Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.36 KB, 4 trang )

I. MỞ ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật
hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan
hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều
kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta, đặc biệt là sinh viên khối kinh tế, có
thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới; hiểu được
quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước
nhà sau này.
II.
1.

NỘI DUNG
Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiên quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch
sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết
định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sự thay thế kế tiếp nhau của
các phương thức săn xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có “quan hệ song trùng”: một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực
lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người tức là quan hệ sản xuất. Hay nói các khác, phương
thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng.
1.2. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng
sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản
xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.


Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp
với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động”1. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ
năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vất chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kĩ năng lao động của
con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ
của lao động ngày càng tăng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày
càng đóng vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò
quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được
vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy
kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kĩ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn
thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất.
Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa
học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển
đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành
“lực lượng sản xuất trực tiếp”. những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản
xuất mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu cảu khoa học vào
sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phat
triển nhảy vọt, tạo thành một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động
đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể
nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
1.3. Quan hệ sản xuất
1

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1977, t.38, tr. 430.



Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã
hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản
lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ
với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt
động chung và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan
hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với tự nhiên, tức là việc sản xuất” 2. Quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn
định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ
bản, đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định về
quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở
hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung
vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với
người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bốc lột và bị bóc lột. Sở hữu
công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó,
quan hệ giữa người với người trong cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều kiển
quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản suất do
quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức
và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ
chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái
độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
2.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tác rời
nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biên chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt
nguồn từ sự biến đổi và phat triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực
lượng sản xuất trong từng giai đoạn lich sử thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn
lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ
năng lao động của con người, trình độ tổ chức phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản
xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực
lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ
công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt
tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp
với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng
thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả
các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là,
nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một các tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng
sản xuất có sơ sở để pháp triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đều đến một trình độ nhất định là cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù
hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành
“xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát
triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.6,

tr.552.
2


vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có…. Trong đó từ trước đến nay các lực lượng
sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại, một cuộc cách mạng xã hội”.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối
và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác
động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển
và ứng dụng khoa học và công nghệ,… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy
nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải
thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu
tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác
động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã
nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ xã hội chủ nghĩa
và đến xã hội cộng sản tương lai là so sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó có quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
3.

Vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những năm 80 và được triển khai mạnh mẽ
trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay. Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời
cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình

độ phát triển của lực lượng sản xuất vào việc giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết
cho việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản xuất của nước ta lại chậm phát triển, đời
sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong
những nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh chấp. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu…
không đạt chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ trong cả nước và
nước ngoài. Hệ thống tài chính - ngân hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm,
cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài giảm, công tác quản lý, điều hành công tác này còn nhiều vướng mắc và thiếu sót.
Quan hệ một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chỉ đạo, chưa
có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và
nông thôn còn ở mức cao. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa được đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn
thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi
những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác
dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, nhà nước ta đã không
thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Điều đó là hoàn toàn mâu thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất. để khắc phục những mâu thuẫn có thể phát sinh đòi hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất mới với
những hình thức và bước đi phù hợp và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Những chính sách mới của đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển một cách mạnh
mẽ. Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế nước ta


sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh buôn bán, các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và
cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng trước pháp luật…Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là thúc đẩy
nền kinh tế nước nhà.
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, chúng ta sẽ đi phân tích nền sản xuất nông
nghiệp trong thời gian này. tại đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã nhận định:"…Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không
chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những
yếu tố đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất”3
Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng, không thể cho rằng những yếu tố tiên tiến của quan
hệ sản xuất mãi là tiền đề sự thúc đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động
tích cực trong một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời gian chuẩn bị vào những năm đầu bước vào quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã làm rõ nhận định trên của Đảng.
Tại thời điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng nông thôn bị đói kém.
Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất chậm phát triển là do giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó thể hiện giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất
theo hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán.
Theo một số nhà nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và mâu thuẫn là phổ biến trong các nền sản xuất. Khi nền
sản xuất xã hội phát triển đến trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu nhỏ không thể nào tồn tại như cũ, nó
buộc phải thay đổi.
Nhìn lại quá trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây, Đảng ta đã rút ra được sự cần thiết của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tại Đại hội IX Đảng ta nhận định: "Cần phải nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết Công nghiệp và nông
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn, phát triển các loại hình trang trại quy mô phù hợp trên

từng địa bàn".4 Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng của các thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý với
nhiều hình thức sản xuất nông nghiệp mới phù hợp với những quan điểm đổi mới không ngừng của Đảng và
nhờ đó, tạo ra sự biến đổi mới trong các Hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Điều đó
càng khẳng định ý nghĩa to lớn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Trước hết sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản xuất ngày càng cao (năm sau cao hơn
năm trước), mặc dù đất bị thiên tai nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế trong
khu vực và trên thế giới.
Điều quan trọng nữa, khi nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất không thể không nhìn vào đời
sống của nông dân, thực tế cho thế qua nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề ra, đời sống của
nông dân từng bước được nâng cao, điều kiện nhà ở và học tập của con em nông dân cũng khá hơn trước.
Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển không? Lực lượng sản xuất có phát triển không đó chính là
tiêu thức để đánh giá sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Một
quy luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi quốc gia.
III. KẾT LUẬN
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy
luật chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực
lượng sản xuất còn là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản xuất lại thường có tính
ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất
không có những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Như vậy, trong việc xác
lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về
mặt tính chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay của quá trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).

3

Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb sự thật, HN, 1987, tr.57.


4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 32.



×