Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

(Luận văn thạc sĩ) An toàn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.59 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ NGỌC HẢI

AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ NGỌC HẢI

AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ THÚY NGA

HÀ NỘI, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan, luận văn với đề tài “An toàn lao động theo pháp luật
lao động Việt Nam từ thực tiễn Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của riêng tôi. Các số liệu là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
những kết quả nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu khoa học nào khác trước đây.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2019
Tác giả

Đỗ Ngọc Hải


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ
PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO
ĐÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................ 6
1.1. Khái quát chung về an toàn lao động ................................................. 6
1.2. Pháp luật an toàn lao động ở Việt Nam hiện nay .............................. 8
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO
ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH .. 36
2.1. Giới thiệu chung tỉnh Quảng Ninh và các đặc điểm ảnh hưởng
đến triển khai và thực hiện pháp luật an toàn lao động .......................... 36
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật ATLĐ tại tỉnh Quảng Ninh .............. 38
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG TỪ
THỰC TIỄN CỦA TỈNH QUẢNG NINH .................................................. 55
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật ATLĐ .......... 55
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật an toàn
lao động và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật toàn lao động từ
thực tiễn Quảng Ninh .............................................................................. 59

KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO ...................................................... 68


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

AT,VSLĐ

: An toàn vệ sinh lao động

AT,VSV

: An toàn vệ sinh viên

BHLĐ

: Bảo hộ lao động

CNH, HĐH

: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CSPL

: Chính sách pháp luật

DN


: Doanh nghiệp

ILO

: Tổ chức lao động quốc tế

KHKT

: Khoa học kĩ thuật

LĐTB&XH

: Lao động thương binh và xã hội

PCCC

: Phòng cháy chữa cháy

PCCN

: Phòng chống cháy nổ

SXKD

: Sản xuất kinh doanh

TNLĐ

: Tai nạn lao động


TTLĐ

: Thanh tra lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thống kê TNLĐ của Việt Nam từ năm 2014-2018 ....................... 29
Bảng 1.2. Bộ máy thực hiện công tác AT,VSLĐ ở một số địa phương ......... 33
Bảng 2.1.Một số hoạt động tuyên truyền ATLĐ của Quảng Ninh từ
2016-2018 ........................................................................................... 43
Bảng 2.2. Số liệu công tác huấn luyện ATLĐ của Quảng Ninh từ 20162018 ..................................................................................................... 45
Bảng 2.3. Số liệu tai nạn lao động trên địa bànQuảng Ninh từ 2014-2018 .... 48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để góp phần hạn chế và ngăn ngừa nguy cơ gây tai nạn lao động, Việt
Nam đã ban hành các Nghị quyết, Luật, Văn bản luật, Thông tư liên tịch, Thông
tư, Tiêu chuẩn, Quy chuẩn về ATLĐ từ năm 1964, các quy định này nằm trong
hệ thống pháp luật lao động và là một chương trong Bộ Luật lao động. Đến
ngày 25 tháng 6 năm 2015, Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật an toàn vệ sinh lao động số 84/2015/QH13, luật này có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. Mặc dù vậy vẫn còn nhiều doanh nghiệp,
người lao động chưa nhận thức được rõ vai trò của việc đảm bảo an toàn cho
người lao động, những yêu cầu của pháp luật về an toàn lao động; bên cạnh đó
hệ thống pháp luật của Việt Nam về công tác ATLĐ tuy đã được chỉnh sửa bổ
sung nhiều lần nhưng vẫn chưa hoàn thiện, mức độ điều chỉnh hành vi thấp;
công tác quản lý của Nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo nên chưa phát huy
được hết hiệu quả trong ngăn ngừa nguy cơ tai nạn lao động.

Quảng Ninh là tỉnh có nhiều ngành kinh tế quan trọng như sản xuất than,
điện, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, cảng biển, cửa khẩu, du lịch, dịch
vụ; trong đó số công nhân làm việc trong các ngành nghề nặng nhọc độc hại
có nguy cơ gây ra TNLĐ cao, chiếm tỷ lệ lớn khoảng 180.000 người. Năm
2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra 562 vụ TNLĐ làm 567 người bị nạn, trong đó: số
vụ TNLĐ chết người là 17 vụ, số người chết là 17 người; số người bị thương là
557 ngườiảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh [13, tr.20].
Trong thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động tại Quảng Ninh,
nhiều vấn đề phát sinh chưa được pháp luật an toàn lao động điều chỉnh do đó
tôi lựa chọn đề tài “An toàn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ
thực tiễn Quảng Ninh” để nghiên cứu đề xuất giải quyết vấn đề này.
1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Các đề tài nghiên cứu về công tác ATLĐ chủ yếu trong lĩnh vực quản
lý, lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhằm xây dựng các mô hình quản lý và các tiêu
chuẩn, quy chuẩn quốc gia về ATLĐ. Từ năm 1990 đến năm 2012 một số tác
giả như Nguyễn An Lương, Phùng Huy Dật đã có những nghiên cứu tạo nền
tảng cho việc pháp triển các quy định của phápluật ATLĐ như: "Những vấn
đề cơ bản, những quy định chủ yếu của pháp luật, thực trạng và giải pháp về
Bảo hộ lao động ở nước ta"; "Vấn đề xây dựng luật lệ, chế độ chính sách về
BHLĐ ở Việt Nam" đây là những công trình nghiên cứu mà kết quả được
dùng làm cơ sở để xây dựng những quy định pháp luật về an toàn lao động
(Bảo hộ lao động) ở nước ta. Các nghiên cứu này đưa ra sự cần thiết phải xây
dựng luật lệ, chế độ chính sách về BHLĐ ở Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu
cầu của Tổ chức lao động quốc tế ILO tại Công ước số 155 năm 1981 về an
toàn lao động, vệ sinh lao động và môi trường làm việc mà Việt Nam đã phê
chuẩn, gia nhập ngày 3/10/1994 tại Hà Nội. Các nghiên cứu đã góp phần cho

ra đời những quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động với 14 điều (từ
điều 95 đến điều 108) trong chương IX, Bộ luật Lao động năm 1994. Quy
định các nguyên tắc về an toàn lao động này được sửa đổi bổ sung và hoàn
thiện theo Bộ luật lao động năm 2012.
- Từ năm 2012, để đáp ứng nhu cầu phát triển, Bộ lao động Thương binh
& Xã hội đã chủ trì cùng một số tác giả nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật
AT,VSLĐ của nước ta trong đó có nghiên cứu của Nguyễn An Lương về
"Những vấn đề quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước về AT,VSLĐ và
các yêu cầu mới ở trong nước và quốc tế cần được quan tâm nghiên cứu khi
xây dựng dự thảo Luật AT,VSLĐ của nước ta"; tài Liệu Hội thảo quốc gia
"Những nội dung cần nghiên cứu để đưa vào dự thảo luật AT,VSLĐ" của Hội
AT,VSLĐ Việt Nam, năm 2012. Các nghiên cứu đã chỉ ra 06 bất cập trong
2


qui định về AT, VSLĐ (quy định phân tán, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu
phát triển, đối tượng điều chỉnh chưa đầy đủ, chưa thu hút và huy động hiệu
quả các nguồn lực xã hội cho công tác ATLĐ, chính sách bảo hiểm tai nạn lao
động chưa được đề cập) và đưa ra các giải pháp về tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật (tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa
học về AT,VSLĐ; kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ làm công tác
AT,VSLĐ phù hợp; chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh trong công tác ATLĐ; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm về ATLĐ). Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh sự cần thiết phải có
luật chuyên ngành về ATLĐ nói chung và AT,VSLĐ nói riêng. Kết quả
nghiên cứu đã góp phần để Quốc hội Nước Việt Nam thông qua Luật
AT,VSLĐ vào ngày 25 tháng 06 năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016;
đây là Luật nằm trong hệ thống pháp luật lao động nói chung và có hiệu lực
song hành với các quy định về AT,VSLĐ trong chương IX của Bộ Luật lao
động 2012.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu một số vấn đề chung về an toàn
lao động và pháp luật về an toàn lao động trong pháp luật lao động nói chung
và luật AT,VSLĐ nói riêng; đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam,
thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động tại Quảng Ninh, từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động, nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật từ kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nên trên, Luận văn
thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, hệ thống hóa các nội dung cơ bản về pháp luật an toàn lao động
ở Việt Nam hiện nay;

3


Hai là, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện luật an toàn lao động ở
Quảng Ninh, chỉ ra những thành tựu và bất cập, nguyên nhân của những bất
cập, tồn tại đó;
Ba là, đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật an toàn lao động;
Bốn là, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an
toàn lao động từ kinh nghiệm của Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật
hiện hành về an toàn lao động Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực hiện tại
Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Các số liệu về an toàn lao động trong phạm vi tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018. Do hạn chế về điều kiện nghiên cứu, luận
văn không nghiên cứu các nội dung về thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết
tranh chấp về an toàn lao động.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận đề nghiên cứu dựa trên cơ sở các quan điểm duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật AT,VSLĐ.
- Phương pháp cụ thể: phương pháp lịch sử được áp dụng trong việc
đánh giá quá trình hình thành và phát triển của pháp luật an toàn lao động;
phương pháp phân tích được áp dụng để phân tích một số tình huống cụ thể
phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật an toàn lao động; phương pháp
tổng hợp, so sánh dùng trong việc tổng hợp, so sánh các số liệu thống kê về
tai nạn lao động và các hoạt động trong công tác đảm bảo an toàn lao động để
làm rõ từng mặt, từng lĩnh vực của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài góp phần hệ thống lại toàn bộ những quy định về An toàn lao
động theo pháp luật lao động Việt Nam, có phân tích đánh giá điểm mới của
4


từng giai đoạn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra những bất cập tồn tại hiện nay mà
pháp luật an toàn lao động chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa sát thực tế
dễ gây phát sinh tranh chấp trong quan hệ lao động; qua đó đề xuất một số
giải pháp khắc phục vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, kết cấu luận văn sẽ gồm các chương sau:
Chương 1: Khái quát chung về an toàn lao động và pháp luật an toàn lao
động ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động tại tỉnh
Quảng Ninh.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật an toàn lao động từ thực tiễn của tỉnh
Quảng Ninh.


5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
VÀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO
ĐÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái quát chung về an toàn lao động
1.1.1. Khái niệm an toàn lao động
Từ năm 1995, khi Bộ Luật lao động có hiệu lực, tên gọi "An toàn, vệ
sinh lao động” chính thức được sử dụng làm tiêu đề của Chương IX trong Bộ
luật Lao động; hai thuật ngữ Bảo hộ lao động và An toàn vệ sinh lao động đều
phổ biến trong trong văn bản pháp luật với ý nghĩa tương đồng, chưa có các
khái niệm độc lập về ATLĐ. Ngày 25 tháng 6 năm 2015, Luật An toàn vệ
sinh lao động số 84/2015/QH13 được Quốc hội nước Việt Nam thông qua
ngày và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, tại điều 3, Luật an toàn vệ
sinh lao động lần đầu tiên đề cập đến khái niệm an toàn lao động riêng biệt
"An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy
hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong
quá trình lao động".
Bên cạnh khái niệm về an toàn lao động còn có một số khái niệm liên
quan có tác dụng làm rõ hoặc chỉ ra các nguyên nhân, nguy cơ gây ra tai nạn
lao động, như:
- Yếu tố nguy hiểm là yếu tố gây mất an toàn, làm tổn thương hoặc gây tử
vong cho con người trong quá trình lao động.
- Sự cố kỹ thuật gây mất an toàn lao động là hư hỏng của máy, thiết bị,
vật tư, chất vượt quá giới hạn an toàn kỹ thuật cho phép, xảy ra trong quá
trình lao động và gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho con người,
tài sản và môi trường.


6


- Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức
năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá
trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Từ khái niệm về an toàn lao động, khái niệm tai nạn lao động, điều kiện
hưởng chế độ tai nạn lao động "Kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh
hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật lao động và
nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn
giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú,
đi vệ sinh; trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc
về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý"[19,tr.31] cho thấy
khái niệm về an toàn lao động chưa thể hiện rõ các nội dung tương ứng với
điều kiện chi trả chế độ tai nạn lao động. Do đó, theo tác giả nên bổ sung để
đảm bảo tính thống nhất trong pháp luật an toàn lao động với khái niệm như
sau"An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy
hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong
quá trình lao động và quá trình thực hiện các công việc liên quan trực tiếp
đến nhiệm vụ được giao".
1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động [16, tr.11]
- Mang tính pháp luật: Tất cả những chế độ, chính sách, quy phạm, tiêu
chuẩn của Nhà nước về an toàn lao động đã ban hành đều mang tính pháp
luật. Pháp luật an toàn lao động được ban hành nhằm bảo vệ người lao động
trong sản xuất, nó là cơ sở pháp lý bắt buộc các tập thể cá nhân có tham gia
vào hoạt động lao động phải có tránh nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện.
- Tính khoa học - kỹ thuật: Mọi hoạt động trong công tác an toàn lao
động từ điều tra, khảo sát điều kiện lao động, phân tích đánh giá các yếu tố
nguy hiểm, độc hại và ảnh hưởng của chúng đến an toàn lao động cho đến
việc đề xuất và thực hiện các giải pháp phòng ngừa, xử lý khắc phục đều phải

7


vận dụng các kiến thức lý thuyết và thực tiễn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ
thuật chuyên ngành hoặc tổng hợp nhiều chuyên ngành, nhiều lĩnh vực như
thông gió, chiếu sáng, cơ khí, tâm sinh lý học lao động...
- Mang tính xã hội rộng rãi: An toàn lao động liên quan đến tất cả mọi
người tham gia sản xuất. Người lao động chính là người vận hành, sử dụng
các dụng cụ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu nên họ có thể phát hiện được
những thiếu sót trong công tác an toàn lao động, đóng góp xây dựng các biện
pháp ngăn ngừa, đóng góp xây dựng hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy phạm an
toàn lao động.
1.2. Pháp luật an toàn lao động ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Khái niệm pháp luật an toàn lao động
Pháp luật về an toàn lao động là toàn bộ các quy phạm pháp luật để điều
chỉnh các mối quan hệ, xác định trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của các cấp
chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, người sử dụng lao động, người lao
động, các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ quan, đơn vị, người quản lý trong
lĩnh vực an toàn lao động [16,tr.8]. Tác giả có thể khẳng định đây là khái
niệm đầy đủ và bao trùm nhất về phát luật an toàn lao động.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật an toàn lao động
- Pháp luật về an toàn lao động có tính chất quyền uy và phục tùng, được
quy định theo các bước rất chặt chẽ, đòi hỏi phải thực thi nghiêm chỉnh, vì
nếu không tuân thủ hoặc tuân thủ không đến nơi, đến chốn sẽ dẫn đến nguy
cơ tai nạn lao động. Nội dung quy phạm an toàn lao động không có sự thỏa
thuận hay bình quyền mà chỉ có thuộc tính “bắt buộc” hay nghĩa vụ, trách
nhiệm thực hiện. Bởi các quy định này liên quan trực tiếp đến sức khỏe, thể
lực và sinh mạng con người, liên quan nhiều đến trình tự và thủ tục phức tạp
buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt, trong quá trình áp dụng nếu không hậu quả
sẽ khó lường.

8


- Pháp luật về ATLĐ chịu sự tác động rất lớn của các văn bản pháp luật
của nhiều cơ quan và lĩnh vực khác nhau; vì ở nơi nào có sản xuất, kinh
doanh, có lao động thì ở đó có nguy cơ mất ATLĐ cho nên các cơ quan có
thẩm quyền phải có các quy định riêng nhằm bảo đảm an toàn lao động cho
lĩnh vực đó. Cũng do tính đặc thù của ATLĐ mà phạm vi điều chỉnh rất rộng,
phủ kín toàn bộ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả trong các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài có sử dụng người lao động; các
trang trại, trong nông nghiệp, trong các cơ quan hành chính… miễn là ở đó có
hoạt động lao động, làm việc. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về an toàn
cũng vì thế rất phong phú bao gồm mọi người lao động có giao kết hay không
có giao kết hợp đồng lao động đang làm việc trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Vì vậy pháp luật về an toàn lao động có tác động sâu, rộng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi, mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ quan, tổ
chức, hiệp hội, mọi cá nhân có liên quan đều phải thực hiện. Pháp luật về an
toàn lao động vì thế có vị thế quan trọng trong các chính sách của Nhà nước.
- Các quy định về ATLĐ có tính phòng ngừa cao, bởi nếu vi phạm các
quy định ấy sẽ dẫn đến mất người, mất của, sự thiệt hại cả vật chất và tinh
thần là vô cùng lớn, do vậy các quy định về ATLĐ phải chặt chẽ và phải được
đảm bảo thực hiện, không để xảy ra mất an toàn. Trong pháp luật về ATLĐ
thì tính phòng ngừa có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì sự phòng ngừa càng tốt
bao nhiêu, càng chuẩn bị kỹ bao nhiêu thì hiệu quả của ATLĐ càng tốt bấy
nhiêu. Nguợc lại nếu các biện pháp phòng ngừa không được chuẩn bị kỹ
luỡng sẽ gây mất ATLĐ, dẫn đến mất nguời, mất của và sự trả giá là không
tính đuợc. Do tính phòng ngừa là một trong những đặc điểm riêng có của
pháp luật về ATLĐ, nên các quy định về an toàn lao động phải tính đến các
điều kiện, yếu tố ảnh hưởng, tác động đến điều kiện lao động mà trước khi


9


hoạt động, những đối tượng liên quan có trách nhiệm phải chuẩn bị và có kế
hoạch chu đáo.
- Pháp luật về ATLĐ có tính quần chúng. Chỉ khi mọi người lao động và
người sử dụng lao động nhận thức rõ tầm quan trọng của ATLĐ và tự giác
thực hiện thì mới đạt hiệu quả. Bởi nguời lao động là những người trực tiếp
thực hiện quy phạm, quy chuẩn kỹ thuật và các biện pháp kỹ thuật an toàn, tự
mình gánh chịu hậu quả nếu vi phạm và cũng thường là người đầu tiên phát
hiện sự cố, sai sót để đề xuất cách thức cải tiến kỹ thuật, biện pháp an toàn; do
vậy chỉ khi chính họ tự giác thực hiện thì yếu tố phòng ngừa mới hiệu quả.
- Các quy định về an toàn lao động mang tính chất khoa học kĩ thuật rõ
nét: Các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ các yếu tố nguy hiểm, tác động đến
thân thể người lao động trong quá trình làm việc đều dựa trên những cơ sở
khoa học- tự nhiên; bao gồm các hoạt động điều tra, kiểm soát điều kiện lao
động; phân tích, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nguy hiểm đối với người
lao động; giải quyết xử lý điều kiện, môi trường lao động; ban hành các tiêu
chuẩn kĩ thuật an toàn lao động đối với từng ngành nghề, lĩnh vực; cải tiến
trang thiết bị kĩ thuật, công nghệ sản xuất...Các quy định về tiêu chuẩn kĩ
thuật đối với môi trường làm việc, điều kiện làm việc, máy móc thiết bị... là
những quy định thể hiện kết quả cuối cùng của việc nghiên cứu các yếu tố
khoa học- kĩ thuật, sinh học trong môi trường làm việc và sự ảnh hưởng của
nó đến sức khỏe, tính mạng của người lao động trong môi trường tương ứng.
1.2.3. Mục đích, ý nghĩa của pháp luật an toàn lao động
- Mục đích của pháp luật an toàn lao động: Pháp luật an toàn lao động
được xây dựng để mọi người quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh nhằm giảm
thiểu tai nạn lao động trong sản xuất, kinh doanh.
- Ý nghĩa của của pháp luật an toàn lao động:


10


+ Ý nghĩa chính trị- pháp lý: Pháp luật về ATLĐ thể hiện chủ trương,
quan điểm và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với nguồn nhân lực của
Quốc gia nói riêng đối với con người nói chung; coi con người vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Một đất nước có tỷ lệ tai nạn lao động
thấp, người lao động khoẻ mạnh là một xã hội luôn luôn coi con người là vốn
quý nhất, sức lao động, lực lượng lao động luôn luôn được bảo vệ và phát
triển. Pháp luật an toàn động được thực hiện tốt sẽ góp phần tích cực chăm lo
bảo vệ tính mạng và đời sống người lao động, biểu hiện quan điểm quần
chúng, quan điểm quý trọng con người của Đảng và Nhà nước, vai trò của con
người trong xã hội được tôn trọng. Ngược lại, nếu công tác này không được
thực hiện tốt, điều kiện lao động của người lao động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dễ
xảy ra tai nạn lao động nghiêm trọng thì uy tín của chế độ, uy tín của doanh
nghiệp sẽ bị giảm sút.
+ Ý nghĩa xã hội: An toàn lao động là chăm lo đến đời sống, hạnh phúc
của người lao động. Đây vừa là yêu cầu thiết thực của các hoạt động sản xuất
kinh doanh; đồng thời là yêu cầu, là nguyện vọng chính đáng của người lao
động. Pháp luật an toàn lao động cùng với chính sách lao động sẽ đảm bảo
cho xã hội trong sáng, lành mạnh, mọi người lao động được sống khoẻ mạnh,
làm việc có hiệu quả cao và có vị trí xứng đáng trong xã hội, làm chủ xã hội,
làm chủ thiên nhiên, làm chủ khoa học kỹ thuật. Tai nạn lao động không xảy
ra, sức khoẻ, tính mạng của người lao động được đảm bảo thì Nhà nước và xã
hội sẽ giảm bớt được những tổn thất trong việc khắc phục hậu quả và tập
trung đầu tư cho các công trình phúc lợi xã hội.
+ Ý nghĩa kinh tế: Thực hiện tốt pháp luật về ATLĐ sẽ đem lại lợi ích
kinh tế rõ rệt. Trong sản xuất, nếu người lao động được bảo vệ tốt, điều kiện
làm việc đảm bảo, không có nguy cơ bị tai nạn lao động thì sẽ an tâm, phấn
khởi sản xuất, sẽ có ngày công, giờ công cao, năng suất lao động cao, chất

11


lượng sản phẩm tốt, luôn luôn hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất và công tác
góp phần để đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân người lao động và tập
thể lao động được cải thiện.
1.2.4. Các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam về an toàn lao động
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật an toàn lao động là những tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật an
toàn lao động.
Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý về an toàn lao động: Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường hiện nay ATLĐ đang đặt ra nhiều vấn đề ngày
càng bức xúc, đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất của Nhà nước - Tổ chức
có đủ quyền năng và sức mạnh cưỡng chế với bộ máy từ Trung ương đến cơ
sở đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động quản lý an toàn lao
động. Quản lý Nhà nước về ATLĐ là một tiền đề pháp lý nhằm thiết lập điều
kiện vật chất cho việc thực thi pháp luật an toàn lao động trong thực tế.
Thứ hai, Đảm bảo an toàn lao động cho mọi đối tượng tham gia lao
động. Khi tiến hành hoạt động sản xuất, người lao động vừa tác động tới môi
trường xung quanh vừa chịu các tác động ngược trở lại của môi trường nơi họ
lao động. Để chạy theo lợi nhuận, người sử dụng lao động có thể giảm thiểu
mọi chi phí, bao gồm cả chi phí đảm bảo điều kiện an toàn cho người lao
động. Nếu không giải quyết thỏa đáng vấn đề an toàn lao động thì nền kinh tế
không đảm bảo sự phát triển bền vững. Điều kiện lao động không an toàn
không chỉ ảnh hưởng tới người lao động trực tiếp mà còn có tác động xấu tới
thế hệ tương lai. Vì vậy, đảm bảo an toàn là đảm bảo sức khỏe, tính mạng
người lao động, duy trì nền sản xuất ổn định và tạo tiền đề góp phần cho sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Thứ ba, thực hiện an toàn lao động là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên
trong quan hệ lao động: Để các quy định của pháp luật về ATLĐ được thực

12


hiện có hiệu quả, các chủ thể tham gia quan hệ lao động bắt buộc phải tuân
thủ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo những quy định mà pháp luật
đã ban hành. Các quy định về ATLĐ không chỉ có ý nghĩa bắt buộc đối với
người sử dụng lao động, người lao động mà còn đặt ra đối với “mọi tổ chức
và cá nhân có liên quan”. Nguyên tắc này được quán triệt xuyên suốt trong
quá trình xác lập quan hệ lao động cũng như quá trình thực hiện quy trình lao
động, sản xuất. Thực hiện tốt nguyên tắc này trên thực tế sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hạn chế đến mức thấp nhất các tai nạn
lao độngcó thể xảy ra.
Thứ tư, đảm bảo sự tham gia, giám sát của của tổ chức Công Đoàn; Mặt
Trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị trong lĩnh vưc an toàn lao động: Tại
điều 9, điều 10 Luật an toàn vệ sinh lao động quy định rõ quyền, trách nhiệm
của công đoàn và công đoàn cơ sở trong công tác an toàn lao động; tại điều 11
quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Mặt Trận tổ quốc và các đoàn thể chính
trị; đây chính là những điểm mới trong các văn bản pháp luật an toàn lao động
qua đó thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với công tác an toàn, đồng thời
nhấn mạnh việc đảm bảo an toàn lao động không chỉ còn bó hẹp trong lĩnh
vực có quan hệ lao động mà còn phải được quan tâm đến trong cả lĩnh vực
không có quan hệ lao động như nông nghiệp.
Thứ năm, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn trong các Công ước
có liên quan đến an toàn lao động mà Việt Nam đã phê chuẩn: Trong tiến
trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn rất nhiều Công
ước quốc tế và khu vực; trong lĩnh vực an toàn lao động, Công ước 155 năm
1981 về an toàn lao động của ILO được coi như một Công ước toàn diện và
đầy đủ nhất về an toàn lao động. Theo Công ước này, các Quốc gia thành viên
phải có hệ thống chính sách về an toàn lao động trong mọi ngành nghề. Việt


13


Nam là nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước này; điều này thể hiện
quan điểm của Việt Nam trong việc đảm bảo an toàn cho người lao động.
1.2.5. Nội dung của pháp luật an toàn lao động
1.2.5.1. Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với
an toàn lao động. Pháp luật an toàn lao động quy định về quyền trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác đảm bảo an toàn lao động
trong đó có những quy định rất rõ ràng, cụ thể: Tạo điều kiện thuận lợi để
người sử dụng lao động, người lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động; đầu tư nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và công nghệ về an toàn lao động; hỗ trợ phòng ngừa tai
nạn lao động các ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động; hỗ trợ
huấn luyện an toàn cho người làm việc không theo hợp đồng lao động làm các
công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; phát triển đối tượng
tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện. Bảo đảm quyền của người lao
động được làm việc trong điều kiện an toàn; tuân thủ đầy đủ các biện pháp an
toàn trong quá trình lao động.
Thứ nhất, quy định quyền và nghĩa vụ về ATLĐ của người lao động
[19,tr.3].
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động được bảo đảm các
điều kiện làm việc công bằng, an toàn lao động; yêu cầu người sử dụng lao
động có trách nhiệm bảo đảm điều kiện làm việc an toàn; được cung cấp
thông tin về an toàn lao động; được thực hiện chế độ bảo hộ lao động; được
người sử dụng lao động đóng bảo hiểm tai nạn lao động; được hưởng đầy đủ
chế độ đối với người bị tai nạn lao động; được trả phí khám giám định thương
tật, bệnh tật do tai nạn lao động; được yêu cầu người sử dụng lao động bố trí
công việc phù hợp sau khi điều trị ổn định do bị tai nạn lao động; được từ
chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc mà vẫn được trả lương và không

14


bị coi là vi phạm kỷ luật lao động khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra tai nạn lao
động; được khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện khi quyền lợi bị vi phạm. Người
lao động làm việc theo hợp đồng lao động có nghĩa vụ chấp hành nội quy, quy
trình và biện pháp bảo đảm an toàn lao động tại nơi làm việc; tuân thủ các
giao kết về an toàn lao động trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập
thể; sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp;
báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ xảy ra sự cố
kỹ thuật gây mất an toàn lao động, tai nạn lao động; chủ động tham gia cấp
cứu, khắc phục sự cố, tai nạn lao động theo phương án xử lý sự cố, ứng cứu
khẩn cấp hoặc khi có lệnh của người sử dụng lao động hoặc cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
- Người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động có quyền được
làm việc trong điều kiện an toàn lao động; được Nhà nước, xã hội và gia đình
tạo điều kiện để làm việc trong môi trường an toàn lao động; được tiếp nhận
thông tin, tuyên truyền, giáo dục về công tác an toàn lao động; được huấn
luyện an toàn lao động khi làm các công việc có yêu cầu nghiêm ngặt; được
tham gia và hưởng bảo hiểm tai nạn lao động theo hình thức tự nguyện; được
khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật. Người lao động
làm việc không theo hợp đồng lao động cũng phải chịu trách nhiệm về an toàn
lao động đối với công việc do mình thực hiện; bảo đảm an toàn lao động đối
với những người có liên quan trong quá trình lao động; thông báo với chính
quyền địa phương để có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi gây mất an
toàn lao động.
- Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân
dân; người học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động; người
lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có quyền và nghĩa vụ về an toàn
lao động như đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động.

15


Thứ hai, quy định quyền và nghĩa vụ về an toàn lao động của người sử
dụng lao động [19,tr.5].
- Người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động phải chấp
hành các nội quy, quy trình, biện pháp bảo đảm an toàn lao động tại nơi làm
việc; khen thưởng người lao động chấp hành tốt và kỷ luật người lao động vi
phạm trong việc thực hiện an toàn lao động; khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện
theo quy định của pháp luật; huy động người lao động tham gia ứng cứu khẩn
cấp, khắc phục sự cố, tai nạn lao động.
+ Người sử dụng lao động có nghĩa vụ xây dựng, tổ chức thực hiện và
chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm an toàn lao
động tại nơi làm việc; đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho người lao động; tổ
chức huấn luyện an toàn lao động cho người lao động; trang bị đầy đủ phương
tiện, công cụ lao động bảo đảm an toàn lao động; thực hiện việc chăm sóc sức
khỏe cho người lao động; thực hiện đầy đủ chế độ đối với người bị tai nạn lao
động; không được buộc người lao động tiếp tục khi có nguy cơ xảy ra tai nạn
lao động; cử người giám sát, kiểm tra việc thực hiện công tác an toàn lao
động; bố trí bộ phận hoặc người làm công tác an toàn lao động; phối hợp với
Ban chấp hành công đoàn cơ sở thành lập mạng lưới an toàn vệ sinh viên;
phân định trách nhiệm và giao quyền hạn về công tác an toàn lao động; thực
hiện việc khai báo, điều tra, thống kê, báo cáo tai nạn lao động; chấp hành
quyết định của thanh tra chuyên ngành về an toàn lao động; lấy ý kiến Ban
chấp hành công đoàn cơ sở khi xây dựng kế hoạch, nội quy, quy trình, biện
pháp bảo đảm an toàn lao động.
Thứ ba, pháp luật quy định rõ quyền và nghĩa vụ của cơ sở sản xuất kinh
doanh về ATLĐ.
(1) Tổ chức bộ phận an toàn lao động:


16


- Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động trong các lĩnh vực, ngành
nghề khai khoáng, sản xuất than cốc, sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế, sản
xuất hóa chất, sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại, sản xuất sản
phẩm từ khoáng phi kim, thi công công trình xây dựng, đóng và sửa chữa tàu
biển, sản xuất, truyền tải và phân phối điện, người sử dụng lao động phải tổ
chức bộ phận an toàn, vệ sinh lao động bảo đảm: dưới 50 người lao động phải
bố trí ít nhất 01 người làm công tác an toàn lao động bán chuyên trách; từ 50
đến dưới 300 người lao động phải bố trí ít nhất 01 người làm công tác an toàn
lao động theo chế độ chuyên trách; từ 300 đến dưới 1.000 người lao động, phải
bố trí ít nhất 02 người làm công tác an toàn lao động theo chế độ chuyên trách;
sử dụng trên 1.000 người lao động phải thành lập phòng an toàn lao động hoặc
bố trí ít nhất 03 người làm công tác an toàn lao động theo chế độ chuyên trách.
Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động trong các lĩnh vực, ngành
nghề khác phải bảo đảm dưới 300 người lao động, bố trí ít nhất 01 người làm
công tác an toàn theo chế độ bán chuyên trách; từ 300 đến dưới 1.000 người lao
động, bố trí ít nhất 01 người làm công tác an toàn lao động theo chế độ chuyên
trách; trên 1.000 người lao động, thành lập phòng an toàn lao động hoặc bố trí
ít nhất 2 người chuyên trách (theo khoản 1,2, Điều 36, Nghị định 39/2016/NĐCP, ngày 15 tháng 5 năm 2016).
- Người làm công tác an toàn lao động theo chế độ chuyên trách phải đáp
ứng một trong các điều kiện sau đây: Có trình độ đại học thuộc các chuyên
ngành khối kỹ thuật và có ít nhất 01 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh của cơ sở; có trình độ cao đẳng thuộc các chuyên ngành
khối kỹ thuật và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh của cơ sở; có trình độ trung cấp thuộc các chuyên ngành khối
kỹ thuật hoặc trực tiếp làm các công việc kỹ thuật và có 05 năm kinh nghiệm
làm việc trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của cơ sở. Người làm công tác an
17



toàn lao động theo chế độ bán chuyên trách phải có trình độ đại học thuộc các
chuyên ngành khối kỹ thuật; có trình độ cao đẳng thuộc các chuyên ngành khối
kỹ thuật, có ít nhất 01 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh của cơ sở; có trình độ trung cấp thuộc các chuyên ngành khối kỹ thuật
hoặc trực tiếp làm các công việc kỹ thuật, có 03 năm kinh nghiệm làm việc
trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của cơ sở (theo khoản 3,4, Điều 36, Nghị
định 39/2016/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm 2016).
- Người làm công tác an toàn lao động hoặc bộ phận an toàn lao động có
nhiệm vụ tham mưu, giúp người sử dụng lao động tổ chức thực hiện công tác
an toàn lao động tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, bao gồm các nội dung xây
dựng nội quy, quy trình, biện pháp bảo đảm an toàn lao động; phòng, chống
cháy, nổ; xây dựng, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch an toàn lao động hàng
năm; đánh giá rủi ro và xây dựng kế hoạch ứng cứu khẩn cấp; quản lý và theo
dõi việc khai báo, kiểm định máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt
về an toàn lao động; tổ chức thực hiện hoạt động thông tin, tuyên truyền, huấn
luyện về an toàn lao động; tổ chức tự kiểm tra về an toàn lao động; điều tra tai
nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn lao động theo quy định của pháp
luật; chủ trì, phối hợp với bộ phận y tế tổ chức giám sát, kiểm soát yếu tố nguy
hiểm; tổng hợp và đề xuất với người sử dụng lao động giải quyết kiến nghị của
đoàn thanh tra, đoàn kiểm tra và người lao động về an toàn lao động; phối hợp
với Ban chấp hành công đoàn cơ sở hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ của an toàn,
vệ sinh viên; tổ chức thi đua, khen thưởng, xử lý kỷ luật, thống kê, báo cáo
công tác an toàn lao động. Người làm công tác an toàn lao động, bộ phận an
toàn lao động có quyền yêu cầu người phụ trách bộ phận sản xuất ra lệnh đình
chỉ công việc hoặc có thể quyết định tạm đình chỉ công việc trong trường hợp
khẩn cấp khi phát hiện các nguy cơ xảy ra tai nạn lao động để thực hiện các
biện pháp bảo đảm an toàn lao động, đồng thời phải báo cáo người sử dụng lao
18



động; đình chỉ hoạt động của máy, thiết bị không bảo đảm an toàn hoặc đã hết
hạn sử dụng; được người sử dụng lao động bố trí thời gian tham dự lớp huấn
luyện, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ về an toàn lao động [19,tr.42].
(2) Tổ chức bộ phận Y Tế lao động:
- Đối với những cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành
nghề chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản, khai khoáng,
sản xuất sản phẩm dệt, may, da, giày, sản xuất than cốc, sản xuất hóa chất, sản
xuất sản phẩm từ cao su và plastic, tái chế phế liệu, vệ sinh môi trường, sản
xuất kim loại, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất vật liệu xây dựng, người sử
dụng lao động phải tổ chức bộ phận y tế tại cơ sở bảo đảm: dưới 300 người lao
động phải có ít nhất 01 người làm công tác y tế có trình độ trung cấp; từ 300
đến dưới 500 người lao động phải có ít nhất 01 bác sĩ/y sĩ và 01 người làm
công tác y tế có trình độ trung cấp; từ 500 đến dưới 1.000 người lao động phải
có ít nhất 01 bác sĩ và mỗi ca làm việc phải có 01 người làm công tác y tế có
trình độ trung cấp; từ 1.000 lao động trở lên phải thành lập cơ sở y tế theo hình
thức tổ chức phù hợp quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề khác
với lĩnh vực, ngành nghề nêu trên thì người sử dụng lao động phải tổ chức bộ
phận y tế tại cơ sở đảm bảo: dưới 500 người lao động ít nhất phải có 01 người
làm công tác y tế trình độ trung cấp; từ 500 đến dưới 1.000 người lao động ít
nhất phải có 01 y sĩ và 01 người làm công tác y tế trình độ trung cấp; trên 1.000
người lao động phải có 01 bác sĩ và 1 người làm công tác y tế khác [7,tr.22].
- Người làm công tác y tế ở cơ sở phải có trình độ chuyên môn y tế bao
gồm: bác sĩ, bác sĩ y tế dự phòng, cử nhân điều dưỡng, y sĩ, điều dưỡng trung
học, hộ sinh viên và có chứng chỉ chứng nhận chuyên môn về y tế lao động.
Người làm công tác y tế, bộ phận y tế có nhiệm vụ tham mưu, giúp người sử

19



×