Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

ÔN THI cấp 3 NGỮ văn 9 hót TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.76 KB, 8 trang )

Truyện Kiều
A. Nguyễn

- Nguyễn Du

Du và Truyện Kiều

I>Tácgiả
1- Thân thế : Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiện,

quê ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia
đình đại quý tộc thời Lê, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ
tiến sĩ làm tể tướng. Anh là Nguyễn Khản, đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ
chúa.
2- Thời đại : lịch sử đầy biến động của gia đình và xã hội… Triều Lê - Trịnh
sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt "mười năm gió bụi" rồi
về sống ở Hà Tĩnh quê nhà, sống ẩn dật, tự xưng là "Nam Hải điếu đổ", "Hồng
Sơn liệp hộ".
Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại mới. Năm 1802, Gia Long triệu ông
ra làm quan cho nhà Nguyễn. Năm 1813, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ
sang Trung Quốc, có lúc giữ chức Tham tri bộ Lễ, Cần chánh điện đại họcsĩ.
3- Con người : có năng khiếu văn học bẩm sinh, bản thân mồ côi sớm, có những
năm tháng gian truân trôi dạt. Như vậy, năng khiếu văn học bẩm sinh, vốn sống phong
phú kết hợp trong trái tim yêu thương vĩ đại đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du.
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du với những sáng tạo lớn, có giá trị cả về chữ
Hán và chữ Nôm.

II> Tác phẩm
1. Thơ chữ Nôm:
- Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh).- Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng
sinh)- Thác lời trai phường Nón.


2. Thơ chữ Hán:
- Thanh Hiên thi tập.- Nam trung tạp ngâm.- Bắc hành tạp lục.
III> Truyện Kiều
1. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm
Tài Nhân, đời Thanh Trung Quốc để sáng tạo ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ
lục bát. "Truyện Kiều" được xem là kiệt tác số một, "tập đại thành" của nền thơ
ca cổ điển Việt Nam.
2. Cốt truyện
Về đời Minh, có gia đình Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh thành được ba
người con: Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt
trần, riêng Kiều còn có tài thi hoạ, ca, ngâm. Nhân ngày hội đạp thanh ba chị em
Kiều đi chơi xuân, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng "tình trong như đã mặt
ngoài còn e". Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều, nhờ cành kim thoa mà hai người
ước hẹn, thề nguyền dưới trăng "trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". Kim
Trọng phải về Liêu Dương hộ táng chú. Gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải
bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao duyên cho Thuý
Vân rồi theo họ Mã về Lâm Truy. Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà làm nhục.
Kiều vào lầu xanh lần thứ nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ.


Hoạn Thư đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay Bạc Bà,
Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải
chuộc, lấy từ Hải trở thành mệnh phụ phu nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và
Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều bị ép lấy viên thổ quan,
nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng được cứu thoat rồi đi tu. Kim
Trọng trở lại vườn Thuý, kết duyên với Thuý Vân. Kim Trọng và Vương Quan
thi đỗ được bổ đi làm quan. Cả gia đình qua sông Tiền Đường may mắn gặp vãi
Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu. Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng
Kim sau 15 năm trời lưu biệt..
3. Giá trị nội dung

a. Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực
hắc ám tàn bạo, dã man đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như
bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn
ác; lên án mặt trái của đồng tiền hôi tanh...
b. Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc bị
dập vùi, nói lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống
của con người, v.v...
4. Giá trị nghệ thuật
a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với
những tính cách tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác... trong xã hội
phong kiến suy tàn, thối nát.
b. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi
kịch. Lúc miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đối thoại, câu chuyện về nàng Kiều
diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch.
c. Ngôn ngữ thi ca: Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học,
sử dụng điển tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành
ngữ... nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt
mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên
ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du. "Truyện Kiều" xứng đáng là "tiếng thương
như tiếng mẹ ru những ngày" (Tố Hữu).

B. Phan tich:
Bai 1.

Chị em Thúy Kiều ( Nguyễn DU)

I/ VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH

Đoạn trích thuộc phần mở đầu Truyện Kiều, giới thiệu gia cảnh Vương viên
ngoại. Đó là một gia đình trung lưu , có 3 người con. Con trai út là Vương Quan

và hai cô con gái là Thúy Kiều và Thúy Vân . . Đoạn trích gồm 24 câu ( từ câu
15 đến câu 38 ) nói về Chị em Thúy Kiều
II/ BỐ CỤC:

a/4 câu đầu : Khái quát về ngoại hình và cốt cách hai chị em Kiều.
b/4 câu tiếp : Vẻ đẹp của Thúy Vân.
c/16 câu còn lại : Vẻ đẹp của Thúy Kiều


Đọc và hiểu văn bản
1/Đoạn trích kết cấu chặt chẽ thể hiện rõ trình tự miêu tả nhân vật tài tình của
Nguyễn Du :
-Giới thiệu khái quát.
-Tả Thúy Vân để làm nền tả Thúy Kiều.
-Tả tài sắc vẹn toàn, hiếm có của Thúy Kiều.
2/Vẻ đẹp của Thúy Vân :
Ta thấy gì qua việc tác giả chọn trình tự “tả Vân trước rồi mới tả Kiều" ?
Trước tiên tác giả chỉ nói khái quát. Chỉ với “ Mai cốt cách, tuyết tinh thần” ông
đã khái quát được vẻ đẹp chung ai cũng hoàn thiện, toàn mỹ (mười phân vẹn
mười) tuy là “mỗi người một vẻ” với những tính cách rất riêng. Để làm việc này,
tác giả đã dùng bút pháp ước lệ, tuợng trưng, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để làm
chuẩn mực so sánh gián tiếp với vẻ đẹp của Vân,Kiều (mai, mây, tuyết…)
Chỉ với 4 câu miêu tả ngắn gọn, ngòi bút thơ của Nguyễn Du làm hiển thị
một Thúy Vân từ khuôn mặt, nét mày, màu da, mái tóc đến nụ cười của một cô
gái xinh đẹp, thùy mỵ, nết na, dịu dàng, đoan trang, phúc hậu và khiêm nhường .
Biện pháp tu từ ẩn dụ ước lệ, đặc biệt là các từ “trang trọng, đầy đặn, đoan trang,
thua, nhường” đã phác hoạ ra một Thúy Vân phúc hậu, đẹp người đẹp nết và
nhất là đã ngầm dự báo một tương lai sáng sủa của nàng.
3/Vẻ đẹp Thuý Kiều :
III/


Sau khi đã “chiêm ngưỡng” Thuý Vân, ta càng ngưỡng mộ hơn “tài sắc
Thuý Kiều” khi đọc đến “Kiều càng sắc sảo mặn mà. So bề tài sắc lại là phần
hơn”. Thậm chí nếu tác giả không nói thêm một lời nào nữa thì qua Thúy Vân
tuyệt sắc kia ta cũng có thể hình dung ra một Thuý Kiều “tài sắc tuyệt vời” như
thế nào. Cái dụng ý của Nguyễn Du là ở chỗ này.
Vẻ đẹp của Thuý Kiều ẩn chứa trong đôi mắt : “Làn thu thủy, nét xuân
sơn” Ánh mắt trong xanh như làn nước mùa thu. Lông mày xinh tươi như vẻ
núi mùa xuân. Nhan sắc đó đã làm cho hoa, liễu vô tri kia cũng muốn ganh tị,
hờn ghen: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” Nhan sắc ấy đã làm cho
tạo hoá phải ghét lây, các vẻ đẹp khác phải đố kỵ phải chăng để ngầm dự báo
cho một tương lai u ám, đầy éo le đau khổ của Kiều ?
Không chỉ có thừa “chỉ số” về nhan sắc, Kiều còn là một cô gái thông minh
và tài hoa rất mực:
“Thông minh vốn sẵn tính trời.
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Đủ tài “cầm kỳ thi họa” Kiều lại còn là một hảo cầm thủ mà tuyệt xảo là khúc “
Bạc mệnh" mà nàng tự sáng tác ra:
“Cung …. càng não nhân”.
Bằng lối tu từ ẩn dụ, ước lệ, thậm xưng, Nguyễn Du đã dựng nên một bức
tranh tuyệt tác về nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành” của Kiều .
Qua đoạn trích này, Nguyễn Du đã hết sức trân trọng đề cao vẻ đẹp
một con người, một vẻ đẹp hoàn thiện , hoàm mỹ. Đây chính là một trong những
biểu hiện của cảm hứng nhân đạo, nhân văn trong Truyện Kiều vậy.
Đây là đoạn tiếp liền theo đoạn tả vẻ đẹp hai chị em Kiều.Đoạn này tả
cảnh chị em Kiều du xuân trong tiết Thanh minh. Cũng là một lễ hội ngày xuân


theo phong tục Trung Quốc.
IV. Dan y:

Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để so
sánh với vẻ đẹp của con người :
+ Thuý Vân : Đoan trang, phúc hậu, quý phái : hoa cười ngọc thốt, mây thua nước tóc,
tuyết nhường màu da.
+ Thuý Kiều : Sắc sảo mặn mà, làn thu thuỷ, nét xuân xanh, hoa ghen, liễu hờn.
- Dùng lối ẩn dụ để ví von so sánh nhằm làm bật lên vẻ đẹp đài các của hai cô gái mà
qua đó, nhà thơ muốn đề cao vẻ đẹp của con người.
- Thủ pháp đòn bẩy, tả Vân trước, Kiều sau cũng là một bút pháp tài hoa của Nguyễn
Du để nhấn vào nhân vật trung tâm : Thuý Kiều, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của nàng
Kiều cùng những dự báo về nỗi truân chuyên của cuộc đời nàng sau này.
V. Bai viet 1:

Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong “Truyện
Kiều” cña thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu thơ
lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thuý Kiều, Thuý Vân – hai tuyệt
thế giai nhân - với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài
dân tộc.
Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: “Thuý Kiều là chị, em
là Thuý Vân”: Kiều là con đầu lòng của ông bà Vương Viên ngoại. “Hai ả tố
nga” là hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mai (một loài hoa
đẹp và quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc và tâm hồn
hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại có một nét đẹp riêng
“mỗi người một vẻ”. Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng: lấy mai và tuyết làm
chuẩn mực cái đẹp. Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm rõ
cái thần bức chân dung thiếu nữ.
1. Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thuý Vân.
- Với cách sử dụn NT ươc lệ tượng trưng nhân hóa, ẩn dụ, và phép lieetk kê,
thúy vân hiện ra với vẻ đẹp toàn diện từ khuôn mặt, nét ngài đến làn da, mái tóc,
nụ cười. Gương mặt tròn đầy rạng rỡ như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như
hoa. Tiếng nói trong nhu ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da

trắng mịn làm cho tuyết nhường->
- Các từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của
bức chân dung ả tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Đoạn thơ cho thấy một cái
nhìn nhân văn đầy quý mến và trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thuý Vân.
_ vẻ đẹp của Tv sánh ngang với các hình ảnh đẹp đẽ, mĩ lệ nhất trong thiên
nhiên. Vẻ đẹp của tuyệt sắc giai nhân khiến cho thiên nhiên tạo hóa phải thua,
nhường.


2. Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thuý Kiều. Nguyễn Du tả Thuý Vân trước,
tả Thuý Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thuý Vân, dùng đến 12 câu tả Thuý Kiều,
đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.
* Nhan sắc: Vẻ dẹp của Kiều là “sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước
nghiêng thành”. Kiều là tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì
may ra còn có người thứ hai nào đó bằng Kiều: “tài đành họa hai”. Nguyễn Du
dùng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hóa thậm xưng để ca ngợi
và miêu tả nhan sắc Thuý Kiều: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh”.
Mắt đẹp xanh trong nước hồ thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi
mùa xuân. Mỗi hồng má thắm làm cho “hoa ghen”: nước da trắng xinh làm cho
liễu phải “hờn”. Vẫn là vẻ đẹp thiên nhiên (thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu) làm
chuẩn mực cho cái đẹp nhân gian, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy
nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, vẻ
đẹp nhân văn.
Kiểu “thông minh vốn sẵn tính trời”, nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho
nên các môn nghệ thuật như thi, họa, ca ngâm, chỉ là các thú tao nhã nhưng
nàng rất sành điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, “ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:“Thông
minh vốn sẵn tính trời,Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc
ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”.
Kiểu giỏi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là

cây Hồ cầm; tiếng đàn của nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn
biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một “thiên bạc
mệnh” nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành,
đòi một, hoạ hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân
- tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ, dự báo số phận bạc
mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền: “Một vừa hai phải ai ơi! Tài tình chi
lắm cho trời đất ghen”.
Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh của 2 ả tố nga: Tuy là khách “hồng
quần”, đẹp thế, tài thế, lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần “cập kê” nhưng
sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo: “Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông
ong bướm đi về mặc ai”.
Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” độc đáo về thanh điệu, về sử
dụng phụ âm x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “i” (tới tuần), phụ âm “c-k” (cập
kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui êm ấm của thiếu
nữ phòng khuê.
Đoạn thơ nói về “Chị em Thuý Kiều” là một trong những đoạn thơ hay
nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều” được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn


ng th tinh luyn, giu cm xỳc. Nột v hm sỳc, gi cm, nột v no cng cú
thn. Cỏc bin phỏp tu t n d, so sỏnh, nhõn húa c thi ho vn dng thn
tỡnh to nờn nhng vn th c l m tr tỡnh, y cht th. Hm n sau bc
chõn dung m nhõn l c mt tm lũng quý mn trõn trng. ú l ngh thut t
ngi iờu luyn ca thi ho Nguyn Du m ta cm nhn c.
Bai viet 2:
A. Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay
nhất trong Truyện Kiều.Nó tiêu biểu cho bút pháp Nghệ thuật
tả ngời rất tài hoa và cảm hứng nhân văn của thi hào Nguyễn
Du.Tài sắc của Thú Vân, Thuý Kiều nh đợc truyền thần qua

ngòi bút của nhà nghệ sĩ thiên tài.
B. Hai chị em Thuý Kiều có cốt cách thanh tú nh cây hoa
mai, tinh thần trong trắng nh tuyết, mỗi ngời có một vẻ đẹp
riêng mời phân vẹn mời.
1.Thuý Vân , ngời em gái là một giai nhân có phong cách
trang trọng quý phái. Gơng mặt nàng rtơi xing rạng rỡ nh
khuôn trăng đầy đặn . Đôi mày ngài nở nang xinh xăn nh nét
ngài của con bớm tằm. Mắt phợng mày ngài là nét đẹp cua
mỹ nhân xa nay. Thuý Vân có khuôn trăng, nét ngài tuyệt
đẹp:
Vân xem... nở nang
Mỗi vần thơ của Nguyễn Du làm hiện dần lên một nét
đẹp của T.V. Câu thơ t3 gồm 2 ẩn dụ: hoa cời ngọc thôt
đoan trang đã mở ra một thế giới tâm hồn của ngời đẹp.
Miệng nàng cời tơi nh hoa, giọng nói hay, quý, trong nh tiếng
ngọc. Phải có tâm hồn trong sáng, mới có nụ cời xinh tơi, giọng
nói trong và hay, quý nh thế. Đúng nh dân gian có câu:
Co n chim tốt mã hót hay,
Ngời trong giọng nói quyến say bạn tình.
Phong cách của T.V vừa trang trọng vừa đoan trang.Đoan
trang chỉ cách đi đứng, cách ứng xử đúng mực, trang nghiêm,
duyên dáng...Con gái có dung hạnh, có nết đẹp mới có phong
cách đoan trang. Dân gian có câu: Cái răng cái tóc là góc con
ngời, Mặt hoa da phấn...Mia tóc nàng Vân xanh, mợt mà đến
nỗi mây phải thua. Nớc da của nàng trắng, mát mịn màng,
đầy sức sống đến nỗi tuyết phải nhờng. Nguyễn Du đã sử
dụng phép so sánh, thậm xng để miêu tả vẻ đẹp mái tóc, nớc
da của giai nhân :
Mây thua nớc tóc tuyết nhờng màu da.
Nguyễn Du đã sử dụng 4 câu thơ với 6 hình ảnh ẩn dụ....,

2 nét chấm phá trang trọng, đoan trang để làm nổi bật
nhan sắc khác vời của T.V.Nghệ thuật miêu tả ngời của
Nguyễn Du là bút pháp ớc lệ tợng trng, lấy những nét đẹp


chuẩn mực của tự nhiên để so sánh. miêu tả, liên tởng cho con
ngời. Đó là bút pháp ớc lệ tợng trng quen thuộc của văn học Trung
đại. Có điều Nguyễn Du đã rất sáng tạo, tài hoa, khi viết nên
những câu thơ về giai nhân có đờng nét thanh tú, gam màu
tơi sáng, truyền cảm, hài hoà.
2. Miêu tả T.V trớc, Thuý Kiều sau là một dụng ý nghệ
thuật của Nguyễn Du. Tác giả muốn ca ngợi cái sắc sảo mặn
mà, cái phần hơn của cô chị trớc cô em.
Kiều ...hơn
Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều sẽ là một giai nhân
tuyệt thế. Tác giả chỉ sử dụng 14 chữ với 4 nét vẽ để đặc tả
nhan sắc của Thuý Kiều:
Làn...xanh.
ánh mắt của Thuý Kiều trong sáng nh nớc mùa thu gợn
sóng, lông mày thanh tú, tơi đẹp, đầy sức sống nh vẻ núi mùa
xuân. Câu thơ Làn...sơn gồm 2 hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ
đẹp yêu kiều, sắc sảo, thông minh, tâm hồn trong sáng của
Thuý Kiều.
Má Kiều hồng, môi thắm làm cho hoa phải ghen vì thua
thắm. Nớc da nàng trắng trong, mịn màng, mái tóc mợt mà
đầy sức sống...khiến liễu phải hờn vì kém xanh.
Trớc vẻ đẹp của Vân, thiên nhiên mới chỉ thua, phải nhờng.
Vẻ đẹp của Vân đợc tạo hoá chấp nhận, sẵn sàng nhờng bớc
cho nàng đi trong đờng đời. Cuộc đời Vân sẽ hoàn toàn
phẳng lặng, bình yên.

Đến Thuý Kiều thì thiên nhiên đã phải ghen, hờn...bởi lẽ
Kiều là một cành thiên hơng giữa cõi trần. Qua đó, ta thấy
nghệ thuật sử dụng ngôn từ cảu Nguyễn Du rất tinh luyện,
chọn lọc. Cách nhìn, cách tả của tác giả đã dự báo, dự cảm một
tơng lai 3 chìm 7 nổi của Thuý Kiều.
Thuý Kiều có vẻ đẹp nghiêng nớc nghiêng thành. Nhan sắc
của nàng trong thiên hạ có nàng là một. Còn tài năng của nàng,
trong trời đất may có thêm ngời nữa là hai. Nghệ thuật thậm xng đã đặc tả tài năng của Thuý Kiều, một thiếu nữ thông
minh bẩm sinh tính trời, có nhiều tài năng lỗi lạc, nhất là về tài
đàn:
.Pha...một chơng.
Phải có một tâm hồn nghệ sĩ, phải cực kỳ tài hoa mới có
thể pha nghề, đủ mùi về thi ca, nhạc hoạ nh thế.Tiếc rằng,
sắc đã khiến trời đất ghen ghẻt, giờ tài lại tự làm tâm hồn
thêm sầu cảm. Khúc đàn tuổi thơ của Thuý Kiều tên gọi đã
buồn Bạc mệnh, mỗi lúc đánh lên lại càng buồn hơn não nhân.
Đăng sau mỗi câu thơ tự hào, ngợi ca tài sắc cảu Thuý Kiều lại
là lời ngậm ngùi, thơng cảm kín đáo của nhà thơ thiên tài.


C. Hai ả Tố Nga trong Truyện Kiều, đặc biệt là Thuý Kiều
là những đứa con tinh thần cuả nhà thơ.Nhan sắc của Vân,
tài sắc của Kiều đợc nhà thơ cảm nhận và miêu tả bằng bút
pháp nghệ thuật đặc sắc, bằng trái tim nhân đoạ bao la. Các
ẩn dụ, thi liệu bút pháp ớc lệ tợng trng đợc tác giả sử dụng trong
đoạn thơ đã thể hiện một cá tính sáng tạo độc đáo, taì hoa.
Phải yêu thơng, quý trọng con ngơif lắm mới có thể viết về
giai nhân hay, tình cảm nh thế.
.....................................................................................




×