
động kinh tế, thương mại nhiều quốc gia,
khu vực giảm sút mạnh.
Tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
phát xít Nhật ráo riết chạy đua chuẩn bị
chiến tranh. Năm 1937, chiến tranh Trung
– Nhật bùng nổ. Giai đoạn 1930–1945,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
phát triển mạnh mẽ ở Châu Á, trong đó có
Việt Nam. Chiến tranh thế giới lần thứ hai
nhanh chóng tác động đến khu vực châu Á
– Thái Bình Dương. Phát xít Nhật tấn công
xâm lược Trung Quốc, các nước Đông Nam
Á. Sau sự kiện Trân Châu Cảng (7/12/1941),
châu Á – Thái Bình Dương trở thành một

chiến trường khốc liệt với sự đối đầu của
phát xít Nhật và các nước trong phe Đồng
minh, đứng đầu là Mỹ.
Như vậy, thế giới, khu vực và Việt Nam
trong giai đoạn 1930–1945 có nhiều biến
động phức tạp, bất ổn cả về kinh tế, chính
trị, an ninh. Giai đoạn này chứng kiến
những căng thẳng leo thang dần dẫn đến

chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tình hình
như vậy tác động lớn đến trao đổi thương
mại giữa Việt Nam – Hồng Kông.

2.2.Cán cân thương mại
Về tổng thể, hoạt động thương mại giữa
Việt Nam và Hồng Kông giai đoạn 1930–
1945 vẫn được duy trì, nhưng có sự biến
động theo chu kỳ: giảm dần trong những
năm 1930–1936, tăng trưởng trở lại những
năm 1937–1941 và suy giảm mạnh những
năm 1942–1945. Tổng kim ngạch thương
mại hai chiều Việt Nam – Hồng Kông năm
1930 là 654,0 triệu Francs (FRF), suy giảm
dần đến mức còn 217,3 triệu (FRF) năm
1936, tăng trưởng trở lại đạt cao nhất năm
1940 với tổng kim ngạch 780 triệu (FRF),
sau đó suy giảm rất mạnh, chỉ còn 0,8 triệu
(FRF) năm 1945 [1].
Tổng quan về thương mại hai chiều giữa
Việt Nam và Hồng Kông giai đoạn 1930–
1945 được thể hiện qua Bảng 1 dưới đây:

Bảng 1. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và Hồng Kông giai đoạn 1930–1945[1]
Năm
1930
1931
1932
1933
1934

1935
1936
1937

Giá trị
xuất khẩu
187
145
106
92,6
90,2
72
71,7
138,3

Giá trị
nhập khẩu
467
324
311
242
149,8
225,1
145,6
292,8

Tổng
kim ngạch
654,0
469,0

417,0
334,6
240,0
297,1
217,3
431,1

18  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 3 (8) – 2017

Năm
1938
1939
1940
1941
1942
1943
1944
1945

Giá trị
xuất khẩu
140
170
260
160
10
2
49,5
0,7


Giá trị
Tổng
nhập khẩu
kim ngạch
280
420,0
310
480,0
520
780,0
530
690,0
0
10,0
0,1
2,1
2,3
51,8
0,1
0,8
Đơn vị tính: triệu Franc


KHOA HỌC XÃ HỘI

Biểu đồ 1. So sánh cán cân thương mại Việt Nam – Hồng Kông giai đoạn 1930–1945 (triệu frf) [1]

So với những năm 20 của thế kỷ XX,
thương mại hai chiều Việt Nam – Hồng Kông
giai đoạn 1930–1945 cũng giảm mạnh. Năm

1940, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt
Nam với Hồng Kông đạt cao nhất giai đoạn
1930–1945 (780 triệu FRF), nhưng cũng chỉ
đạt 57,6% so với năm 1927 (năm thương mại
Việt Nam – Hồng Kông đạt cao nhất).
Sự suy giảm kim ngạch thương mại Việt
Nam – Hồng Kông trong những năm 1930–
1936 so với giai đoạn trước năm 1930, do
nhiều nguyên nhân như: khủng hoảng kinh
tế thế giới 1929–1933; chính sách thuế nhập
khẩu mới của thực dân Pháp; phong trào
cách mạng Việt Nam. Từ năm 1928, thực
dân Pháp ban hành chính sách thuế mới
đối với hàng nhập khẩu vào Đông Dương
nhằm thiết lập độc quyền thương mại của
Pháp ở Việt Nam. Luật thuế mới năm 1928
chủ yếu áp dụng đối với hàng hóa có xuất
xứ từ Trung Quốc, Nhật Bản. Đây là hai
thị trường cung cấp hàng hóa chủ yếu cho

thương nhân Hồng Kông xuất khẩu vào Việt
Nam. Mức thuế mới đối với hàng hóa các
nước khác nhập vào Việt Nam “đã tăng từ
3 tới 26 lần” [2]. Những năm 30, hàng hóa
của thực dân Pháp luôn chiếm hơn 50% thị
trường Việt Nam.
Từ năm 1937, thương mại Việt Nam –
Hồng Kông phục hồi trở lại là do kinh tế thế
giới có sự phục hồi nhất định. Lúc này chiến
tranh Trung Quốc bùng nổ nên tình hình

kinh tế Trung Quốc bị ảnh hưởng, Hồng
Kông trở thành nơi cung cấp một phần
quan trọng nhu cầu của Trung Quốc. Mặt
khác, từ năm 1940 nước Pháp phải chống lại
phát xít Đức, sản xuất đình trệ nên nguồn
cung cấp hàng hóa cho thị trường Việt Nam
từ Pháp bị hạn chế. Năm 1941, thương mại
Việt Nam – Hồng Kông giảm, đặc biệt giảm
rất mạnh từ những năm 1942–1945. Nguyên
nhân chủ yếu là do từ tháng 11/1941 chiến
tranh Châu Á – Thái Bình Dương bùng nổ
ác liệt, tuyến đường hàng hải hoàn toàn bị
Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 3 (8) – 2017  19


KHOA HỌC XÃ HỘI

Biểu đồ 2. So sánh cán cân thương mại giữa Việt Nam – Hồng Kông trong hai năm 1927 và 1940 [1]

phong tỏa, gián đoạn; phong trào cách mạng
Việt Nam phát triển chưa từng có nên buôn
bán hai bên ngừng trệ.
Qua bảng 1 cũng cho thấy, giai đoạn 1930
–1945, cán cân thương mại tích cực cho Việt
Nam. Việt Nam xuất siêu sang Hồng Kông
trong thời kỳ 1930–1941. Kết quả này vẫn
tiếp tục duy trì so với giai đoạn trước. Giá trị
xuất siêu cho thấy Hồng Kông là thị trường
quan trọng của kinh tế Việt Nam thời Pháp
thuộc. Lúc này, Hồng Kông đảm nhiệm vai

trò là vùng trung chuyển hàng hóa của nhiều
quốc gia. Hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu
sang Hồng Kông, sau đó từ Hồng Kông, hàng
hóa này tiếp tục được phân phối đến một số
quốc gia khác.
So sánh với các thị trường khác ở khu
vực châu Á, Hồng Kông vẫn là thị trường
đứng đầu về xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Năm 1937, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam với Trung Quốc là 201,1 triệu
FRF [3], với Nhật Bản là 150,2 triệu FRF, với
20  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 3 (8) – 2017

Hồng Kông là 406 triệu FRF [1]. Kim ngạch
thương mại Việt Nam – Hồng Kông giai
đoạn này luôn chiếm khoảng hơn 50% tổng
kim ngạch thương mại giữa Việt Nam với
các nước châu Á.

2.3.Cơ cấu hàng hóa xuất – nhập khẩu
a) Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Theo thống kê của chúng tôi, Việt Nam
vẫn duy trì ổn định khoảng hơn 20 mặt hàng
khác nhau xuất khẩu sang Hồng Kông, chia
thành hai nhóm. Nhóm hàng hóa nông –
lâm – thủy sản gồm: gạo, đậu xanh, hạt
vừng, quế, trâu, trứng gia cầm, cao su, cá
khô, cá nước muối, tôm khô,… Nhóm hàng
thủ công nghiệp và công nghiệp gồm: dầu
mài, đồ sơn mài, than đá, xi măng, muối

biển. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam, gạo là mặt hàng có giá trị xuất khẩu
cao nhất, luôn chiếm khoảng hơn 70% tổng
giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Hồng
Kông. Năm 1937, Việt Nam xuất khẩu sang


KHOA HỌC XÃ HỘI

Hồng Kông 319.107 tấn gạo, giá trị đạt 211
triệu FRF [4], chiếm 77,2% tổng giá trị xuất
khẩu sang thị trường này. Theo ông Nguyễn
Khắc Đạm, tư bản Pháp ngày càng nắm
thị phần lớn xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Trước năm 1930, tư bản Pháp “mới mua
được có từ 10% đến 25% tổng số thóc gạo
xuất cảng của Đông Dương” [2], nhưng từ
năm 1931 trở đi tư bản Pháp “đã mua được
tới từ 30% đến 65%” [2]. Tính chung, nhóm
hàng nông – lâm – thủy sản luôn chiếm
khoảng hơn 90% giá trị xuất khẩu của Việt
Nam sang Hồng Kông. Hàng xuất khẩu của
Việt Nam chủ yếu là các sản phẩm thô, ít
được chế biến.

tế Việt Nam của chính quyền thực dân
Pháp. Xét toàn diện cho thấy nền kinh tế
Hồng Kông thuộc Anh giai đoạn này phát
triển đa dạng hơn so với Việt Nam thuộc
Pháp. Trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu

từ Hồng Kông vào Việt Nam, lúa mì, thảo
dược, trái cây và đồ thực phẩm đóng hộp
là những mặt hàng đứng đầu về giá trị
nhập khẩu, chiếm khoảng 60% tổng giá
trị. Những mặt hàng này nhập khẩu vào
Việt Nam đa số phục vụ nhu cầu sinh hoạt
của người Pháp.

b) Cơ cấu hàng nhập khẩu
Giai đoạn 1930–1945, cơ cấu hàng nhập
khẩu của Việt Nam từ Hồng Kông phong
phú, đa dạng hơn so với hàng xuất khẩu
của Việt Nam sang Hồng Kông, khoảng
hơn 40 mặt hàng, chia thành hai nhóm.
Nhóm hàng nông nghiệp gồm: tảo biển, sò
ốc, mai rùa, sừng, bột cọ, rau khô, khoai
tây, hoa quả tươi và hoa quả khô, cây
thuốc lá,… Nhóm hàng thủ công nghiệp
và công nghiệp gồm: miến Trung Quốc,
kẹo và sirô Trung Quốc, thuốc lá, các loại
thuốc Đông y, than đá, dầu hỏa, giấy bản,
mực tàu, đồ sứ, vải lụa, đồ gỗ, túi ví, giầy
dép, đồ chơi,… Hàng thủ công nghiệp và
công nghiệp của Việt Nam xuất sang Hồng
Kông chỉ có 4 sản phẩm, chiều ngược lại,
nhóm sản phẩm này nhập vào Việt Nam
khoảng hơn 20 mặt hàng. Thực tế đó phản
ánh nền sản xuất thủ công nghiệp và công
nghiệp hạn chế của Việt Nam trong giai
đoạn này. Nguyên nhân chủ yếu xuất

phát chủ yếu từ chính sách hạn chế kinh

Thứ nhất: Thương mại hai bên giai đoạn
1930–1945 không duy trì được đà tăng
trưởng liên tục, ổn định như giai đoạn
trước, đã giảm mạnh và không ổn định:
suy giảm liên tục qua các năm từ 1930 đến
1936, tăng trưởng phục hồi nhất định trong
những năm 1937–1941, giảm rất mạnh và
gần mất hoàn toàn quan hệ từ năm 1942
đến năm 1945.
Thứ hai: Hồng Kông vẫn là thị trường
có giá trị xuất nhập khẩu lớn nhất của
Việt Nam trong khu vực châu Á, và là thị
trường xuất nhập khẩu lớn thứ hai của
Việt Nam sau chính quốc Pháp. Điều này
cho thấy vai trò quan trọng của thị trường
Hồng Kông và quan hệ thương mại sâu
sắc giữa Việt Nam với Hồng Kông. Thông
qua thương nhân Hồng Kông, hàng hóa
sản xuất ở Việt Nam xâm nhập được thị
trường của một số nước trên thế giới. Về
cơ bản, trong cả giai đoạn Việt Nam vẫn
duy trì cán cân xuất siêu sang thị trường
Hồng Kông.

2.4. Một số đánh giá về quan hệ thương
mại giữa Việt Nam thời Pháp thuộc – vùng
lãnh thổ Hồng Kông giai đoạn 1930–1945


Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 3 (8) – 2017  21


KHOA HỌC XÃ HỘI

Thức ba: Cơ cấu hàng hóa xuất nhập
khẩu giữa Việt Nam với Hồng Kông khá
phong phú, đa dạng. Điều đó thể hiện sự
xâm nhập sâu của hàng hóa vào thị trường
Việt Nam và Hồng Kông. Tuy nhiên, giá trị
xuất khẩu và cơ cấu hàng hóa xuất nhập
khẩu của Việt Nam trong quan hệ thương
mại với Hồng Kông cũng phần nào phản
ánh rõ hơn về tính chất nền kinh tế tư bản
thực dân, phát triển phiến diện, què quặt
của Việt Nam. Hồng Kông là thị trường
xuất nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam,
nhưng giá trị xuất nhập khẩu năm cao
nhất chỉ đạt 780 triệu FRF. Cơ cấu hàng
xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các
sản phẩm nông nghiệp thô. Sản phẩm
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là lúa gạo,
trong khi đó người dân Việt Nam thiếu đói
nghiêm trọng, đời sống hàng ngày cực khổ,
bần cùng. Chính quyền thuộc địa Pháp vẫn
là chủ nhân thực sự của hoạt động thương
mại giữa Việt Nam – Hồng Kông. Thương
nhân người Việt có tham gia nhưng ở mức
độ hạn chế.
Thứ tư: Hoạt động xuất nhập khẩu

giữa Việt Nam với Hồng Kông nói riêng,
với các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nói
chung chịu sự tác động của nhiều nhân
tố, trong đó tự do và an toàn tuyến đường
hàng hải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thực tế, trong những năm 1942–1945,
khi chiến tranh Châu Á – Thái Bình
Dương diễn ra, hoạt động thương mại
giữa Việt Nam – Hồng Kông gần như rơi
vào ngừng trệ hoàn toàn. Năm 1941, kim
ngạch thương mại hai bên vẫn đạt 690
triệu FRF, nhưng sang năm 1942, chỉ còn
10 triệu FRF. Do vậy, vấn đề an toàn, tự
do hàng hải thời kỳ nào (hiện nay phải
theo luật pháp quốc tế) cũng luôn có ý
22  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 3 (8) – 2017

nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt
động thương mại.

3.Kết luận

Cán cân thương mại Việt Nam – Hồng
Kông giai đoạn 1930–1945 vẫn được duy
trì nhưng theo chiều hướng suy giảm do
tác động của nhiều nhân tố. So với giai
đoạn trước năm 1930, thương mại hai
bên giai đoạn này khác nhau về chiều
hướng tăng trưởng và giá trị nhưng vẫn
cơ bản duy trì về sự phong phú, đa dạng

của mặt hàng xuất nhập khẩu và cán cân
xuất siêu của Việt Nam. Thương mại hai
chiều cho thấy một Việt Nam thuộc Pháp
có nền kinh tế chậm phát triển, phiến
diện, lạc hậu so với một Hồng Kông thuộc
Anh phát triển năng động, cởi mở hơn.
Sự kết thúc của thương mại Việt Nam –
Hồng Kông vào năm 1945 mở ra thời kỳ
mới tích cực—thời kỳ người Việt Nam
là chủ nhân của quan hệ thương mại với
Hồng Kông.

Tài liệu tham khảo
[1]  Kham Vorapheth (2004), Commerce et colonisation en Indochine 1800–1945, Ed, Les
Indes Savantes, Paris.
[2]  Nguyễn Khắc Đạm (1958), Những thủ đoạn
bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam, Nxb Văn
Sử Địa, Hà Nội.
[3]  RST-75112-04, Bulletins mensuels d ’ informations économiques sur la Chine en 1937
et 1942, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I,
Hà Nội.
[4]  Nguyễn Thị Thanh Tùng (2014), Giao thương
giữa Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh
thổ thuộc khu vực Đông Bắc Á (1897–1945),
Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
(Xem tiếp trang 86)




×