Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN Ngữ văn 6 RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP DÀN Ý TRONG VĂN MIÊU TẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.24 KB, 20 trang )

Đề tài:
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP DÀN Ý TRONG VĂN MIÊU TẢ
NGỮ VĂN 6
A. MỞ ĐẦU
I. Lí DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chương trình ngữ văn hiện nay đang có nhiều đổi mới, phạm vi kiến thức được nâng
cao. Qua đó giúp các em phát triển năng lực tư duy và ốc sáng tạo. Trong sách Ngữ Văn 6
phân môn tập làm văn cũng có nhiều đổi mới, đặc biệt đổi mới trong phương pháp giảng
dạy. Trong phân môn tập làm văn có phần quan trọng đó là văn miêu tả. Để làm được một
bài văn đúng và hay không phải là một điều đơn giản. Đòi hỏi người viết phải nắm vững
các thao tác, kỹ năng làm văn miêu tả và lập dàn ý cho bài văn miêu tả.
Tôi đến với bài tập lớn này một mặt vừa bổ sung lý luận kiến thức cho bản thân để phục
vụ cho cụng việc giảng dạy vừa là tư liệu tham khảo về thể loại miêu tả và kỹ năng lập
dàn ý trong văn miêu tả cho học sinh.
Hiện nay chương trình Ngữ Văn trung học cơ sở đang đổi mới theo phương pháp tích
hợp. Việc đi sâu nghiên cứu đề tài này cũn giúp chúng ta liên hệ đến các văn bản một
cách tốt hơn, hoàn chỉnh việc tiếp nhận chương trình Ngữ Văn một cách tốt nhất.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
Như chúng ta đó biết thể loại văn miêu tả các em học sinh đó được làm quen ở bậc tiểu
học. ở đó dành một thời gian khá nhiều về văn miêu tả. Lên trung học cơ sở các em tiếp
tục học về văn miêu tả trong phân môn tập làm văn của chương trình Ngữ Văn 6 và Ngữ
Văn 8 với một yêu cầu cao hơn để giúp các em hiểu sâu hơn về văn miêu tả nắm được kỹ
năng khi làm bài văn miêu tả (nắm được kỹ năng khi làm văn miêu tả trong đó có kỹ năng
lập dàn bài và tiến tới giúp các em học sinh làm văn miêu tả đúng và hay. Vì vậy nên
nhiều tác giả sách tham khảo về vấn đề này. Cụ thể:


2
1.1 ''Dàn bài tập làm văn số 6'' tác giả: Nguyễn Trớ - Nguyễn Nghiệp - Lờ Khanh Sằn
và Nguyễn Hữu Kiều (1999-NXBGD)


1.2. '' Tập làm văn trung học cơ sở '' tác giả: Tạ Đức Hiền (1997 -NXBGD)
1.3. ''Nâng cao ngữ văn 6'' tác giả: Tạ Đức Hiền - Nguyễn Kim Thoa - Lờ Thuận An
(2003 - NXB Hà Nội)
1.4. ''Bồi dưỡng văn năng khiếu ngữ văn 6'' tác giả Thỏi Quang Vinh
Có thể núi những tìm tòi trên đó giúp tôi rất nhiều khi nghiên cứu đề tài này. Và qua đó
cũng đủ thấy đây là một vấn đề rất quan trọng để chúng ta hướng tới kỹ năng lập dàn ý
cho văn miêu tả với tư cách như một đề tài.
Nhưng cũng phải núi thêm rằng các tác giả đố cập nhiều đến phương pháp và các thao
tác làm bài văn miêu tả. Nhưng chưa có tác giả nào đi chuyên sâu vào kỹ năng lập dàn ý
trong văn miêu tả. Một kỹ năng quan trọng trong khi làm văn. để làm một bài văn đúng,
đủ, hay chúng ta phải nắm vững một số thao tác và kỹ năng lập dàn ý. Đó là lý do và mục
đích để tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề này.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tôi tập trung đi sâu nghiên cứu hai vấn đề chính
- Thứ nhất: tìm hiểu các thể loại văn miêu tả từ đó đưa ra kỹ năng lập dàn ý
- Thứ hai: Thụng qua các vớ dụ giúp học sinh định hướng nắm bắt cách làm bài văn
miêu tả.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI Nghiên CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của tôi trong đề tài này là kiểu bài
văn miêu tả trong chương trình sách giáo khoa ngữ văn 6. Đặc biệt tập trung nghiên
cứu kỹ năng lập dàn ý trong văn miêu tả.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Chương trình tập làm văn trung học cơ sở (văn 6)
- Sách giáo khoa ngữ văn 6


3
-Sách giáo viên ngữ văn 6
IV. PHƯƠNG PHÁP Nghiên CỨU
Các phương pháp đó sử dụng trong đề tài

1. Phương pháp thống kê - phân loại
2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
3. Phương pháp phân tích - chứng minh
4. Phương pháp diễn dịch - quy nạp
V. TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Vấn đề trong đề tài đưa ra là những vấn đề chưa có đề tài, sáng kiến nào trước đó
nghiên cứu với đối tượng, những cải tiến, những đề xuất mới cho khoa học; những ứng
dụng có hiệu quả; những thành tựu khoa học cụng nghệ mới; luận điểm giáo dục mới của
một giải pháp trong quá trình dạy học.


4
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Là học sinh lớp đầu của bậc trung học cơ sở - các em chưa quen với mụi trường giáo
dục mới. Hơn nữa, trong chương trình mới tuy thời lượng số tiết của bộ môn có giảm,
nhưng yêu cầu chất lượng khá cao. Phương pháp giảng dạy đặc trưng môn phải làm sao
phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo của người học. Do vậy là giáo viên giảng dạy phân
ôn - tôi có vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới phù hợp chung với đối tượng học
sinh mình dạy. Nhất là ở phân môn tập làm văn, khi núi tới kỹ năng “lập dàn ý” học sinh
rất ngại và lúng túng. Cụ thể là các em chưa phân biệt được dàn ý đại cương và dàn ý chi
tiết. Chưa biết chọn lựa hình ảnh tiêu biểu, trọng tâm để nêu bố cục đầy đủ trong dàn bài.
Với thực tế như trên, khi giới thiệu về văn miêu tả, ngoài việc hình thành kỹ năng quan
sát, tưởng tượng, nhận xét và so sánh - giáo viên phải gợi mở cách sắp đặt phù hợp. Giúp
các em nhận ra tầm quan trọng của thúi quen trên. Muốn vậy, yêu cầu học sinh tìm đọc tài
liệu tham khảo, có sổ tay văn học, xem các chương trình ‘âm vang xứ Thanh”, “Đường
lên đỉnh Olympia “ ... Và điều quan trọng đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên kiểm tra
đánh giá để hình thành kỹ năng và thúi quen cho học sinh.
Với những suy nghĩ trên, trong thời gian giảng dạy tôi đó vận dụng phương pháp đổi
mới phù hợp đặc trưng bộ môn và đó thu được kết quả sau:

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua thực tế các kì thi khảo sát chất lượng của phòng và thực trạng chung học sinh lớp
6 hiện nay tôi thấy tỉ lệ thụng thường học sinh đạt điểm TB trở lên trong toàn khối đều
không vượt quá 50%, có lớp chỉ đạt 10 đến 12/27 em đạt điểm TB trở lên. Trên đây là
những con số đáng lo ngại.
- Về khả năng nhận thức yêu cầu của đề: Nhiều học sinh không xác định đúng yêu
cầu của đề bài, thậm chớ không đọc kĩ đề bài, chỉ cần đọc qua loa, không cần lập dàn ý
thường đặt bút viết luôn dẫn đến đề yêu cầu một đằng nhưng nội dung bài viết lại trình
bày một nẻo.


5
- Về việc tuân thủ cách làm bài: Nhiều học sinh không tuân thủ cách làm bài, tỏ ra
không nắm vững cấu trúc mà kiểu bài quy định, một số học sinh thường viết theo cảm
tính và suy nghĩ chủ quan, điều này dẫn đến kết quả thường không cao, cho dự diễn đạt
tốt cũng vậy.
- Tình trạng phổ biến nhất đối với học sinh lớp 6 hiện nay là vấn đề nhận thức rất
đơn giản và sơ lược khi tiến hành làm bài văn tự sự không cần thiết lập dàn ý dẫn đến sắp
xếp ý lộn xộn, lặp ý hoặc thiếu ý, thiếu thời gian và chưa có động cơ thỏi độ đúng đắn
trong học tập.
- Trong bài viết của các em, lỗi chính tả cũn nhiều, lỗi dựng từ và đặt câu cũng rất
phổ biến. Cá biệt có những học sinh không có ý thức về việc chấm cừu và nguyên tắc viết
hoa. Nhiều học sinh chưa biết dựa vào dàn ý để phát triển đoạn văn, bài văn, tình trạng sử
dụng văn núi trong bài viết rất nhiều. Đa số các em theo cảm tính chưa phối hợp các thao
tác làm bài một cách nhuần nhuyễn để bài viết có sức thuyết phục hơn.
Thực trạng này trên có thể coi là rào cản hạn chế chất lượng bộ môn Ngữ văn 6
những năm gần đây, đòi hỏi cấp thiết phải tìm cách khắc phục.
III. CÁC GIẢI PHÁP:
1. Dự kiến và phơn phối thời gian dành cho “Phương pháp rèn luyện kĩ năng lập
dàn ý cho đề văn miêu tả - môn Ngữ văn 6” một cách phù hợp.

Mặc dự trong PPCT, thời gian dành cho phương pháp này không có tiết nào cả
nhưng giáo viên vẫn có thể tận dụng các tiết dạy bỏm sát, các tiết dạy tăng tiết. Trong
chương trình Ngữ văn 6 theo PPCT mới hiện nay có nhiều văn bản là hướng dẫn đọc
thêm hay đọc thêm thỡ đối với những tiết đó giáo viên không dạy hết tiết mà chỉ hướng
dẫn cho học sinh khoảng thời gian 10 phút sau đó dạy tiết luyện tập, ôn tập cho kiến thức
đó học ở bài trước. Vì vậy, giáo viên dự kiến và phần phối thời gian hợp lớ để có tiết
luyện kĩ năng lập dàn ý cho các em trong việc tạo lập văn bản.
Ở tiết dạy cho phép trong PPCT giáo viên củng cố lại kiến thức lý thuyết, giúp học
sinh có thể nhận diện, định hình trong bộ não về khung dàn ý khi làm đề văn tự sự để học
sinh nắm rõ cấu trúc của bài, đồng thời minh họa cho học sinh qua một số vớ dụ. Ở các


6
tiết bỏm sát hoặc tăng tiết, các giờ luyện tập lập dàn ý cho các đề văn (GV cũng tổ đó
thống nhất điều chỉnh lại PPCT theo cụng văn của Sở GD&ĐT Sốc Trăng), giáo viên
hướng dẫn học sinh phương pháp rèn luyện kĩ năng lập dàn ý như hướng dẫn phần lý
thuyết. Qua từng tiết có nhận xét, biểu dương khen ngợi những em tiến bộ nhanh, vận
dụng tốt và giúp đỡ nhiều hơn đối với những em chậm tiến.
Lưu ý: Trong chương trình Ngữ văn 6 cần phải rèn luyện cho học sinh phương pháp
rèn luyện kĩ năng... khác nữa. Vì vậy việc phân phối thời gian dành cho phương pháp này
chỉ mỗi chủ đề hay đề bài 1 đến 2 bài tập thụi, không nên quá lạm dụng gây sự nhàm chỏn
đối với học sinh. Vì học sinh lớp 6 bắt đầu học kì II chương trình phần môn Tập làm văn
là kiểu bài miêu tả đầu tiên, nên giáo viên chỉ hướng dẫn rèn cho học sinh phương pháp
này và cũng là cơ sở, chỗ dựa để các em làm quen với các kiểu bài khác.
2. Giúp học sinh hiểu khái niệm, mục đích, yêu cầu về “Phương pháp rèn luyện kĩ
năng lập dàn ý cho đề văn miêu tả - môn Ngữ văn 6”.
Trước hết phải cho học sinh hiểu được thế nào là lập dàn ý. Có thể hiểu: Dàn ý là
cái sườn mà người viết dựa vào để định hướng về nội dung, tránh được tình trạng xa đề,
lạc đề. Ngoài ra dàn ý cũn là sắp xếp các ý theo trình tự phù hợp và xác định mức độ trình
bày mỗi ý theo tỉ lệ thỏa đáng.

- Giáo viên cần lưu ý tạo điểm nhấn cho học sinh ở chỗ: Phân biệt giữa lập dàn bài
với lập dàn ý. Nó giống như một khung sườn và ta dựa vào khung sườn đó để triển khai
bài văn. Dàn bài gồm ba phần: Mở bài, thơn bài, kết bài. Cũn lập dàn ý là để giải thích và
làm rõ cho đề bài hay chủ đề của một bài viết.
- Khái niệm miêu tả
Miêu tả là dựng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó để làm cho người
khác có thể hình dung hoặc cụ thể sự vật sự việc hay thế giới nội tâm của con người.
( Theo ''Từ điển văn học'' - Hoàng Phờ chủ biên)
- Đặc điểm của văn miêu tả
Bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả nhưng
không phải bất kì sự miêu tả nào cũng trở thành văn miêu tả. khi miêu tả lạnh lựng khách


7
quan nhằm dựng bản thảo không phải là văn miêu tả. khi làm văn miêu tả thì phải tuân
theo những yêu cầu sau:
2.1. Tính thông báo thẩm mỹ chứa đựng tình cảm chứa đựng tình cảm của
người viết.
Bao giờ người miêu tả cũng theo một ý tưởng thẩm mỹ thể hiện một quan niệm thẩm
mỹ và mang đến cho người đọc một cảm giác thẩm mỹ. Khi Tố Hữu miêu tả chú bé
Lượm:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
( Lượm - Tố Hữu - Ngữ Văn 6 )

Qua đó Tố Hữu đã thể hiện quan niệm của mình về cái đẹp của một chú bé: lấy sự hồn
nhiên làm tiền đề cho vẻ đẹp nhí nhảnh, hồn nhiên ngây thơ của tuổi nhỏ.
Cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ nhưng Nguyễn Du quan niệm rằng:
'' Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ''.
Nguyễn Du đã thể hiện quan niệm của phong kiến về cái đẹp của người phụ nữ: lấy
thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người. Còn Tố Hữu đã miêu tả vẻ đẹp của


8
người phụ nữ trong thời đại mới đó là yêu nước, biết hành động vì đất nước, dũng cảm,
kiên cường.
'' O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mĩ lênh khênh đứng cúi đầu
Ra thế to gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu''
Trong cuộc sống có cái đẹp, có cái đáng nhớ. Nhưng bài văn miêu tả phải hướng tới
cái đẹp và làm nên cái đẹp.
Dù tả một cây bàng, một con mèo hay một dòng sông…bao giờ người viết cũng phải
viết vào đó ít nhiều tình cảm hay ý kiến đánh giá bình luận của mìn . Do vậy từng chi tiết
của bài văn miêu tả đều mang ấn tượng của cảm xúc chủ quan.
So sánh hai đoạn văn sau:
'' Ngoài giờ học chúng tôi thơ thẩn bên bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những con bướm
đủ hình dáng, đủ màu sắc. Con xanh biếc pha đen như nhung bay loang loáng. Con vàng
sẫm nhiều hình mặt nguyệt, vên cánh có răng cưa lượn lờ như trôi trong nắng''.
( Vũ Tú Nam)
'' Thân bướm có ba phần: Đầu, ngực, bụng. Phần ngực có bốn cánh sáu chân. bướm
bay được là nhờ hai đôi cánh là hai màng rộng bản, chúng có màng phấn bao phủ nên

không trong như cánh chuồn chuồn.''
Đoạn thứ nhất: Khi miêu tả loài bướm đã bộc lộ cảm xúc gắn bó của tác giả. Đây là
đoạn văn chuẩn mực cho văn miêu tả. đoạn thứ hai chỉ là văn bản khoa học nhằm thông
báo trí tuệ mà thôi.
2.2. Tính sinh động và tạo hình
Đặc điểm này là phẩm chất của một bài văn miêu tả hay. Để tạo nên tính sinh động và
tạo hình đầu tiên các chi tiết miêu tả cần có vài cái mới riêng. Nếu mất đi cái riêng trong
văn miêu tả, bài văn trở nên công thức, sáo rỗng.


9
Miêu tả cây cối có nhà văn thấy chúng như ''những con ngựa đang phi nhanh bờm tung
ngực'' có nhà văn lại thấy chúng như '' những cái lồng chim của thiên nhiên, trong mỗi cái
lồng có những con chim đang nhảy chuyền''. Một yêu cầu của tính tạo hình và tính sinh
động là sự hàm súc là cách tả ít gợi ít. Đoạn văn sau của Nguyễn Tuân kiệm chữ, kiệm lời
nhưng sức gợi trong tâm tưởng người đọc rất lớn.
'' Trên con đường đất cát khô cằn, nơi nước trong lành theo bước chân mau của người
đầy tớ già đánh rõ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình
ngôI sao nối nhau trên một đoạn đường dài ngoằn nghoèo như lối đi của loài bò sát''.
Làm nên tính sinh động tạo hình của văn miêu tả là những chi tiết sống gây ấn
tượng… Những chi tiết sống lấy từ sự quan sát cuộc sống quanh ta, từ kinh nghiệm sống
của bản thân được sàng lọc, gạt bỏ những chi tiết thừa không có sức gợi làm cho bài văn
miêu tả gọn và có sức tạo hình.
2.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc tạo hình
Ngôn ngữ giàu cảm xúc và hình ảnh mới có khả năng diễn tả cảm xúc của người viết
thể hiện một cách sinh động, tạo hình đối tượng miêu tả.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả giàu tính từ, động từ thường hay sử dụng phép so sánh,
nhân hoá, ẩn dụ. Do phối hợp với các tính từ (chỉ màu sắc, phẩm chất) của động từ với
phương pháp tu từ nên ngôn ngữ miêu tả luôn toả sáng lung linh trong lòng người đọc gợi
nên những ấn tượng hình ảnh về đối tượng được miêu tả.

2.4. Kỹ năng lập dàn ý trong các bài văn miêu tả
a. Tả cảnh
a.1 Kỹ năng tìm hiểu đề
Đây là kỹ năng cần thiết trước tiên. Có tìm hiểu đề chúng ta mới biết đề yêu cầu tả
cảnh gì? Từ đó hình thành các ý và định hướng cho việc lập dàn ý.
Chẳng hạn: Đề bài: '' Em hãy tả cánh đồng lúa chín quê em''
Chúng ta phải tìm hiểu đề yêu cầu tả cảnh gì
- Cảnh phải tả: Cánh đồng lúa chín quê em


10
- Tả vào thời gian nào( sớm, chiều…) người viết tự chọn
- Tả cảnh đồng lúa ở đâu( miền núi, đồng bằng, trung du…)
Trong thao tác tìm hiểu đề chúng ta trước hết phải đọc kỹ đề tìm ra những từ quan
trọng trong đề và tìm hiểu xem đề yêu cầu những gì để xác định thể loại, cách làm đúng.
Đề tả cảnh nào cũng yêu cầu miêu tả. Nhưng có những đề cho phép tả một cách tự do,
tự lựa chọn, lại có đề yêu cầu tả cảnh trong một phạm vi cụ thể (cảnh tả vào lúc nào, ở
đâu…)
a.2. Kỹ năng lập dàn ý
Sau khi tìm hiểu đề chúng ta biết đề yêu cầu tả cảnh gì? ở đâu? Vào lúc nào? đồng thời
xác định được phạm vi giới hạn của đề bài yêu cầu giải quyết mấy ý. Từ đó chúng ta phải
thảo dàn ý đại cương và dàn ý chi tiết.
Đối với văn tả cảnh, dàn ý là một phác thảo về toàn cảnh, phân cảnh, cảnh trung tâm,
những màu sắc, đường nét… và ý nghĩ của bản thân đối với cảnh được thể hiện. Đối với
một bài văn tả cảnh chúng ta thường có một bố cục chung như sau:
* Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả (ở đâu, lúc nào)
* Thân bài:
. Tả bao quát
. Tả chi tiết cảnh
. Tả hoạt động của con người và cảnh vật xung quanh

* Kết luận: Nêu cảm nghĩ, nhận xét của người tả.
Chúng ta hãy xét một ví dụ cụ thể:
Đề: Em hãy tả lại cánh đồng lúa chín quê em vào một buổi sáng đẹp trời.
Bước 1: Xác định yêu cầu của đề:
- Cảnh được tả: Cánh đồng lúa chín
- Thời gian miêu tả: buổi sáng.


11
Bước 2: Lập dàn ý đại cương:
* Mở bài: Giới thiệu cánh đồng lúa chín vào buổi sáng đẹp trời.
* Thân bài: Tả bao quát cánh đồng, tả chi tiết một vài thửa ruộng…, tả cảnh làm việc của
các bác nông dân…
* Kết bài: Nêu ấn tượng và cảm nghĩ của bản thân trước cảnh cánh đồng.
Bước 3: lập dàn ý chi tiết:
* Mở bài:
- Nêu lí do ra thăm cánh đồng (chủ nhật về quê, đi thăm đồng…)
- Thấy cánh đồng lúa chín dưới ánh nắng ban mai thật đẹp
* Thân bài:
. tả bao quát: Dưới ánh nắng ban mai, cánh đồng như một tấm thảm vàng trảI rộng.
. Tả chi tiết:
- Những thửa ruộng lúa chín vàng rực
- Những thửa lúa đã chín, bông lúa nhiều hạt làm thân lúa uốn cong xuống giống cái cần
câu.
- Từng cơn gió thổi làm cho từng khoảng lúa lay động khác nhau.
- Mùi vị: mùi thơm của lúa, của rơm rạ.
. Hoạt động của con người và cảnh xung quanh:
- Một số người đang gặt lúa, tay liềm, tay cầm những bông lúa… một vài chú bé đi chăn
trâu thổi sáo vang…
- Bầu trời cao rộng, ánh nắng toả xuống cánh đồng, từng đám mây nhẹ nhàng trôi theo

gió.
- Chim chao mình bay lượn, thỉnh thoảng cất tiếng hót líu lo.
- Hàng phi lao reo vui trong gió.


12
* Kết luận: nêu cảm nghĩ và ấn tượng:
Vui vì thấy báo hiệu một vụ mùa bội thu, đi xa rồi mà âm thanh và mùi vị của cánh
đồng lúa chín còn đọng mãi.
b. Tả người.
b.1. Kỹ năng tìm hiểu đề
Sau khi đọc đề chúng ta phải xác định rõ đối tượng miêu tả: Là người thân, bạn bè hay
thầy cô giáo…
Tiếp theo chúng ta phải xác định xem đề yêu cầu tả chân dung hay tả người trong tư
thế làm việc. Từ đó lựa chọn cách quan sát và tìm ra những ý phù hợp. Chẳng hạn người
phụ nữ làm nghề dạy học sẽ có trang phục, diện mạo, cử chỉ khác hẳn với người phụ nữ
làm công nhân lao động. Đồng thời, làm rõ yêu cầu của đề còn giúp chúng ta biết lựa
chọn chi tiết miêu tả, biết nhấn mạnh hoặc lướt qua chi tiết nào. Nếu tả người nối chung
thì phải làm nổi bật đặc điểm ngoại hình và tính cách. Nếu tả người đang trong trạng thái
hoạt động thì phải tập trung vào cử chỉ động tác.
Chẳng hạn đối với bài: Trong lớp em có hai bạn tên giống nhau và hình dáng, tính cách
có nhiều nét khác nhau. Hãy miêu tả và so sánh hai bạn ấy.
Đọc kỹ đề ta thấy:
- Đối tượng miêu tả: Hai bạn cùng tên.
- Nội dung miêu tả: tính cách và hình dáng
- Kiểu bài: Miêu tả kết hợp so sánh giữa hai người.
b.2. Kỹ năng lập dàn ý:
Sau khi tìm hiểu đề, chúng ta xác định được đối tượng miêu tả và nội dung miêu tả.
Sau đó chúng ta phải tháo ra những nét chính về hình dáng và hoạt động của con người
theo những mức độ khác nhau tuỳ theo mục đích đề ra.

Khi xác lập một dàn ý cho bài văn tả người cụ thể chúng ta cần dựa vào dàn ý chung
như sau:


13
* Mở bài: Giới thiệu về người được tả (ai, gặp ở đâu, vào lúc nào…)
* Thân bài:
. Tả hình dáng
- Tả bao quát: Tầm vóc, dáng điệu, tuổi tác, cách ăn mặc…
- Tả những nét nổi bật: khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, làn da…
. Tả tính cách: Chú ý đến lời nói, cử chỉ, thái độ cư xử… của người đó nhằm bộc lộ
phẩm chất đạo đức, tình cảm, thói quen.
. Tả hoạt động: Tả kỹ và thứ tự các cử chỉ, động tác, lời nói để thấy rõ cách làm việc,
thái độ, tính nết của người đó.
* Kết luận: Nêu cảm nghĩ, thái độ, nhận xét về người được tả.
Ví dụ: Em hãy tả một thầy giáo hoặc cô giáo đã dạy em mà em nhớ nhất.
Bước1: Tìm hiểu đề:
- Đối tượng miêu tả: Thầy, cô giáo cũ.
- Nội dung miêu tả: hình dáng, tính tình.
Bước 2: Lập dàn ý đại cương:
* Mở bài: Giới thiệu thầy (cô) giáo được tả
* Thân bài:
. Tả hình dáng: Hình dáng, trang phục, giọng nói….
. Tả tính tình: Vui vẻ, gần đồng hay nghiêm nghị…
. Tả hành động: Cô sắp chỗ ngồi, dạy chúng em học, dạy chúng em những trò chơi, yêu
thương và chăm sóc từng bạn trong lớp.
* Phần kết luận: Nêu cảm nghĩ của mình về thầy (cô) giáo được tả.
c. Tả cảnh sinh hoạt



14
Các cảnh sinh hoạt thường gồm nhiều người, nhiều hoạt động cùng xảy ra trong một
thời điểm: Cảnh nhộn nhịp của sân trường lúc ra chơi, cảnh chào cờ đầu tuần, cảnh nhà ga
bến tàu lúc xe đến hoặc xe đi. Khi miêu tả chúng ta cần hướng vào làm nổi bật yêu cầu
chung của cảnh, không nên miêu tả một cách rời rạc, riêng lẻ các hoạt động.
c.1. Tìm hiểu đề
Khi tìm hiểu đề bài văn miêu tả cảnh sinh hoạt, cần xác định rõ đối tượng miêu tả ở
đây là hoạt động của nhiều người trong một thời gian ngắn và hoạt động này được khuôn
lại trong một thời điểm cụ thể ( đúng lúc ra chơi, đúng lúc tàu xe đi hoặc đến…). Từ việc
xác định được đối tượng và thời điểm cần miêu tả sẽ quan sát, lựa chọn các hoạt động tiêu
biểu để làm nổi bật cảnh.
Ví dụ: em hãy tả lại quang cảnh nhộn nhịp trong giờ ra chơi của trường em.
Đối tượng miêu tả: - Hoạt động của học sinh.
- Quang cảnh trên sân trường
Thời điểm miêu tả: Trong giờ ra chơi
c.2. Lập dàn ý.
Trước khi lập dàn ý cụ thể cho một đề bài cụ thể chúng ta cần đưa ra một dàn ý chung
cho bài văn tả cảnh sinh hoạt.
* Mở bài: Giới thiệu cảnh định tả (ở đâu, thời gian nào)
* Thân bài:
. Tả bao quát:
Cần chú ý phạm vi rộng hay hẹp của một nhóm người hay nhiều người đang hoạt
động, không khí sinh hoạt sôi nổi hay trầm lặng.
. Tả chi tiết: Theo trình tự đã lựa chọn (không gian hay thời gian)
. Tả khung cảnh thiên nhiên gắn với sinh hoạt.
* Kết luận: Nêu cảm nghĩ, nhận xét của người tả.


15
Ví dụ: Em hãy tả cảnh làng em vào một ngày giáp Tết

Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Xác định đối tượng miêu tả: Cảnh làng em
- Thời điểm miêu tả: Một ngày giáp Tết.
Bước 2: Lập dàn ý đại cương:
* Mở bài: Giới thiệu cảnh làng em vào một ngày giáp tết.
* Thân bài:
. Tả bao quát: làng xóm trở nên nhộn nhịp, tấp nập.
. Tả cảnh chi tiết:
- Cảnh chợ Tết đông vui
- Cảnh mọi người sắm Tết.
- Cảnh những người xa quê về ăn Tết.
. Tả cảnh thiên nhiên trong những ngày giáp Tết: hoa đào nở, trời se lạnh, có mưa phùn.
* Kết bài: Cảm nhận của người viết.
Bước 3: Lập dàn ý chi tiết:
*. Mở bài:
- Hôm nay là 27 Tết
- Mọi người tấp nập chuẩn bị cho ngày Tết.
* Thân bài
. Tả bao quát
- làng xóm nhộn nhịp hẳn lên
- mọi người tất bật mua sắm đồ Tết
- cờ Tổ quốc bay phấp phới trước cửa mọi nhà


16
. Tả chi tiết
- người người lũ lượt, đông như trẩy hội
- đủ mọi hàng hoá, đủ mọi âm thanh
- người mua hoa, người mua thịt…
- các em nhỏ đang tổng dọn vệ sinh thôn xóm

- cảnh những người xa quê về ăn Tết, họ mang theo những cành đào, quà bánh…
. Tả cảnh thiên nhiên
- hoa đua nhau nở, cây cối đâm chồi nảy lộc
- tiết trời chuyển vào xuân: trời se lạnh và mưa phùn
- vài con chim én chao lượn trên mặt ao
* Kết luận
- cảm thấy vui khi tết đến
- cảm nhận được hương xuân.
Như vậy khi lập dàn ý cho bài văn tả cảnh sinh hoạt cần chú ý tả cảnh sinh hoạt của
con người, xen kẽ với cảnh vật xung quanh và lòng lồng cảm xúc vào bài viết để bài viết
trở nên có hồn.
* kỹ năng viết đúng theo dàn ý:
Sau khi lập được một dàn ý cụ thể chi tiết, phác thảo được cái khung củ bài văn, để
viết đạt hiệu quả chúng ta cần viết đúng theo dàn ý.
Vậy viết đúng theo dàn ý thế nào và phải viết ra sao?
Trước hết là phải viết các ý đã vạch tức là không thừa, không thiếu, không tự thêm bớt
tuỳ tiện. Ta phải tuân thủ theo nguyên tắc sau:
Thứ nhất: viết bài văn miêu tả phải theo trình tự hợp lí, không được viết lộn xộn. Ví
dụ: nếu là bài văn tả người nên đi theo trình tự miêu tả và phải có tính nhất quán theo một
trình tự thời gian và không gian nhất định.


17
Thứ hai: khi viết bài văn phải phân bố thời gian hợp lí để tránh tình trạng ''đầu voi
đuôi chuột'' không được tuỳ tiện bỏ ý, thay ý. Nếu trong quá trình làm bài phát hiện ra
những ý mới thì có thể đưa vào nhưng phải hợp lí, đúng nơi, đúng chỗ.
III. THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN:
Ngay từ tiết học đầu “tìm hiểu chung về văn miêu tả” kết hợp với trọng tâm bài, khi
tìm hiểu đề bài, viết bài đòi hỏi giáo viên định hướng rõ về kỹ năng “lập dàn ý” giúp học
sinh nhận biết, tích luỹ kiến thức thực hành - sắp đặt theo trình tự bố cục phù hợp sinh

động. Tiếp theo với giờ học “Quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu
tả” người dạy phải gợi ý cách sắp đặt, trình bày các hình ảnh tiêu biểu mà bản thân đã lựa
chọn theo trình tự hợp lý. Cuối giờ, giáo viên yêu cầu học sinh tự lập dàn ý ở nhà cho các
đề bài của tiết “ Luyện nói quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả ”
Trong giờ, giáo viên kiểm tra, đánh giá sự chuẩn bị bài của học sinh, kết quả : Tổng số
học sinh trung bình mỗi lớp : 40 em. Bài có dàn ý tốt = 8 bài, tức 20%. Bài có dàn ý đạt
TB = 15 bài tức 37.5% ; dàn ý chưa đạt yêu cầu = 17 bài tức 42.5%.
Sau giờ luyện nói, tôi ra đề và yêu cầu học sinh chuẩn bị dàn bài ở nhà. Đề bài như
sau :
Tả cánh đồng quê em vào một buổi đẹp trời.
Với giờ học phương pháp tả cảnh của tuần sau. Giáo viên kiểm tra, chấm, chữa bài
cụ thể . Dàn ý mẫu :
a. Mở bài : Giới thiệu cánh đồng quê em vào buổi đẹp trời ( cánh đồng ở đại điểm
nào ? tên gọi của nó nếu có ? cánh đồng hiện ra trước mắt em vào buổi nào ? mùa nào ? ).
b. Thân bài : ( Theo thứ tự từ bao quát --> nét nổi bật )
* Tả bao quát quang cảnh cánh đồng :
Đặc điểm về không gian ( rộng, hẹp, giới hạn thế nào ... ) bầu trời ra sao ? Các khu
vực nổi bật trên cánh đồng ( nếu có sự phân chia ) màu sắc nổi bật.


18
* Tả những nét nổi bật của cánh đồng ( trong buổi đẹp trời ) khu ruộng nổi bật trồng gì
? màu sắc ra sao ? đặc điểm về hình dáng ô ruộng ? cảnh bố trí cây trồng ? So sánh khu
ruộng ấy với những khu ruộng bên cạnh ?
Cảnh về dòng mương hoặc kênh rạch như thế nào ? Con đường, hàng cây, cây cổ thụ
( nếu có ) bờ cỏ ...
Một vài hoạt động tiêu biểu của con người trên cánh đồng ( làm cỏ, bón phân, tát
nước ... ? ) cảnh chim chóc, trâu bò trên cánh đồng ( nếu có ).
* Chú ý : Nhớ nêu bật những nét đẹp của cánh đồng quê em trong buổi đẹp trời
thông qua những suy nghĩ và cảm xúc chân thành, thể hiện lòng yêu quê hương tha thiết.

c. Kết bài : Cảm nghĩ chung về cánh đồng quê em trong buổi đẹp trời đã tả khác với
cánh đồng trước đây, cánh đồng ở buổi khác. Tương lai của cánh đồng? Hoặc cảnh đẹp
của cánh đồng gợi cho em tình cảm gì đối với quê hương ?
Qua kiểm tra, kết quả lần này như sau :
Tổng số bài : 40

; Dàn bài tốt : 25 bài = 62,5%, Dàn bài khỏ:10 bài = 25%,

Dàn bài TB: 5 bài = 12,5%
Bài viết văn tả cảnh ở nhà yêu cầu phải lập dàn ý rồi mới viết hoàn chỉnh. Khi chấm,
giáo viên phải đánh giá cụ thể. Để chuẩn bị tốt cho giờ học “ Phương pháp tả người” giáo
viên ra đề bài và yêu cầu chuẩn bị dàn ý ở nhà.


19
C. KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN
Trong chương trình đã và đang đổi mới hiện nay phương pháp đổi mới dạy học môn
ngữ văn đang thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều người.
Chương trình ngữ văn được chia làm ba phân môn: văn bản, tiếng việt và tập làm văn.
văn bản giúp cho học sinh nhìn nhận vấn đề, tiếng việt rèn luyện dùng từ, đặt câu, cấu
trúc câu còn tập làm văn giúp học sinh thiết lập những kiểu văn bản.
Đối với phân môn tập làm văn ở ngữ văn 6 tập hai đã đề cập đến phương pháp làm bài
văn miêu tả. Muốn làm tốt một bài văn miêu tả chúng ta cần phảI rèn luyện các kỹ năng
như: tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý, lập dàn ý, viết bài. trong đó kỹ năng khá quan trọng là
lập dàn ý nhằm tạo nên sơ đồ phác thảo cấu tạo của một bài văn để bài văn có bố cục hợp
lí và đúng đề, hay về nội dung.
Với đề tài này tôi đã đưa ra một số kỹ năng lập dàn ý của các bài văn miêu tả nhằm
giúp các em tham khảo đồng thời rèn luyện thói quen lập dàn ý trước khi làm bài - một kỹ
năng mà các em ngại nhất trong phân môn tập làm văn hiện nay. Hi vọng rằng đề tài này

sẽ góp một ý kiến giúp các em làm một bài văn miêu tả hay hơn, góp phần đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay.
II. ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
Để rèn luyện tốt kĩ năng lập dàn ý cho đề văn miêu tả lớp 6 tôi đưa ra một số kiến nghị
sau:
- Hiện nay trong chương trình Ngữ văn 6 có tiết như Luyện nói văn miêu tả; luyện tập
văn miêu tả hoặc tiết trả bài Tập làm văn giáo viên nên tận dụng nó mà hướng dẫn học
sinh một cách tối đa.
- Thường xuyên tổ chức giờ thực hành hoặc cho học sinh làm bài tập về “Phương pháp
rèn luyện kĩ năng lập dàn ý cho đề văn miêu tả môn Ngữ văn 6”. Động viên khích lệ các
em một cách kịp thời; nhận xét đúng năng lực của mỗi học sinh.


20
- Giáo viên không chỉ truyền thụ giảng giải kiến thức cho học sinh mà chính là tạo
điều kiện, tổ chức và khuyến khích học sinh tự mình tìm ra kiến thức mới, phát triển kĩ
năng và hình thành thái độ.
Tăng cường tổ chức chuyên đề, thảo luận chuyên môn về phương pháp rèn luyện kĩ năng
lập dàn ý cho các kiểu bài văn để khắc phục những hạn chế mà giáo viên còn vướng mắc.
- Cần chú trọng nghiên cứu tài liệu tham khảo về phân môn Tập làm văn.
- Tăng cường dự giờ đúc rút kinh nghiệm.
- Khi chấm chữa phải ghi chép cụ thể mặt đạt, chưa đạt. Phân tích tỉ mỉ để các em rút
kinh nghiệm có bài viết tốt hơn cho những tiết sau
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút được trong quá trình giảng
dạy của bản thân. Những kinh nghiệm trên đã được áp dụng đối với học sinh lớp 6 trong
năm học 2016-2017 và khẳng định được kết quả.
Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục ứng dụng những kinh nghiệm này trong quá trình
giảng dạy của mình, đồng thời sẽ có những tìm hiểu thêm, những bổ sung hoặc điều chỉnh
để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn, có hiệu quả cao hơn.
Rất mong nhận được sự quan tâm, trao đổi, góp ý của quý đồng nghiệp về đề tài này

để bản thân tôi nói riêng và những người làm công tác giáo dục nói chung có thể gặt hái
được những kết quả cao hơn trong sự nghiệp trồng người của mình.

Xác nhận của Hiệu trưởng

Người viết

Xác nhận của hội đồng khoa học (hội đồng sáng kiến)



×