Lời nói đầu
Đầu những năm 1980, tình trạng khủng hoảng sâu sắc của nền kinh tế Việt
Nam buộc chính phủ phải cải cách triệt để, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng.
Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trờng, mở cửa đã trở thành một
đầu tầu trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua.
Chính sách mở cửa có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế. Chính
phủ Việt Nam đã thực hiện công cuộc cải cách kinh tế trong đó có việc thực hiện
chơng trình xuất khâủ và thu đợc nhiều thành công to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh các
thành tựu thu đợc trong quá trình thực hiện mở cửa, Việt Nam đang phải đơng đầu
với nhiều thử thách :
- Một số chính sách thơng mại quốc tế thích hợp còn đang là vấn đề cha đợc
xác định rõ ràng.
- Đầu t trực tiếp nớc ngoài đang giảm sút do các hạn chế liên quan đến :
+ Hệ thống luật pháp còn yếu kém.
+ Bộ máy quản lý quan liêu.
+ Tỷ giá hối đoái,..
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu và rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, việc
học tập kinh nghiệm phát triển của các nớc khác, nhất là các nớc trong khu vực có
vai trò rất quan trọng.
Khi tách ra khỏi liên bang Malaysia vào năm 1965 và tuyên bố trở thành một
chính thể cộng hoà độc lập, Singapore gặp không ít những khó khăn với thị trờng nhỏ
hẹp và ít có tiềm lực về tài nguyên thiên nhiên, sản xuất nông nghiệp hầu nh không có,
các cơ sở sản xuất công nghiệp không đáng kể, vốn trong nớc không đủ lớn để công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Nhng chính phủ Singapore đã bằng chính sách đối
nội và đối ngoại phù hợp trong từng thời kỳ mà huy động đợc nguồn vốn đủ lớn để
không những hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc mà còn rút
ngắn khoảng cách so với các nớc khác nói chung.
1
Cùng là những nớc trong khu vực Đông Nam á, cả Việt Nam và Singapore
đều chủ trơng mở những mối quan hệ hữu nghị và hợp tác trên mọi mặt. Mặc dù
trong những năm trớc đây giữa hai nớc đã có thời kỳ căng thẳng về mặt quan hệ
chính trị, song Singapore vẫn giữ quan hệ cần đối thoại với Việt Nam.
Ngày 1/8/1973 Singapore chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam. Hai nớc cũng đã ký kết một loạt những hiệp định kinh tế bao gồm : hiệp
định thơng mại, hiệp định hàng hải, hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ môi trờng, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu t, hiệp định hàng không,
hiệp định đánh thuế hai lần, hiệp định hợp tác du lịch.
Trong những năm gần đây, Singapore đã mở rộng quan hệ buôn bán với Việt
Nam và họ luôn là nớc có kim ngạch buôn bán lớn nhất với ta so với các nớc trong
ASEAN. Từ năm 1991, quan hệ giữa hai nớc đã chuyển hẳn sang bớc phát triển
mới mở đầu cho những hiệp định và chơng trình hợp tác kinh tế.
Singapore vẫn luôn là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam (sau
Nhật Bản) với kim ngạch xuất khẩu hai chiều mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Singapore là : dầu thô, long nhãn,
hạt điều, rau quả, gạo, đậu các loại, hải sản, cao su, đồ gốm, quần áo may sẵn, thiếc, ...
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Singapore là : xăng dầu,
nhựa đờng, các hoá chất cơ bản, hạt nhựa, giấy làm vỏ bao xi măng, hàng điện tử,
máy thông tin, xe máy, máy lạnh, nhôm, săm lốp, đồ uống, bột mỳ, ...
Rõ ràng là cán cân xuất nhập lhẩu không cân đối đòi hỏi phía Việt Nam phải
nghiên cứu xác định nhu cầu của bạn hàng để khai thác những mặt hàng xuất khẩu
có lợi thế để tăng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Chính vì vậy em đã chọn đề tài Hoạt động thơng mại giữa Việt Nam
Singapore để nghiên cứu.
Đề tài bao gồm :
Phần I: Lý luận chung về thơng mại quốc tế và chính sách thơng mại quốc tế.
Phần II: Thực trạng thơng mại của hai nớc Việt Nam- Singapore.
Phần III: ý kiến và giải pháp hoạt động thơng mại Việt Nam-Singapore.
2
Phần I : lý luận chung về thơng mại quốc tế và
chính sách thơng mại quốc tế
I. Lý LUậN CHUNG Về THƯƠNG MạI QuốC Tế.
Từ xa xa loài ngời đã ý thức đợc những lợi ích của hoạt động trao đổi, buôn
bán giữa các nớc. Nói chung, ngời ta sớm tìm thấy những lợi ích trên thực tế của
thơng mại quốc tế ra đời. Tuy vậy, các lý thuyết thơng mại quốc tế chỉ thực sự
xuất hiện ở đầu thế kỷ XV và đợc phát triển liên tục qua mấy trăm năm nay. Cũng
nh quá trình buôn bán đợc phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, các lý thuyết
khác nhau về thơng mại quốc tế phản ánh những bậc thang vận động khác nhau về
t duy loài ngời è buôn bán quốc tế.
1. Theo chủ nghĩa trọng thơng :
Xuất phát từ chủ nghĩa trọng thơng. T tởng cơ bản của chủ nghĩa trọng th-
ơng thể hiện ở quan điểm cho rằng : Mỗi nớc muốn đạt đợc sự thịnh vợng phải gia
tăng khối lợng tiền tệ. Chính là các chính phủ chứ không phải cá nhân (những ngời
không đáng tin cậy) nên tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nớc để tăng
số của cải của mỗi nớc. Của cải của mỗi nớc đợc quan niệm là số kim loại tích luỹ
đợc, đặc biệt là vàng. Lợi nhuận buôn bán, theo chủ nghĩa trọng thơng là kết quả
của sự trao đổi không ngang giá và lờng gạt giữa các quốc gia. Thơng mại quốc tế
chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia dân tộc này làm giàu bằng
cách hy sinh lợi ích của dân tộc kia.
Nhận thức của chủ nghĩa trọng thơng chứa đựng hai sai lầm cơ bản : Thứ
nhất, quan niệm không đúng cho rằng chỉ có vàng (hoặc các kim loại quý) mới có
giá trị thực sự trong khi trên thực tế chúng không thể sử dụng đợc cho cả sản xuất
lẫn tiêu dùng. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thơng bỏ qua khái niệm hiệu quả sản xuất
đạt đợc nhờ chuyên môn hoá.
3
Chủ nghĩa trọng thơng mới khắc phục một phần sai lầm thông qua việc xem
xét cán cân thơng mại tổng thể có lợi hay bất lợi đối với tất cả các loại hàng hoá,
nghĩa là các quốc gia phải cố gắng đạt đợc thặng d trong cán cân thơng mại để
toàn bộ quy mô hoạt động xuất khẩu vợt qua quy mô hoạt động nhập khẩu. Nhìn
chung, lý thuyết trọng thơng đã sớm đánh giá đợc tầm quan trọng của thơng mại
quốc tế. Nó khác với trào lu t tởng kinh tế phong kiến thời bấy giờ đề cao kinh tế
tự cấp tự túc. Vai trò của nhà nớc với t cách là chủ thể điều chỉnh quan hệ buôn
bán của một nớc với nớc khác đã đợc coi trọng. Tuy vậy, lý luận về thơng mại
quốc tế này còn đôn giản, ít tính chất lý luận, thờng lập luận mang tính kinh
nghiệm, cha cho phép giải thích bản chất của thơng mại quốc tế.
2. Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối
Bớc sang giai đoạn mới đầu thế kỷ XVIII, năm 1776 trong tác phẩm Sự giàu
có của các dân tộc Adam Smith đã rũ bỏ quan niệm coi rằng vàng đồng nghĩa với
của cải và quan niệm các nớc thu đợc lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các
loại hàng hoá có thể sản xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này
là ở chỗ các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nớc hoặc từng bạn
hàng buôn bán nên sản xuất mặt hàng gì.
Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nớc chỉ sản xuất các loại hàng hoá
cho phép sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội
ngũ lao động có tay nghề và đợc đào tạo thích hợp, nguồn vốn, toàn bộ công nghệ
hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh. Lý thuyết này giải thích rằng tiến hành
thơng mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ có lợi. Nếu một quốc gia có lợi
và quốc gia khác bị thiệt hại từ thơng mại thì họ từ chối ngay. Ngoại thơng tự do
sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới đợc sử dụng một
cách hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giới nói chung sẽ đợc tạo ra ở mức tối đa.
Tuy nhiên, ở đây có một số trờng hợp đặc biệt phải loại trừ nh khi bảo vệ một
ngành công nghiệp non trẻ.
3. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tơng đối).
Quy luật về lợi thế so sánh (lợi thế tơng đối) là một trong những ý tởng vĩ đại
của kinh tế học cổ điển Anh do David Ricardo đề xớng. Theo quy luật lợi thế so
4
sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản
xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thơng mại
quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thơng
mại quốc tế thì nó có thể thu đợc lợi ích không nhỏ. Khi tham gia thơng mại quốc
tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên
môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi
nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tơng đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà
việc sản xuất chúng bất lợi nhất (đó là hàng hoá không có lợi thế tơng đối). Mô
hình giản đơn của David Ricardo dựa trên 5 giả thiết :
- Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng. Mỗi quốc gia có
lợi thế về một mặt hàng.
- Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nớc, nhng
không di chuyển giữa các nớc.
- Công nghệ sản xuất ở hai nớc là cố định.
- Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải.
- Thơng mại hoàn toàn tự do giữa hai nớc.
Ví dụ : Lợi thế so sánh
Việt Nam Singapore
Thép (kg/1 giờ công) 1 6
Vải (m/1 giờ công) 2 4
Nh vậy, Singapore có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả 2 loại hàng hoá.
Nhng khi năng suất lao động ở nghành thép của Singapore gấp 6 lần của Việt Nam
tnì năng suất lao động ở ngành dệt của Singapore chỉ gấp 2 lần. Nh vậy giữa thép
và vải thì Việt Nam có lợi thế tơng đối trong sản xuất vải còn Singapore có lợi thế
tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhng chỉ có lợi thế
tơng đối trong sản xuất thép.
Theo quy luật lợi thế tơng đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Singapore
chuyên môn sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến
hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau.
5
II. chính sách thơng mại quốc tế.
1. Khái niệm :
Chính sách thơng mại quốc tế là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và
biện pháp thích hợp mà nhà nớc áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thơng mại
quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt đợc các mục tiêu
đã định trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Mặc dù thơng mại quốc tế nói chung đa lại những lợi ích to lớn với nhiều lý
do khác nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có chính sách thơng mại quốc tế
riêng thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nớc đó trong việc can thiệp và điều chỉnh
các hoạt động thơng mại quốc tế của quốc gia. Do sự phát triển không đồng đều
giữa các quốc gia nên khả năng và điều kiện tham gia vào thơng mại quốc tế của
mỗi nớc là không giống nhau, trong khi đó yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội có những đặc điểm riêng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía chính sách th-
ơng mại quốc tế.
Nhiệm vụ của chính sách thơng mại quốc tế của mỗi quốc gia có thể thay đổi
qua mỗi thời kỳ nhng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động thơng
mại quốc tế theo chiều hớng có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nớc,
thể hiện qua hai mặt sau :
Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nớc mở rộng thị
trờng ra nớc ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu
dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nớc.
Hai là, bảo vệ thị trờng nội địa, tạo điều kiệncho các doanh ngiệp trong nớc
và khả năng đứng vững và vơn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng
cho yêu cầu lợi ích quốc gia.
Để đáp ứng các nhiệm vụ nêu trên này, chính sách thơng mại quốc tế của
một quốc gia bao gồm nhiều bộ phận khác nhau và có liên quan hữu cơ với nhau,
đó là :
- Chính sách mặt hàng : bao gồm danh mục các mặt hàng đợc chú trọng
trong việc xuất nhập khẩu, sao cho phù hợp với trình độ phát triển và đặc điểm của
nền kinh tế đất nớc cũng nh các mặt hàng còn hạn chế hoặc phải cấm xuất nhập
6
khẩu, trong một thời gian nhất định, do những đòi hỏi khách quan của chiến lợc
phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu của việc bảo đảm an ninh, an toàn xã hội.
- Chính sách thị trờng : bao gồm định hớng và các biện pháp mở rộng thị tr-
ờng, xây dựng thị trờng mới, xây dựng thị trờng trọng điểm, các biện pháp có đi có
lại giữa các quốc gia mang tính chất song phơng, việc tham gia vào các hiệp định
thơng mại và thuế quan trong phạm vi khu vực hay toàn cầu nhằm tạo điều kiện
cho hoạt động thơng mại quốc tế phát triển phục vụ cho mục tiêu của chiến lợc
phát triển kinh tế xã hội.
- Chính sách hỗ trợ : bao gồm các chính sách và biện pháp kinh tế nhằm tác
động một cách gián tiếp đến hoạt động thơng mại quốc tế nh :
+ Chính sách đầu t.
+ Chính sách tín dụng.
+ Chính sách giá cả.
+ Tỷ giá hối đoái.
+ Chính sách đòn bẩy kinh tế.
Các chính sách này có thể gây tác động thúc đẩy hay điều chỉnh sự phát triển
của hoạt động thơng mại quốc tế.
2. Công cụ của chính sách thơng mại quốc tế.
Để thực hiện chính sách thơng mại quốc tế của mỗi quốc gia ngời ta có thể sử
dụng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau. Chúng có thể đợc phân chia theo
nhiều tiêu thức :
- Theo tính chất có thể chia thành :
+ Các công cụ và biện pháp mang tính chất kinh tế.
+ Các công cụ và biện pháp mang tính chất hành chính.
+ Các công cụ và biện pháp mang tính chất kỹ thuật.
- Theo mục đích có thể chia thành :
+ Các công cụ và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu.
7
+ Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu.
- Theo cách phân loại thông thờng :
+ Công cụ thuế quan.
+ Công cụ phi thuế quan.
Những công cụ thờng sử dụng là :
- Công cụ thuế quan : Bao gồm các biểu thuế xuất khẩu và biểu thuế nhập khẩu.
- Công cụ hành chính : Bao gồm qui định về hạn ngạch (hạn chế số lợng)
xuất và nhập khẩu, qui định về giấy phép ,biện pháp hạn chế xuất khẩu tự
nguyện.
- Các đòn bẩy kinh tế : Bao gồm các biện pháp về hỗ trợ đầu t biện pháp tín
dụng u đãi , biện pháp trợ giá , ký quĩ nhập khẩu , quản lý ngoại hối và tỷ giá hối
đoái.
- Các biện pháp kỹ thuật : Bao gồm các qui định về tiêu chuẩn kỹ thuật , tiêu
chuẩn chất lợng , qui định về bao bì , qui định về mẫu mã , các tiêu chuẩn vệ sinh
, bảo vệ môi trờng sinh thái.
Các công cụ của chính sách thơng mại quốc tế tuy khác nhau nhng sự hoạt
động của chúng đều có thể gây tác động đến biến động của giá cả quốc tế đối với
ngời tiêu dùng và ngời san xuất, hoặc đa đến sự điều chỉnh cung và cầu trên thị
trờng về một loại hàng hoá nhất định.
Phơng thức và phạm vi tác đọng của các công cụ chính sách thơng mại là rất
khác nhau , cho nên phải tính toán một cách tỉ mỉ khi thiết kế chúng và đa vào
vận dụng trong thực tế.
8