Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NHƯ NGHĨA

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NHƯ NGHĨA

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Đề tài, bản thân gặp không ít những khó khăn bởi
do nội dung đề tài mới và nhạy cảm nên hầu hết các cơ quan chức năng khi làm việc
chỉ trao đổi, cung cấp trong phạm vi giới hạn. Tuy nhiên, tôi đã và luôn được các
Thầy, Cô động viên, hướng dẫn kịp thời để hoàn thành Đề tài.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn Ban giám đốc, các khoa, phòng và Thầy,
Cô Học viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quí báu cho
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Luật học. Tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến GS.TS. Võ Khánh Vinh đã trực tiếp hướng
dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận
lợi về thời gian và kiến thức trong quá trình thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến cơ quan, đến chính quyền
thành phố, quận và các ngành, đoàn thể ở thành phố Đà Nẵng, đến bạn bè, đồng
nghiệp và gia đình đã luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt
thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của Thầy, Cô và mọi
người để được hoàn thiện hơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của GS. TS. Võ
Khánh Vinh. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn


Võ Như Nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH ................ 7
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
tại các điểm du lịch ........................................................................................... 7
1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du
lịch ................................................................................................................... 17
1.3. Chủ thể, nội dung phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm
du lịch .............................................................................................................. 19
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du
lịch ................................................................................................................. 266
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 29
2.1. Thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ..................................... 29
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ............................... 34
2.3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ............... 41
Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 59
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................. 600
3.1. Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng........................................................................................ 600


3.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các
điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................ 65
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 766
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. ANTT

: An ninh trật tự

2. BLHS

: Bộ luật Hình sự

3. CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

4. TCTS

: Trộm cắp tài sản

5. TAND


: Tòa án nhân dân

6. UBND

: Ủy ban nhân dân

7. VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
Bảng 1: Thống kê các vụ trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch và du khách,
dân số trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến tháng 6
năm 2019
Bảng 2: Thống kê khách du lịch, dân số và các vụ phạm pháp hình sự, trộm
cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ
năm 2014 đến tháng 6 năm 2019
Bảng 3: Thống kê một số tội phạm hình sự xảy ra tại thành phố Đà Nẵng từ
năm 2014 đến tháng 6 năm 2019
Bảng 4: Thống kê tội phạm hình sự và tội trộm cắp tài sản tại điểm du lịch
xảy ra tại các quận, huyện thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến
tháng 6 năm 2019
Bảng 5: Thống kê địa điểm gây án của tội trộm cắp tài sản tại các điểm du
lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến tháng 6 năm
2019
Bảng 6: Thống kê thời gian gây án của tội trộm cắp tài sản tại các điểm du
lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến tháng 6 năm
2019
Bảng 7: Thống kê đặc điểm nhân thân đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản

tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014
đến tháng 6 năm 2019


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện mục tiêu phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của
thành phố và là trung tâm du lịch mang tầm cỡ khu vực, những năm qua Đà
Nẵng có nhiều bước phát triển vượt bậc, cả về sản phẩm cùng cơ sở vật chất
theo hướng chất lượng cao phục vụ du khách, tình hình an ninh trật tự luôn
được tập trung quan tâm, các mô hình phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ
quốc từng bước đi vào chiều sâu, lan tỏa, phù hợp với đặc điểm địa bàn.
Theo số liệu báo cáo tổng kết của Công an thành phố Đà Nẵng, từ đầu
năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2019, tại Đà Nẵng, đã xảy ra 2.893 vụ phạm
pháp hình sự, các vụ việc dư luận chú ý được khám phá xử lý kịp thời, đúng
người, đúng tội không để hiệu ứng lây lan, phức tạp.
Và trong năm năm trở lại đây (từ đầu năm 2014 đến hết tháng 6 năm
2019) các hoạt động lễ hội, du lịch, sự kiện văn hóa, thể thao tại thành phố Đà
Nẵng luôn được duy trì và mở rộng... Qua đó, thu hút lượng khách du lịch
trong và ngoài nước đến tham quan, giao lưu, ghỉ dưỡng.. tăng nhiều theo hàng
năm (bảng 2 danh mục các bảng biểu).
Đảng, Chính quyền các cấp từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã đã
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp tập trung chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể,
tổ chức xã hội cùng nhân dân, du khách tăng cường công tác phòng ngừa tình
hình tội phạm, nhất là phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản (sau đây viết
tắt là TCTS) tại các điểm du lịch. Cơ quan Tòa án nhân dân, Điều tra và Viện
kiểm sát nhân dân cũng đã phối hợp chặt chẽ, tích cực trong công tác phòng
ngừa và phát hiện, điều tra, truy tố, đưa ra xét xử kịp thời các vụ án về TCTS

tại các điểm du lịch, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và phòng
ngừa đấu tranh tội phạm của địa phương, được quần chúng nhân dân và xã


2
hội đồng tình ủng hộ.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng
công nghệ cao ngày càng có chiều hướng gia tăng; công tác quản lý nhà nước
về an ninh trật tự (sau đây viết tắt là ANTT) và phòng cháy chữa cháy còn
nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến tình hình tội phạm trên địa bàn thành
phố ngày càng phức tạp, không chỉ gia tăng về số lượng tội phạm, người
phạm tội mà tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, phương thức, thủ đoạn
thực hiện che giấu tội phạm ngày càng tinh vi, tình hình tội TCTS ở các điểm
du lịch biến động, có những thời điểm gia tăng, diễn biến khó kiểm soát, liên
quan đến người nước ngoài ngày càng nhiều, số lượng người bị bắt, bị xét xử
sau đó lại tái phạm vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn trong số những người phạm tội.
Và hậu quả gây thiệt hại lớn cho tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân,
du khách gây ra tâm lý lo lắng cho xã hội, ảnh hưởng đến môi trường du lịch
và quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Qua đánh giá, xác định các nguyên nhân kết hợp với thực tiễn và để đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới, cho nên đặt ra vấn đề nghiên cứu lý luận về
phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch là cần thiết, phải tìm hiểu
về nhận thức, thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
TCTS tại các điểm du lịch để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này một cách toàn diện, có hệ thống
đem lại hiệu quả cao hơn trong thời gian tới, góp phần phục vụ thắng lợi công
cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở địa phương và đất nước.
Khi tìm hiểu và trao đổi được biết chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu để đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các
điểm du lịch. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội trộm

cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm luận
văn Thạc sĩ luật học là đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.


3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu và nghiên cứu về các yếu tố thời gian, không gian, địa điểm
(đặc trưng về địa bàn), nghiên cứu liên quan đến tình hình tội phạm và phòng
chống tội phạm TCTS; tình hình hoạt động du lịch tại thành phố Đà Nẵng để
đảm bảo yếu tố không có sự trùng lặp của đề tài, và nghiên cứu để có thể kế
thừa những nội dung cho phép của các công trình đã công bố.
Qua đó, tác giả tập trung tìm hiểu tham khảo, nghiên cứu một số công
trình nghiên cứu như: Giáo trình “Tội phạm học” (2008) của Giáo sư. Tiến sĩ
Võ Khánh Vinh, NXB Công an nhân dân; Hiếp pháp 2013; Bộ Luật Hình sự
(sau đây viết tắt là BLHS) và Tố tụng Hình sự năm 2013, 2015; Luật Du lịch
năm 2005, năm 2017; Đề án phát triển Du lịch thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2016-2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; các văn bản qui phạm
pháp luật qui định về tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ của các ngành, các
đoàn thể liên quan hoạt động phòng ngừa, đấu tranh tội phạm ở các điểm du
lịch; các sách, văn bản, tài liệu, tạp chí tại Học viện Khoa học xã hội, các Chỉ
thị, Nghị quyết của các địa phương, các văn bản về công tác dân vận, xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc..
Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu và kế thừa các công trình khoa học khác
đã nghiên cứu về tội TCTS trên phạm vi của chuyên ngành Tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm, tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó được thực hiện ở
những địa điểm, địa bàn khác nhau, các giai đoạn, góc độ, khía cạnh khác nhau
nên chỉ có giá trị tham khảo để thực hiện công trình nghiên cứu đã nêu ở trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung và thực trạng phòng ngừa tình

hình tội TCTS, TCTS tại các điểm du lịch, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này trong


4
thời gian tới tại các điểm du lịch thành phố Đà Nẵng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất là, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình
hình tội phạm TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai là, tìm hiểu thực trạng phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các
điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2014 đến
tháng 6 năm 2019.
Thư ba là, đề xuất các biện pháp về tăng cường phòng ngừa tình hình tội
TCTS tại các điểm du lịch trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về lý luận, về thực trạng phòng ngừa tình hình tội TCTS tại
các điểm du lịch và các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội TCTS
ở các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Quan hệ giữa tình hình tội TCTS ở các điểm du lịch trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng với các hiện tượng kinh tế - xã hội khác để tạo cơ sở cho việc
thiết lập các giải pháp phòng ngừa tội phạm TCTS tại các điểm du lịch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: các vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình
tội trộm cắp tài sản; thực trạng hoạt động điểm du lịch và công tác phòng
ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Qua đó đề ra biện pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội TCTS tại
các điểm du lịch.
Nghiên cứu Đề tài thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên
ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”; Điều 138 Bộ luật hình sự

năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009) và tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm
2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).


5
Về không gian nghiên cứu: Các điểm du lịch trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
Về thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2014 đến tháng 6 năm
2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương đường lối, quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các Chỉ thị, Nghị quyết của ngành Công an
và các ngành, các cấp liên quan lĩnh vực quản lý Nhà nước về ANTT và
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật ở các điểm, khu,
tuyến du lịch.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp điều tra;
phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp
nghiên cứu, thống kê hồ sơ; trao đổi các chuyên gia, cán bộ phụ trách, các du
khách và các đơn vị lữ hành về vấn đề liên quan đến điểm du lịch.
Nghiên cứu các vụ án đã được khởi tố tại cơ quan Công an; những bản án
đã xét xử của Tòa án nhân dân (sau đây viết tắt là TAND) và các báo cáo sơ
kết, tổng kết liên quan đến tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch; nghiên cứu
tình hình liên quan hoạt động du lịch, dân số, kinh tế, các mô hình phong trào
đảm bảo ANTT tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm
2014 đến tháng 6 năm 2019 của các cơ quan chức năng như Công an, Uỷ ban
nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố Đà Nẵng và các quận, huyện,
thành phố, Sở Du lịch thành phố, Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, các công
ty lữ hành du lịch. Đồng thời kết hợp, đánh giá các số liệu, tư liệu trong các bài

viết, các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố liên quan tới công


6
tác phòng ngừa tình hình tội TCTS và các tội xâm phạm sở hữu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống, góp phần làm rõ được những vấn đề lý luận và thực
tiễn về phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn ở các
điểm du lịch trên thành phố Đà Nẵng, luận văn góp phần làm rõ thực trạng
tình hình TCTS tại các địa điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, qua
đó đề ra những biện pháp giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức, du khách và nhân
dân tại điểm du lịch tham khảo, nâng cao nhận thức và hành vi trong phòng,
chống, đấu tranh tội TCTS tại các điểm du lịch;
Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu trong việc phục vụ cho
công tác tuyên truyền, nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các
điểm du lịch..
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản tại các điểm du lịch
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các
điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.



7
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản tại các điểm du lịch
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Khi nói đến phòng ngừa tội phạm, Giáo trình Tội phạm học của trường
Đại học Luật Hà Nội nêu: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng
một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật... do
các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không
để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình
hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội ”[23, tr.210].
Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh thì có quan điểm: “Phòng ngừa tình
hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà
nước, xã hội và Nhà nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng
cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [28, tr.154].
Ngoài ra, như chúng ta đã biết - Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa (sau đây viết tắt là CHXHCN) Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, Nhà nước Việt Nam không ngừng đấu tranh
vì công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy cho nên, Nhà nước Việt Nam rất chú
trọng đến vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm, qua đó ta đã và đang từng
bước loại bỏ các nguyên nhân và các điều kiện của tình hình tội phạm. Trong
đó, biện pháp tích cực nhất được thể hiện qua việc hình thành các đường lối
đấu tranh phòng, chống tội phạm; thiết lập và phân định chức năng phòng



8
ngừa tình hình tội phạm cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.
Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc các chủ thể của Nhà nước thông
qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình sử dụng tổng hợp các biện
pháp để từng bước khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm,
không để tội phạm xảy ra hoặc nếu tội phạm xảy ra phải hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả thiệt hại cho con người và cho xã hội.
Với các lý luận trên, có thể xác định phòng ngừa là biện pháp đấu tranh
phòng, chống tội phạm hiệu quả nhất ở các phương diện chính trị, kinh tế và
xã hội... Và để đạt được mục đích làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội
phạm ra khỏi đời sống xã hội, Nhà nước cần có chủ trương để công tác phòng
ngừa tình hình tội phạm là hoạt động thường xuyên, có sự bảo đảm về vật
chất cũng như các phương tiện pháp luật, giáo dục. Khẳng định rõ công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các cấp,
các ngành. Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp bằng các chủ trương, biện pháp
phải huy động được cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân để cùng
thực hiện.
Như vậy, xét đến cùng, phòng ngừa tình hình tội phạm là phải làm rõ
nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự phạm tội và làm rõ các biện pháp,
phương pháp phòng ngừa. Với mục đích đó, chương trình phòng ngừa tình
hình tội phạm khi xây dựng cần phải có kế hoạch, phải thường xuyên có sự
chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp, các tổ chức xã
hội khác và kịp thời thông tin đến nhân dân để cùng thực hiện. Đồng thời,
cũng cần phải thực hiện sát hợp với các đặc điểm kinh tế, tâm lý, xã hội và
các đặc điểm truyền thống của từng địa phương.. Song cùng, cần phải có cách
thức tập trung huy động sự vào cuộc tham gia của các cấp ủy đảng, chính
quyền, các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân.



9
Đối với tình hình tội TCTS, cùng với sự phát triển của lịch sử pháp lý của
nước ta các qui định về tội phạm trộm cắp cũng đã có những phát triển theo
hướng qui định cụ thể hơn, lượng hóa giá trị của tài sản... phù hợp với từng giai
đoạn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, tác giả
Đinh Văn Quế đề cập rằng: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản
của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh
thần của người quản lý tài sản” [13, tr.196].
Và với cách nhìn nhận vấn đề như thế – có thể định nghĩa khái niệm về
tội TCTS có nhiều cách khác nhau, tuy nhiên căn cứ vào thực tiễn đấu tranh
chống tội phạm trộm cắp tài sản và căn cứ lý luận khoa học hình sự về tội
TCTS trong BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và trong BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì có thể đề ra khái niệm sau: “Tội trộm cắp
tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự,
thể hiện dưới hành vi lén lút, che giấu nhằm chiếm đoạt tài sản không phải
của mình có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội
chiếm đoạt tài sản mà đến thời điểm gây án chưa được xóa án tích”.
Với khái niệm về tội trộm cắp mà tác giả đưa ra kết hợp với nội dung
phân tích, đi đến khái niệm về phòng ngừa tình hình tội TCTS sau: Phòng
ngừa tình hình tội TCTS là việc sử dụng tổng hợp các biện pháp mang tính
chất Nhà nước, xã hội và bản thân chủ sở hữu tài sản hoặc là người có quyền
quản lý tài sản, như: biện pháp pháp luật, chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng,
tự quản... với mục đích kiểm soát, loại trừ các nguyên nhân và điều kiện của
tội trộm cắp tài sản để hạn chế, ngăn chặn và đi đến cùng là loại bỏ tình hình
tội trộm cắp tài sản ra khỏi các hoạt động của đời sống xã hội.



10
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của điểm du lịch
Theo Luật du lịch của nước CHXHCN Việt Nam năm 2017 tại điểm 1,
điều 3 nêu rõ “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên
tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám
phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
Đối với điểm du lịch, tại điểm 7, điều 3, Luật Du lịch của nước
CHXHCN Việt Nam năm 2017 qui định: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên
du lịch được đầu tư, khai thác phục vụ khách du lịch”.
Như vậy, có thể khái niệm về điểm du lịch như sau: Điểm du lịch là nơi
tiến hành hoạt động du lịch, có ranh giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ
quan có thẩm quyền xác nhận, được đầu tư phát triển du lịch, đáp ứng điều
kiện về an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, có ưu thế về tài
nguyên du lịch, được quy hoạch đầu tư phát triển nhằm phục vụ nhu cầu đa
dạng của khách du lịch, hàng năm đón được từ 50.000 lượt khách du lịch trở
lên, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân;
đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động Du lịch còn một số hạn chế, yếu kém, phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Hiệu
lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch chưa cao; môi trường du lịch, an
toàn thực phẩm và an toàn giao thông còn nhiều bất cập…
Tại thành phố Đà Nẵng, từ khi áp dụng Luật Du lịch năm 2005 chính
quyền thành phố, các địa phương, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ
hành, kinh doanh vận tải khách du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch, doanh nghiệp,



11
cá nhân kinh doanh các loại dịch vụ du lịch khác đã rất quan tâm đến việc thúc
đẩy phát triển du lịch tại địa phương, tại thành phố.
Ngày 09 tháng 11 năm 2015, UBND thành phố Đà Nẵng đã triển khai
Quyết định số 8373/QĐ-UBND Về việc ban hành “Đề án phát triển du lịch
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 – 2020”, trong đó đặt ra mục đích: “Tạo
điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh và đảm bảo phát triển bền vững ngành
du lịch thành phố Đà Nẵng; Tạo cơ sở để lập quy hoạch chi tiết các khu du
lịch trọng điểm; các sản phẩm du lịch có chất lượng, phát huy và khai thác có
hiệu quả tiềm năng du lịch; Tạo tiền đề để phát triển đột phá ngành du lịch,
thực sự tăng trưởng trở thành kinh tế mũi nhọn và có đóng góp lớn vào sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố”, và yêu cầu: “Đảm bảo các nguyên
tắc về xây dựng và phát triển du lịch theo qui định tại Luật Du lịch; Phù hợp
với chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước,
của vùng duyên hải Nam Trung Bộ và định hướng của thành phố Đà Nẵng
đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030; Phát huy lợi thế du lịch của thành phố;
sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên du lịch”.
Năm 2017, Luật Du lịch số 09/2017/QH14 được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19 tháng 6 năm
2017 ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Trong
đó, điều 23, qui định về điều kiện công nhận điểm du lịch bao gồm:
1. Điều kiện công nhận điểm du lịch bao gồm:
a) Có tài nguyên du lịch, có ranh giới xác định;
b) Có kết cấu hạ tầng, dịch vụ cần thiết bảo đảm phục vụ khách du lịch
c) Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi
trường theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Và theo đó, để được công nhận là điểm du lịch, thì điểm du dịch phải



12
đáp ứng các điều kiện như có tài nguyên du lịch và có ranh giới xác định; có
kết cấu hạ tầng và dịch vụ cần thiết đảm bảo phục vụ khách du lịch; ngoài ra,
còn phải đáp ứng các điều kiện về ANTT, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường
theo quy định của pháp luật.
Các điểm du lịch sau khi được công nhận thì việc quản lý, khai thác
càng trở nên chặt chẽ và tuân thủ theo đúng các quy định của Luật Du lịch.
Trong đó, các tổ chức, cá nhân được giao quản lý điểm du lịch được quyền đầu
tư, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch; đồng thời, ban hành nội quy, tổ chức
kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch; tổ chức dịch vụ hướng dẫn, cũng
như quy định, quản lý việc sử dụng hướng dẫn viên du lịch trong phạm vi quản
lý và được thu phí theo quy định của pháp luật. Cùng với đó, trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân này là phải thực hiện tốt việc quản lý, giám sát hoạt động
kinh doanh dịch vụ du lịch tại điểm du lịch, tránh để xảy ra các hoạt động trái
quy định, gây phản cảm, ảnh hưởng đến hình ảnh điểm du du lịch. Đặc biệt,
phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch đến tham quan, cũng như bảo
đảm an toàn cho du khách và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường.
Thành phố Đà Nẵng gần đây cũng đã quan tâm hơn và tạo điều kiện
thuận lợi khi đăng ký công nhận điểm du lịch đó là: Được đẩy mạnh xúc tiến,
quảng bá du lịch trong nước và ngoài nước; được tham gia các chương trình,
sự kiện do ngành Du lịch tổ chức; được hỗ trợ các hoạt động tuyên truyền
quảng bá dưới hình thức giới thiệu các khu, điểm du lịch được xếp hạng trên
báo chí - truyền hình - ấn phẩm quảng bá du lịch của Sở Du lịch Đà Nẵng
hoặc tại các sự kiện trong và ngoài nước do Sở Du lịch tham dự; giới thiệu tại
website của Sở Du lịch. Ngoài ra, các khu, điểm du lịch sẽ được đánh giá, tôn
vinh nếu có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển du lịch Đà
Nẵng nói riêng và Việt Nam nói chung; được cắm biển chỉ dẫn điểm đến theo
ngành quản lý chức năng; được chuẩn hóa các bài thuyết minh hướng dẫn du



13
lịch; được tham gia hội nghị, hội thảo do Sở Du lịch và các cơ quan ban
ngành liên quan tổ chức.. Qua đó, các đơn vị có thể kịp thời cập nhật thông tin
mới liên quan ngành du lịch; đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc tại khu, điểm
du lịch được tham gia các chương trình đào tạo, các khóa học bồi dưỡng nâng
cao nghiệp vụ du lịch do Sở Du lịch Đà Nẵng tổ chức.
Tuy nhiên, qua khảo sát, nghiên cứu và trao đổi trực tiếp với Phòng
Quy hoạch phát triển tài nguyên du lịch thuộc Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng
thì tác giả được biết hiện tại thành phố Đà Nẵng chưa có tổ chức, cá nhân nào
làm hồ sơ để đề nghị công nhận điểm du lịch với nhiều lý do khác nhau, như:
chưa có các bài thuyết minh hướng dẫn du lịch được chuẩn hóa; chưa có bộ
phận bảo vệ trực 24 giờ mỗi ngày và phương án đảm bảo ANTT; thủ tục để
làm công nhận điểm du lịch tuy rút gọn, cải cách nhưng không có chế tài kèm
theo để xử lý các trường hợp kinh doanh điểm du lịch mà không đăng ký công
nhận điểm du lịch và quyền lợi của điểm du lịch chưa được công khai, tuyên
truyền rộng, chưa sát với yêu cầu, nhu cầu của các cơ quan, doanh nghiệp
hoạt động điểm du lịch..
Với các qui định về Luật Du lịch, về điểm du lịch và khái quát về
thực trạng tình hình hình du lịch tại thành phố Đà Nẵng, về khoa học, tác
giả quan niệm của luận văn này (vì chưa được công nhận về mặt pháp lý)
về các điểm du lịch tại thành phố Đà Nẵng có đặc điểm sau thì được coi là
điểm du lịch, gồm:
- Là nơi tiến hành hoạt động du lịch, có ranh giới xác định trên bản đồ
địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận;
- Có cắm biển chỉ dẫn điểm đến theo ngành quản lý chức năng; Có
thuyết minh về điểm du lịch; Có dịch vụ ăn uống, mua sắm; Có kết nối giao
thông, thông tin liên lạc thuận lợi;
- Có ưu thế về tài nguyên du lịch, được quy hoạch đầu tư phát triển



14
nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch;
- Hàng năm đón được từ 50.000 lượt khách du lịch trở lên, đem lại
hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
- Công khai số điện thoại, địa chỉ của tổ chức, cá nhân quản lý điểm du
lịch; Có hình thức tiếp nhận và giải quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị của
khách du lịch.
1.1.3. Mục đích của của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
tại các điểm du lịch
Trong thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng
ngừa tội phạm lại được hiểu một cách trực tiếp và đơn giản chính là hoạt động
chủ yếu của các cơ quan chuyên môn, chuyên trách trong công tác bảo vệ
pháp luật và phòng chống tội phạm, mà cụ thể là: Công an, TAND, Viện
Kiểm sát, Thanh tra, cơ quan Thi hành án hình sự và một số cơ quan Nhà
nước khác (Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển ...) nhằm
ba mục đích sau: Một là, loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, xóa bỏ các tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh ra tội
phạm. Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình - nhà trường - xã hội)
xung quanh các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và người phạm tội, qua đó
hạn chế, ngăn ngừa những hiện tượng có ảnh hưởng bất lợi và không đúng
đến việc hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực chống đối xã hội của bản
thân người phạm tội. Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có
hệ thống phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực và tội phạm, các tác nhân ảnh
hưởng và những thiếu sót trong cơ chế quản lý về các mặt (như: kinh tế, xã
hội, công tác tổ chức cán bộ...), cũng như kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình
sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác. [13, tr.196]
Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình



15
mới” đã đề ra 09 nhiệm vụ chủ yếu, Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày
31/7/1998 của Chính phủ “Về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới” đã xác định 08 chủ trương và Chỉ thị 37/2004/CT-TTg
ngày 08/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết 09/1998/NQ-CP và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của
Chính phủ đến năm 2010” cùng hướng đến mục đích phòng, chống tội phạm
trong đó có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch, đó
là phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm mới; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong
mọi tình huống. Giữ vững kỷ cương pháp luật, sự nghiêm minh của pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, dưới sự
lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp và sự tham mưu tích cực, nòng cốt của lực lượng CAND,
đưa công tác phòng, chống tội phạm trở thành một trong những nhiệm vụ
thường xuyên của các cấp, các ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và các địa
phương. Tạo ra môi trường xã hội ổn định, lành mạnh, phục vụ có hiệu quả
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội; nâng cao đời sống vật chất, bảo vệ cuộc
sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân.
Như vậy, để cho hoạt động phòng ngừa tội phạm và phòng ngừa tình
hình tội TCTS tại các điểm du lịch đạt được mục đích và hiệu quả cao thì cần
phải có sự phối hợp, gắn liền với phát huy vai trò và sức mạnh của các cơ
quan chức năng trực tiếp quản lý các tuyến, khu, điểm du lịch. Hoạt động
phòng ngừa tội phạm tại các điểm du lịch phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy, chính quyền nơi có các điểm du lịch và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ
quan Công an trên cơ sở phân công, phân cấp có sự phối hợp trao đổi thông
tin về tội phạm. Song cùng là việc tập trung cải thiện các điều kiện kinh tế, xã
hội, loại bỏ các điều kiện, nguyên nhân phạm tội, để hình thành các điều kiện



16
tích cực cho sự hình thành hoàn thiện nhân cách con người, du khách. Đồng
thời, khi thực hiện việc phòng ngừa tình hình tội phạm tại các điểm du lịch đòi
hỏi phải nghiên cứu kĩ các vấn đề về tình hình tội phạm, về điểm du lịch;
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tại điểm du lịch; nhân thân
người phạm tội; xây dựng phương hướng và biện pháp loại trừ nguyên nhân và
điều kiện tình hình tội phạm tại điểm du lịch và xây dựng nhân cách tích cực
của các công ty lữ hành, du khách, con người tại điểm du lịch và trong xã hội...
1.1.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các
điểm du lịch
Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch tốt thì tạo tiền đề
để góp phần huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật tại
các điểm du lịch, đồng thời để xóa bỏ các tác động tiêu cực đối với xã hội,
hạn chế làm giảm tới mức thấp nhất xảy ra tội phạm trong xã hội. Thực hiện
tốt phòng ngừa tình hình tội TCTS tại đây góp phần thực hiện nghiêm chỉnh
và đầy đủ các Nghị quyết, Chỉ thị, đường lối và Chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Thực hiện tốt, đảm bảo mục đích, yêu cầu sẽ tạo trạng thái tâm lý ổn
định, an toàn trong nhân dân, tại khu dân cư, điểm du lịch; tạo thêm niềm tin
du khách và nhân dân vào nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa, từ đó nâng cao sự
tín nhiệm vào khả năng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Góc độ
rộng hơn, điều này lôi cuốn sự ủng hộ, tích cực vào cuộc và nhiệt tình tham
gia của du khách, quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm tạo ra sự hưởng ứng của xã hội, của du khách, cộng đồng đối
với những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật.
Thông qua việc thực hiện các chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm để thực hiện tốt công tác phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du



17
lịch, bằng cách thường xuyên tổ chức tuyên truyền đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát động tham gia phòng ngừa tình hình tội
phạm và tệ nạn xã hội, vận động gia đình, mọi người xung quang và du khách
cùng thực hiện... góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tích cực tác
động đến các đối tượng thành viên trong gia đình, lôi cuốn mọi người tham gia
phòng ngừa tình hình tội TCTS tại điểm du lịch và các tội phạm khác.
Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch mang đậm ý nghĩa
chính trị xã hội, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, công dân, du khách, tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân và du khách.
Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc,
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về kinh tế do tình hình tội TCTS
tại điểm du lịch gây ra trong xã hội kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà
nước, xã hội phải chi trả để khắc phục hậu quả do tội phạm để lại, từ đó tiết
kiệm được ngân sách Nhà nước, hạn chế có lợi cho sức lao động của các nhân
viên Nhà nước trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và giáo dục cải tạo
người phạm tội.
Thông qua hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình
hình tội TCTS tại các điểm du lịch nói riêng, Nhà nước có thể kiểm soát được
mảng tối của đời sống xã hội là tình hình tội phạm, qua đó nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tăng cao hiệu quả trong hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại
các điểm du lịch
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một loại hoạt động thực tiễn xã hội
có những đặc điểm đặc thù của mình. Cách thức tổ chức và hoạt động của hệ
thống đó phải được xây dựng theo những nguyên tắc nhất định [28, tr.157].



×