Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Quan niệm về đạo đức và pháp quyền trong triết học immanuel kant

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LẠI THỊ MAI

QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LẠI THỊ MAI

QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. HOÀNG THỊ HẠNH

Hà Nội - 2018




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 7
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu....................................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7
CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN CỦA KANT .................................. 8
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................... 8
1.2. Những tiền đề lý luận hình thành quan niệm đạo đức và pháp quyền
của Kant ...................................................................................................... 11
1.3. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Kant ........................................ 21
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC, PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC KANT.................................................................... 27
2.1. Quan niệm của Kant về đạo đức ......................................................... 27
2.1.1. “Tự do” phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant .................. 29
2.1.2. Các quy luật hay định lý xác định hành vi đạo đức ............................. 36
2.1.3. Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của Kant................................ 43
2.1.4. Sự thiện tối cao trong đạo đức học của Kant ...................................... 50
2.2. Quan niệm của Kant về pháp quyền .................................................. 56
2.2.1. Mục đích của triết học pháp quyền ..................................................... 57
2.2.2. Trách nhiệm pháp lý ........................................................................... 65
2.2.3. Các quyền cơ bản trong triết học pháp quyền ..................................... 76
2.2.4. Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà nước .......................... 81



CHƢƠNG 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC KANT.................................................................... 90
3.1. Đạo đức - cơ sở hình thành pháp quyền ............................................. 90
3.2. Triết học pháp quyền của Kant - sự tiếp tục triển khai những nguyên
lý của triết học đạo đức trong thực tiễn .................................................... 95
3.3. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền của Kant 99
3.3.1. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức của Kant ................... 99
3.3.2. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về pháp quyền của Kant ............ 101
3.4. ý nghĩa của việc nghiên cứu tƣ tƣởng về đạo đức và pháp quyền
trong triết học Kant đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................................... 104
KẾT LUẬN ............................................................................................... 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 113


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kant người sáng lập triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng vĩ đại mà cho
đến ngày nay những tác phẩm của Kant vẫn đang được các nhà nghiên cứu
quan tâm và tìm hiểu. Các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học, các
luận văn, luận án tiến sĩ, các sách chuyên khảo về ông vẫn đều đặn được in ra.
Bởi di sản của ông để lại hết sức phong phú và phức tạp đi vào nhiều vấn đề,
nhiều khía cạnh, nêu lên những ý tưởng mới, trừu tượng, nhiều mâu thuẫn.
Cho đến nay dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về Kant nhưng không phải
ai cũng hiểu ông một cách hoàn toàn giống nhau, người ta có thể chấp nhận
hoặc phê phán ông từ nhiều phía khác nhau. Nhưng dù phê phán thế nào thì
người ta cũng đều thừa nhận rằng Kant là nhà triết học, nhà văn hóa vĩ đại của
nhân loại. Nhiều tư tưởng của ông từng là cơ sở cho không ít quan niệm triết học
và các cuộc tranh luận trên thế giới. Trong đó tư tưởng về đạo đức và pháp

quyền là một trong những vấn đề cốt yếu trong triết học thực tiễn của Kant.
Kant đã đặt ra và giải quyết hàng loạt các vấn đề thực tiễn không chỉ
ảnh hưởng tới sự phát triển tư tưởng triết học Châu Âu mà còn trên khắp thế
giới và cho đến ngày nay vẫn là vấn đề cấp thiết và cần được nghiên cứu.
Trên cơ sở tài liệu mà nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu về nhiều vấn đề
trong đó có những vấn đề thuộc lĩnh vực triết học thực tiễn của Kant như đạo
đức và pháp quyền. Tác giả luận văn muốn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề đạo
đức và pháp quyền trong triết học của Kant.
Trong thời đại ngày nay với sự bùng nổ của tri thức khoa học con
người đang đứng trước nghịch lý, mâu thuẫn không dễ giải quyết. Cùng với
sự phát triển của tri thức khoa học, phương tiện công nghệ mới, đời sống vật
chất tuy được đảm bảo, nhưng con người ngày càng xuống cấp suy thoái về

1


mặt đạo đức, bất chấp pháp luật. Mất phương hướng trong nhiều vấn đề của
cuộc sống, sinh thái môi trường, chiến tranh, xung đột sắc tộc, khoảng cách
giàu nghèo, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, con người dùng chính những
thành tựu khoa học công nghệ để chống lại loài người.
Vì vậy vấn đề đạo đức và pháp quyền càng cần được nghiên cứu và là
vấn đề vô cùng cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng mang tính thời đại. Pháp
quyền hiện thân của nó là nhà nước ấn định trình độ tổ chức thực tiễn đạo
đức. Với những ai phủ nhận sạch trơn pháp quyền, thì sự rao giảng đạo đức sẽ
mất đi những cầu nối và điểm tựa trong môi trường thực tế. Từ những lý do
nhận thức và thực tiễn đó tôi chọn đề tài“Quan niệm về đạo đức và pháp
quyền trong triết học Immanuel Kant”để làm luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của Kant
về đạo đạo và pháp quyền.

Nhóm các công trình bàn về vấn đề đạo đức phải kể đến“Triết học cổ
điển Đức:Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học”. Đây là những bài
viết của nhiều tác giả được in thành “Kỷ yếu hội thảo quốc tế”, kỷ niệm 200
năm ngày mất của Kant. Kỷ yếu có nhiều bài viết về đạo đức học, tiêu biểu
phải kể đến“Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện thời của nó” của
Nguyễn Trọng Chuẩn.“Triết học đạo đức của Cantơ và ảnh hưởng của nó đối
với nền triết học phương Tây” của Ngô Thị Mỹ Dung, “Chủ nghĩa nhân đạo
trong đạo đức học của I.Cantơ:Aỏ tưởng hay hiện thực?(Qua phân tích ý
tưởng của I.Cantơ về một nền hòa bình vĩnh cửu) của Nguyễn Quang Hưng
hay “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim
Lai.“Đạo đức học Cantơ và tư tưởng văn hóa hòa bình” của Vũ Thị Thu Lan.
“I.Cantơ và phạm trù nghĩa vụ đạo đức” của Võ Minh Tuấn. Những bài viết
này đã tập trung làm rõ những nội dung và ý nghĩa của đạo đức học Kant như:
2


Bổn phận và nghĩa vụ đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối, lý tưởng về một nền hòa
bình vĩnh cửu, tự do ý chí. Đó là những đóng góp có giá trị cho việc nghiên
cứu có tính hệ thống hơn quan niệm về đạo đức của Kant.
Bên cạnh đó cũng có nhiều công trình khác nghiên cứu về đạo đức học
của Kant như cuốn sách mang tên“Triết học Kant” của Trần Thái Đỉnh được
nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 1972. Ở đây Trần Thái Đỉnh đã
trình bày toàn bộ hệ thống triết học Kant một cách cụ thể, sâu sắc, thông qua
các tác phẩm của triết gia này, nội dung cuốn sách đề cập đến là quan niệm
của Kant về nguyên tắc, động cơ, đối tượng, mệnh lệnh của lý tính thực hành.
Tiếp theo là công trình của Nguyễn Văn Huyên mang tên“Triết học
Imanuen Cantơ” được nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1996, học
giả đã hệ thống lại toàn bộ triết học Kant. Ngoài ra còn kể đến các nghiên cứu
của Nguyễn Huy Hoàng với tác phẩm “Chân dung triết gia Đức” (2000).
Hay những nghiên cứu về đạo đức học của Kant của tác giả Vũ Thị Thu Lan

được thể hiện trong luận văn thạc sỹ với đề tài “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo
đức học của Cantơ” (2004). Lê Công Sự trong tác phẩm“Triết học cổ điển
Đức” (2006) của nhà xuất bản Thế giới. Nhìn chung các tác phẩm này đã
đánh giá khá toàn diện và sâu sắc về đạo đức học của Kant.
Gần đây luận án tiến sỹ của Vũ Thị Thu Lan với đề tài “Đạo đức học
của Kant và những giá trị, hạn chế của nó” (2010). Trong luận án trên Vũ
Thị Thu Lan đã khái quát những phạm trù cơ bản của đạo đức học Kant như:
Thiên hướng, ý chí, lý tính thực tiễn, nguyên tắc... Tác giả đi sâu làm rõ vấn
đề mệnh lệnh tuyệt đối, thấy được Kant xây dựng đạo đức học như một khoa
học, làm sâu sắc hơn hệ thống các phạm trù.
Nhóm các công trình nghiên cứu về pháp quyền của triết học Kant
có“Một số quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương
Tây”của Nguyễn Vũ Hảo, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, được
3


nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2012. Tác giả đã khái
quát các tư tưởng về nhà nước pháp quyền từ thời kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại
tới thời kỳ cận hiện đại ở phương Tây trong đó nêu lên đóng góp của Kant
cho việc xây dựng và phát triển học thuyết về nhà nước pháp quyền.
“Quan niệm của I.Kant về pháp quyền trong nhà nước với tư cách
cộng đồng luật pháp” của Đặng Hữu Toàn được in trong Kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc tế (2012). Tác giả đi sâu phân tích nhiều khía cạnh vấn đề nhà
nước với tư cách cộng đồng luật pháp về vai trò của pháp quyền trong nhà
nước, quan niệm của Kant về một nhà nước lý tưởng.
Cùng bàn về vấn đề triết học pháp quyền cuốn sách“Triết học chính trị
xã hội của I. Kant, J.G. Fichte và G.W.F. Hegel” của Nguyễn Quang Hưng
được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2013. Tác giả đã
làm rõ nhiều vấn đề nêu lên tư tưởng quan trọng trong quan niệm về pháp
quyền của Kant, phân tích các quyền riêng tư, quyền con người, luật công,

trình bày rõ các hình thức quyền lực nhà nước mà Kant đã kế thừa từ các bậc
tiền bối nhất là các nhà khai sáng Pháp Montesquieu và Rousseau về phân
chia quyền lực trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
“Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XX”,được nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật ấn hành năm 2016 của Ngô
Thị Mỹ Dung. Trong đó tác giả đã cố gắng trình bày và phân tích một cách có
hệ thống tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX,
tác giả phân tích một cách cơ bản vấn đề nhà nước và pháp luật, triết học pháp
quyền. Theo tác giả, Kant đã khẳng định quyền tự nhiên, nghĩa vụ của con
người cũng như hình thức và quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho những
quyền và nghĩa vụ đó được thực thi. Con người trong triết học pháp quyền
của Kant được hiểu là chủ thể độc lập, chủ thể tự quyết và tự ban hành luật.

4


Nhóm những công trình bàn về mối quan hệ giữa pháp quyền và đạo
đức có: “Mối quan hệ giữa triết học đạo đức và triết học pháp quyền trong
triết học Immanuel Kant” của Ngô Thị Mỹ Dung được đăng trên Tạp chí
Khoa học xã hội, Viện KHXH vùng Nam bộ, số 05, 2007, tr.17 -21. Trong bài
viết này, tác giả trình bày nội dung cơ bản triết học đạo đức và triết học pháp
quyền của Kant. Theo tác giả triết học pháp quyền của Kant là sự tiếp tục
triển khai những nguyên lý của triết học đạo đức trong thực tiễn.
Tiếp theo là “Quan hệ giữa đạo đức với các lĩnh vực đời sống xã hội
khác trong quan điểm đạo đức học của Kant” của Nguyễn Văn Sanh. In trong
tác phẩm “Triết học cổ điển đức những vấn đề nhận thức luận và đạo đức
học”. Ở đây tác giả khái quát quan niệm của Kant về mối quan hệ giữa đạo
đức với các lĩnh vực đời sống xã hội như quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo,
đạo đức và văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật để thấy
Kant đã làm sáng tỏ tính đặc thù của đạo đức theo sự phân định với pháp luật,

động lực bên ngoài và bên trong của hành vi xã hội.
Trong luận văn có phần giới thiệu về điều kiện, tiền đề, sự ra đời triết
học Kant cũng như tiểu sử của ông. Về vấn đề này luận văn chủ yếu khai thác
các tài liệu như “I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của
Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên). Will Durant (1994), “Tuyển tập danh tác
triết học từ Plato đến Derrida”, Ted Honderich (chủ biên) (2002). Câu
chuyện triết học (qua chân dung Plato Aristote Bacon Kant Spinoza Volttaire
Spencer), Samuel Enoch Stumpf (2004), “Lịch sử triết học và các luận đề”,
Nxb lao động. Forrest E. Baird (2006), Hành trình cùng triết học, Nhà xuất
bản văn hóa thông tin Hà Nội. Phần cuối tập 2 của “Phê phán lý tính thuần
túy” của Immanuel Kant do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải xuất bản
2014.

5


Các công trình, bài viết của các tác giả trước đó về Kant có ưu điểm đã
phân tích và chỉ rõ thế nào là đạo đức, bản chất, đặc điểm trong quan niệm
của Kant. Bàn về triết học thực tiễn của Kant có rất nhiều đề tài, nhưng chưa
có đề tài nào nghiên cứu sâu, hệ thống hóa cả về đạo đức và pháp quyền trong
triết học Kant, đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng, vì lý do đó nên tác giả luận
văn muốn góp phần làm rõ hơn quan niệm của Kant về triết học đạo đức và
triết học pháp quyền làm cơ sở giải quyết các vấn đề đời sống xã hội Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn là: Phân tích những điều kiện, tiền đề hình
thành quan niệm đạo đức và pháp quyền, làm rõ những nội dung cơ bản về
đạo đức và pháp quyền, mối quan hệ giữa chúng trong triết học Kant, qua đó
chỉ ra giá trị và hạn chế của nó.
- Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:

+ Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng đạo đức và pháp
quyền trong triết học Kant.
+ Phân tích những quan niệm cơ bản về đạo đức và pháp quyền, mối
quan hệ giữa chúng trong triết học Kant.
+ Chỉ ra giá trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền
của Kant.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quan niệm về đạo đức và pháp
quyền trong triết học Kant.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các nội
dung cơ bản về đạo đức và pháp quyền trong triết học Kant.

6


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh để qua đó tiếp cận nghiên cứu nội dung đạo
đức và pháp quyền trong triết học Kant.
+ Luận văn tiếp cận vấn đề trên cơ sở phân tích quan điểm của Kant về
đạo đức và pháp quyền trong các tác phẩm chủ yếu như: Phê phán lý tính thực
hành, Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán khả năng suy diễn, Hướng tới một
nền hòa bình vĩnh cửu.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng cách tiếp cận khách quan, biện chứng
+ Luận văn vận dụng phương pháp triết học chủ yếu như phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống nhất logic và lịch sử, phương pháp khái quát hóa,
trừu tượng hóa, phương pháp thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn cho thấy rõ ràng, sâu sắc hơn quan niệm

của Kant về đạo đức và pháp quyền, những điều liên quan trực tiếp tới cuộc
sống hiện thực, thêm vào đó cũng thấy con người ngày càng đánh mất tự do,
đạo đức, bất chấp pháp luật. Luận văn phân tích rõ mối quan hệ, sự tác động
giữa đạo đức và pháp quyền, chỉ ra những giá trị và hạn chế chủ yếu trong
quan niệm về đạo đức và pháp quyền của Kant.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập
và nghiên cứu các môn lịch sử triết học, triết học Mác - Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 8 tiết.
7


CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN CỦA KANT
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội
Triết học Kant ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nước Đức hết sức rối ren
và đầy mâu thuẫn. Lịch sử châu Âu đã cho thấy, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX điều kiện kinh tế - xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự thắng
lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa tầng lớp tư sản lên nắm
quyền thống trị, quan hệ phong kiến tồn tại dai dẳng trong lịch sử đã trở nên
lỗi thời.
Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh,
Pháp... đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Những
thành tựu kinh tế mà đỉnh cao là cách mạng công nghiệp ở Anh càng khẳng
định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới cùng với
cuộc cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở
đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại. Những thành tựu
về kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục tạo điều kiện, tiền đề quan trọng cho
sự phát triển khoa học nói chung, triết học nói riêng. Những tiến bộ của khoa
học với việc phát minh ra điện tạo bước nhảy vọt từ công trường thủ công tới

công nghiệp cơ khí. Bên cạnh sự phát triển của khoa học như một nhu cầu
lịch sử, triết học thâm nhập vào cuộc sống, tìm tòi và khám phá sức mạnh lý
tính con người, trong đó triết học I.Kant là một ví dụ điển hình cho khuynh
hướng đó.
Trong khi nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt, thì ở
nước Đức cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, sự
phân tán về kinh tế và chính trị là lực cản lớn của nước Đức trên con đường
phát triển tư bản chủ nghĩa. Nước Đức nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn, suốt từ năm 1618 đến năm
8


1648 xảy ra liên tiếp các cuộc chiến tranh với nước láng giềng làm tình hình
đất nước kiệt quệ, trì trệ. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, hà khắc, tư tưởng dân
chủ, tiến bộ bị chèn ép. Nước Đức so với các nước châu Âu khác như Anh lạc
hậu hơn 200 năm, với Pháp 50 năm.
Về kinh tế, nền kinh tế bị ràng buộc bởi quan hệ sản xuất phong kiến
lạc hậu, ruộng đất tập trung chủ yếu trong tay các địa chủ, những tàn dư của
chế độ nông nô khiến cho năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân hết sức
bấp bênh, khốn khổ và cùng cực.
Về chính trị, triều đình Phổ đứng đầu là Vua Friedrich Wilhem II rất
bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ chuyên
chế hà khắc, dã man.
Về tư tưởng, hệ tư tưởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý
luận. Thần học là khoa học cơ bản trong các trường đại học tổng hợp, triết
học thỏa hiệp với tôn giáo.
Trước một thực trạng xã hội rối ren, phức tạp và mâu thuẫn chồng chất,
mặc dù kinh tế, chính trị nước Đức thời kỳ này còn lạc hậu, nhưng triết học,
nghệ thuật và văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Nước Đức là nơi sinh ra
nhiều nhà tư tưởng nhà văn nổi tiếng như Gớt, Sinlơ, Hécđơ…Fichte những

tác phẩm của họ toát lên tinh thần bất thuận và thái độ phẫn nộ đối với sự bất
công trong xã hội đương thời. Giai cấp tư sản Đức ra đời muộn hơn so với
nước khác cho nên đã tiếp thu được kinh nghiệm của các dân tộc đi trước, kế
thừa có chọn lọc, phát triển trong điều kiện của mình, bất chấp sự khó khăn về
vật chất, tri thức và tư tưởng có sự tiến bộ xa hơn. Mặc dù bị nước Anh và
Pháp vượt xa về kinh tế, song nước Đức với cuộc cách mạng trong lĩnh vực lý
trí đạt nhiều thành tựu về văn hóa triết học.

9


Thời kỳ này mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên cao, mâu thuẫn giữa lý tưởng
và hiện thực xã hội. Nước Đức tuy lạc hậu hơn hẳn về kinh tế và chính trị dẫn
đến mâu thuẫn xã hội càng khó giải quyết. Một mặt các triết gia Đức thừa
nhận tiến trình lịch sử là không thể đảo ngược nhưng mặt khác các triết gia
Đức không chấp nhận cái giá phải trả cho tự do và dân chủ.
Các nhà tư tưởng Đức lấy tư duy triết học làm vũ khí phê phán và
chuyển tải tư tưởng cách mạng, đối với họ triết học là nơi thể hiện khát vọng
cải tạo hiện thực của con người. Những thành tựu tiêu biểu nhất mà các nhà
triết học Đức đạt được trong thời kỳ này là phép biện chứng. Thực tiễn đặt ra
nhu cầu phải thay đổi tư duy. Các nhà triết học Đức dưới tác động của chuyển
biến kinh tế, chính trị xã hội tại Anh, Pháp đã tìm cách thay đổi tư duy. Trong
xã hội tư bản phép biện chứng thâm nhập trong mọi khoa học, thể hiện tính
năng động và phát triển của thời đại, tồn tại trong hệ thống duy tâm, tư tưởng
tiến bộ, cách mạng hòa chung với các yếu tố bảo thủ.
Tính chất cải lương thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí thức
Đức đương thời đã có ảnh hưởng lớn đến Kant. Bối cảnh lịch sử, tiền đề thực
tiễn của triết học Kant là cách mạng Pháp và hiện thực nước Đức nửa sau thế
kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Cách mạng Pháp, lý tưởng của các nhà khai
sáng được hiện thực hóa, tác động không nhỏ đến định hướng về dân chủ, nhân

văn trong triết học Kant, khơi dậy tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ
nghĩa giáo điều và bảo thủ trong khoa học lẫn chính trị. Triết học Kant được ví
như “triết học Đức của cách mạng Pháp”, vì sao vậy? Như trên cũng đã nói,
hiện thực nước Đức được thể hiện ở hệ thống triết học Kant một mặt phản ánh
khát vọng chiến thắng lý trí trước những điều phi lý, muốn vượt qua cuộc sống
hiện thực khắc nghiệt. Mặt khác chịu ảnh hưởng của hiện thực, buộc nhà triết
học phải chấp nhận giới hạn của sự tự do, tuân thủ các chuẩn mực phổ biến đã

10


trở thành “mệnh lệnh tuyệt đối”. Mâu thuẫn của triết học Kant cũng chính là
mâu thuẫn của thực tại được tái hiện lại trong hệ thống lý luận.
Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận rằng triết học thực tiễn
của Kant (trong đó có tư tưởng về đạo đức và pháp quyền) là sản phẩm tất
yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội Đức với những mâu
thuẫn phát sinh trong lòng xã hội đó.
1.2. Những tiền đề lý luận hình thành quan niệm đạo đức và pháp
quyền của Kant
Cũng như những hệ thống triết học khác, triết học Kant không phải là
sản phẩm thuần túy của tư duy cá thể, mà có sự kế thừa chọn lọc, tinh hoa trí
tuệ nhân loại của các tư tưởng, quan điểm, các trường phái triết học trước đó,
có phê phán, lựa chọn và phát triển những tư tưởng mới, thể hiện sự phát triển
tất yếu của lịch sử. Sau thế kỷ XVIII sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của
khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm dần khẳng định vai trò của mình,
làm lu mờ phương pháp tư duy siêu hình cũ. Sự ra đời về thuyết nguyên tử
của Danton (1766 - 1844), phát minh về điện của Galvani (1737 - 1798), học
thuyết về sự xuất hiện tự nhiên của trái đất từ những hạt tinh vân đầu tiên của
Laplace (1749 - 1827) đánh vào thành trì quan niệm “phi vật chất”. Những

thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của triết học Kant.
Bối cảnh lịch sử và tư tưởng của các nhà triết học ảnh hưởng mạnh mẽ
tới triết học Kant thể hiện trong những tác phẩm của ông ở hai thời kỳ chính
là tiền phê phán, và thời kỳ phê phán. Trong đó phải kể đến triết học Hy Lạp
La Mã cổ đại với những quan điểm của Socrate, Plato, Aristotle hay sau này
là các nhà khai sáng pháp như Rousseau…Cùng với đó triết học Kant ra đời,
hình thành và phát triển còn dưới sự ảnh hưởng bởi tư tưởng của các bậc tiền
11


bối trong lịch sử tại Pháp, Anh, Đức với những khám phá mới trong khoa học,
thiên văn học, vật lý.
Nhà triết học Socrate (470 - 399 Tr.CN) người thầy của Plato, là một
triết gia nổi tiếng đặc biệt quan tâm tới những vấn đề về con người, ông cho
rằng triết học không có gì khác là sự nhận thức của con người về chính bản
thân mình, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi người là nhận thức được điều
thiện, điều ác. Đề cao vai trò tri thức khái niệm trong hoạt động của con
người, nền tảng đức hạnh chính là tri thức. Kết quả của sự dốt nát, ngu ngốc
là những hành vi trái với đạo đức. Muốn đến được với tri thức thì con người
cần hoàn thiện nhân cách, phân biệt rõ ràng giữa cái thiện và cái ác, hạnh
phúc chính là đức hạnh.
Người nào nhận thức được đức hạnh là gì thì mới hiểu được hạnh phúc
là gì. Kết quả của sự không hiểu biết cái thiện chính là cái ác và bất hạnh.
Socrate bàn nhiều đến khía cạnh đạo đức trong triết học của mình, nền tảng
của đạo đức chính là chân lý và tri thức. Đóng góp lớn nhất trong triết học của
Socrate là thấy được mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận trong hoạt động
thực hành đạo đức của con người. Điểm nổi bật trong triết học của Socrate là
việc đề cao tri thức, đạo đức của con người là vấn đề trung tâm mà sau này
trong triết học đạo đức của Kant bàn nhiều tới vấn đề cái thiện, đạo đức, đức

hạnh và sự tự do của con người.
Bên cạnh quan niệm về đạo đức, Socrate còn đề cập đến tư tưởng về
pháp luật, theo Socrate luật pháp không thể tồn tại bên ngoài nhà nước, muốn
có công bằng phải phục tùng pháp luật, luật pháp là điều kiện cần thiết để
duy trì sự tồn tại của nhà nước. Ông viết: “bất cứ một đạo luật nào, mặc dù
còn thiếu sót đến đâu, cũng mang tính cứu sinh hơn tình trạng phạm pháp.
Nếu như mọi công dân đều tuân thủ theo pháp luật, thì nhà nước mà trong đó
họ đang sống sẽ trở nên hùng mạnh và phồn thịnh hơn nhiều” [Dẫn theo 74,
12


tr.3]. Dân chủ không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực, giá
trị cao nhất là công lý, nghĩa là người ta tuân thủ pháp luật nhà nước. Tư
tưởng đề cao pháp luật đó, sau này Kant tiếp thu và phát triển trong hệ thống
tư tưởng pháp quyền của mình.
Một trong những học trò xuất sắc của Socrate là Plato triết gia vĩ đại
với nhiều ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại. Trong
hệ thống tư tưởng của mình Plato bàn về khía cạnh đạo đức. Ông cho rằng,
nhân cách đạo đức con người chỉ có thể có trong một nhà nước lý tưởng.
Quan niệm đạo đức của Plato thiên về tính chất xã hội. Trong xã hội, Plato
chia làm ba hạng người tương ứng với mỗi hạng người đó là phần linh hồn
của con người. Hạng người được xếp vị trí cao nhất trong xã hội đó là những
nhà triết học, những nhà thông thái, họ am hiểu mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hoạt động của họ chủ yếu chịu ảnh hưởng của lý tính. Họ là những người
nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong nhà nước lý tưởng, có thể lãnh đạo nhà
nước lý tưởng, biết kiềm chế cảm xúc, có ước mơ và lý tưởng sống hướng đến
cái cao cả, công lý.
Hạng người thứ hai trong xã hội mà Plato đề cập đến là những người
lính làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội cho nhà nước lý
tưởng, bên trong linh hồn của họ là lòng gan dạ, ý chí quật cường. Hạng

người thấp nhất trong xã hội đó là những người nông dân, những thợ thủ
công, chịu sự chi phối của cảm tính, họ phù hợp với công việc lao động chân
tay vì bản tính khi mới ra đời họ đã được gần với các sự vật cảm tính rồi,
những người sống chủ yếu bằng cảm tính để sản xuất ra của cải vật chất đảm
bảo điều kiện, nhu cầu sống của bộ máy nhà nước, họ là lực lượng lao động
chính trong xã hội.
Theo Plato trong xã hội không thể thiếu một trong ba hạng người đó, xã
hội muốn tồn tại phải duy trì sự tồn tại của cả ba hạng người, mỗi người phải
13


làm đúng và đủ bổn phận trách nhiệm của mình, từ đó dẫn dắt con người
hướng đến hành động những điều thiện. Điều ác sinh ra từ sở hữu cá thể, sở
hữu tư nhân, vì vậy điều cần làm ở xã hội lý tưởng là phải dẹp bỏ sở hữu tư
nhân, đó là nguyên nhân chính sinh ra tính ích kỷ, làm phát sinh tình trạng bất
hòa giữa người với người. Mỗi cá nhân trong xã hội phải sống vì nhà nước,
coi nhà nước là mục đích cao nhất. Hệ thống quan niệm đạo đức có tác động
đến Kant sau này khi ông bàn về các vấn đề thượng đế, phạm trù tự do, linh
hồn con người.
Về nhà nước pháp quyền trong tác phẩm “Nền cộng hòa” Plato cho
rằng, người cầm quyền phải gạt ý chí, quyền lợi cá nhân của bản thân sang
một bên để tuân thủ ý chí, mục đích của pháp luật. Plato thấy sự suy tàn
nhanh chóng của nhà nước, nơi nào mà pháp luật không có hiệu lực và nằm
dưới quyền lực của một người nào đó. Còn ở đâu mà pháp luật đứng trên nhà
cầm quyền, còn họ chỉ là nô lệ của pháp luật thì có sự cứu thoát của nhà nước.
Trong tác phẩm “Nền cộng hòa” Plato thấy tính giai cấp của pháp luật và cho
rằng pháp luật được làm bởi đảng cầm quyền vì lợi ích riêng của đảng ấy. Có
thể thấy rằng, Plato cảm nhận được sự nguy hại của chính thể quân chủ
chuyên chế, lên tiếng bảo vệ cho một hệ thống pháp luật được xây dựng trên
chính thể dân chủ cộng hòa. Plato cho rằng phải coi pháp luật là tối thượng,

chiếm vai trò hàng đầu, đề cao sự tự nguyện, tự giác của mỗi người trong việc
chấp hành luật và chính là tư tưởng đề cao pháp luật này đến triết học Kant
cũng đã đề cập đến. Kant cũng đề cao vai trò của pháp luật, sự tự giác của
mỗi người.
Aristotle bộ óc bách khoa toàn thư của triết học Hy Lạp cổ đại, một
trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại, là học
trò của Plato với phương châm “thầy là đáng quý, nhưng chân lý quý hơn”,
Aristotle phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Plato. Aristotle quan tâm

14


nhiều tới nhân bản học, quan niệm về con người, Aristotle quan niệm hai bộ
phận cấu thành con người là linh hồn và thể xác, trong linh hồn con người tồn
tại ba dạng, linh hồn thực vật, linh hồn động vật và linh hồn lý tính khi con
người chết đi thì linh hồn lý tính vẫn luôn tồn tại. Khi bàn tới lĩnh vực đạo
đức học, Aristotle cũng kế thừa một số vấn đề đạo đức của Plato về cái thiện.
Aristotle cho rằng mục đích cuộc sống chính là hướng thiện, nền tảng đạo đức
là thuyết mục đích luận, cái thiện chính là hạnh phúc. Bên cạnh cái thiện còn
tồn tại vấn đề về tự do, tự do ở đây được Aristotle hiểu là sự lựa chọn hành vi
đạo đức để đạt được cái thiện, những hành vi mang tính tự do lựa chọn có ý
thức và phải phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, phạm trù tiếp theo mà
Aristotle bàn đến chính là nhân đức, con người muốn có nhân đức thì phải có
những thói quen tốt.
Aristotle hiểu nhân đức như thế nào? Ông cho rằng có hai loại nhân
đức đó là nhân đức đạo đức và nhân đức tri thức. Muốn có nhân đức tri thức
con người cần phải học tập và được giáo dục, nhân đức đạo đức do tập quán
thói quen mà thành, Aristotle cho rằng hành vi của con người như trộm cắp,
giết người cần phải loại bỏ để có nhân đức. Tư tưởng về cái thiện và hành vi
đạo đức của Aristotle sau này đã được Kant kế thừa và phát triển.

Không chỉ bàn về các vấn đề đạo đức Aristotle còn bàn về vấn đề pháp
quyền, nhà nước. Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào thế kỷ thứ IV trước
công nguyên là cơ sở thực tiễn cho ông đi đến những quan điểm về nhà nước
với tư tưởng chia hoạt động nhà nước thành ba thành tố hay ba phương diện:
lập pháp, hành chính và phân xử. Aristotle cho rằng nhà nước là một tổ chức
phức tạp, tập hợp những cá thể khác nhau về nhiệm vụ, tài sản, phẩm chất đạo
đức, trình độ hiểu biết, luật pháp không phải là cái có sẵn mà xây dựng nên từ
những giá trị truyền thống, phong tục tập quán lâu đời, có tính chất bền vững.
Trong nhà nước luật pháp phải giữ vị trí tối thượng: “hãy để luật pháp, chứ

15


không phải con người có quyền tối thượng, vì con người luôn luôn để tư lợi
và tình cảm xen vào” [1,tr.24].
Bước sang triết học thời kỳ cận đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII với những
đại biểu tiêu biểu như Phranxis Becon nhà triết học vĩ đại thời cận đại của chủ
nghĩa duy vật Anh. Becon bàn về quan niệm đạo đức chủ yếu đề cập trong
vấn đề con người. Con người theo Becon là kết quả của tạo hóa, khoa học giải
thích con người đồng thời cũng là khoa học giải thích các vấn đề về thế giới tự
nhiên. Kế thừa quan niệm về con người của Aristotle, Becon cho rằng, trong
con người có ba dạng linh hồn thực vật, linh hồn động vật thuộc về linh hồn
cảm tính, còn linh hồn lý tính có nguồn gốc từ thượng đế. Quan niệm về
thượng đế của Becon về sau đã được Kant đề cập đến trong triết học của mình.
Thomas Hobbes (1588 - 1679) nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ
nghĩa duy vật anh thế kỷ XVII. Theo ông bản tính đạo đức của con người khi
sinh ra đều như nhau, nhưng trong mỗi con người đều có khát vọng, mong
muốn riêng tư, đều có tính ích kỷ, độc ác chính là nguyên nhân gây ra các
chiến tranh xung đột, yêu bản thân mình hơn tất cả. Công lý, khoa học và
pháp quyền luôn luôn bị bác bỏ bởi ngòi bút và thanh kiếm. Ông cho rằng,

khả năng bẩm sinh của con người càng bình đẳng, thì con người càng bất
hạnh, cuộc đấu tranh sinh tồn của con người càng khó khăn, điều đó thúc đẩy
con người đi đến khế ước xã hội, nguồn gốc sinh ra nhà nước, pháp quyền.
Nhà nước có quyền xử phạt những ai vi phạm lợi ích chung của mọi người,
nhưng sự xuất hiện của nhà nước lại có mặt hạn chế, làm giảm khát vọng tự
nhiên nhất định của con người, do vậy tự do con người bị thu hẹp lại. Các đạo
luật của nhà nước đều hợp lý và tất yếu, cá nhân trong xã hội phải tuân theo
luật mà nhà nước ban hành. Quan niệm đề cao pháp luật của nhà nước, hay
phạm trù tự do sau này được Kant nhắc tới trong quan niệm về tự do của mình.

16


Tiếp tục phát triển các quan niệm của Hobbes, John Locke (1632 1704) đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Với tác phẩm
“Khảo luận về lý trí con người” Locke đã xây dựng các vấn đề nhận thức của
mình. Bằng cái nhìn mới về hiện thực khách quan, Locke cho rằng toàn bộ tri
thức con người có được nhờ nhận thức gọi là “ý niệm”. Sau này Kant tiếp thu
và ảnh hưởng bởi ý niệm này của Locke trong phần đạo đức học của mình.
Bên cạnh đó về vấn đề nhà nước, pháp quyền, Locke cho rằng xã hội dân sự
thuộc trạng thái văn minh, chính quyền nhà nước được thiết lập, căn cứ vào
tính chất, cách thức lập pháp để xác định chính quyền nhà nước.
Locke cho rằng, nhà nước tồn tại dưới ba dạng: Thứ nhất, là nền dân
chủ hoàn hảo đó là quyền lực toàn thể của cộng đồng, tất cả đều có thể thực
hiện quyền lực này trong việc làm ra luật cho cộng đồng và thực thi các luật
đó bằng các quan chức do chính họ bổ nhiệm. Thứ hai, đó là chính thể đầu sỏ,
khi quyền làm luật đặt vào trong tay số người chọn lọc và những người thừa
kế hay kế vị này. Thứ ba, là chính thể quân chủ, nếu quyền lập pháp đặt vào
tay của một người. Điểm nổi bật trong học thuyết của Locke là khởi thảo học
thuyết về sự phân chia quyền lực, tiếp thu có chọn lọc tư tưởng về vai trò
quyền lực nhà nước của Hobbes, Locke cho rằng, khi một cộng đồng quốc gia

mới thành lập, hành động đầu tiên cần làm là thiết lập cơ quan quyền lực lập
pháp, đó là cơ quan quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia, quyền lực
thiêng liêng. Khi luật pháp được cơ quan lập pháp xác lập, ban hành rộng rãi
thì nhiệm vụ cần phải làm tiếp theo là giám sát, và thực thi.
Muốn Luật pháp được xã hội giám sát và thực thi có hiệu quả, Locke
cho rằng cần thành lập một cơ quan nhà nước khác, cơ quan đó gọi là hành
pháp. Quyền lực của cơ quan hành pháp mang tính cưỡng chế đơn phương,
mọi công dân phải tuân thủ pháp luật, nếu không sẽ bị trừng phạt. Locke là
người đã đặt nền móng cho chế độ nhà nước dân chủ tự do đối lập với chế độ

17


quân phiệt, chuyên chế và bạo chính. Locke cho rằng: “Tự do không phải là,
như đã nói với chúng ta, quyền tự do để mỗi người làm điều mà mình muốn
(vì ai có thể tự do cho được khi mà ý thích của những người khác có thể áp
chế anh ta?), mà là quyền tự do để sắp đặt và bố trí như anh ta muốn, đối với
con người, hành động, tài sản, cũng như toàn bộ sở hữu của anh ta, trong
khuôn khổ cho phép của hệ thống luật mà anh ta sống dưới sự chi phối của
nó, nơi anh không phải chịu sự khuất phục trước ý chí độc đoán của người
khác, mà là tự do tuân theo ý chí của chính mình” [28,tr.93-94].
Locke đề cao các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của các cá nhân như
quyền sống, tự do phát triển nhân cách, tự do sở hữu.
Nhà triết học ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành triết học Kant
là Hume, người đã đánh thức Kant khỏi “cơn ngái ngủ giáo điều” và đem đến
cho Kant một cái nhìn mới có tính phê phán với khả năng của kinh nghiệm.
Kant đã kế thừa thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri của Hume trên tinh thần
phê phán.
Hume phê phán các quan niệm coi linh hồn con người như một thực
thể, không có vật chất, không có tinh thần. Dưới hình thức duy tâm, thần bí,

quan niệm Hume đặc biệt đề cao vai trò cá nhân con người phù hợp xu hướng
dân chủ, tự do cá nhân, đòi giải phóng nhân cách con người của giai cấp tư
sản cách mạng. Hume cho rằng, hành động có đạo đức bắt đầu với hành vi
của tác nhân hành động cho đến người nhận tác nhân đó. Ông cho rằng, con
người có hai loại tính cách, thứ nhất là bản năng, thứ hai là nhân tạo. Nếu một
tác nhân nào đó làm ảnh hưởng đến người nhận sẽ có người thứ ba quan sát
các hành vi đó để rồi đánh giá hiện tượng đó là đức hạnh hay là hành vi có tội
lỗi, trái với đạo đức. Hành vi đạo đức chỉ có ở con người gồm có bốn phạm trù,
đó là những phẩm chất tốt mang lại điều thiện như hiền lành, dũng cảm, thứ hai
đó là: những phẩm chất tư lợi gồm cần cù, nhẫn nại, phẩm chất thứ ba con
18


người cần phải có chính là sự thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, làm cho bản
thân và người khác cảm thấy dễ chịu, phẩm chất thứ tư là sự hài hước, tự trọng.
Kant kế thừa các quan niệm của Hume về những khía cạnh đạo đức
khác nhau, song Kant tin vào các chuẩn mực đạo đức. Ảnh hưởng của Hume
tại Đức có cơ sở hiện thực là sự phản ánh trong lĩnh vực triết học ở bình diện
nhân sinh, Kant nêu ra và phân tích nhiều vấn đề mà Hume chưa hề đề cập
đến, những vấn đề vượt xa khuôn khổ của nước Đức, trở thành vấn đề nhân
loại. Nhiều ý tưởng của Kant cho đến nay vẫn thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu như ý tưởng về nền hòa bình vĩnh cửu một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong thời đại ngày nay.
Rousseau nhà tư tưởng người Pháp, có sức hút lớn đối với Kant thời
trẻ, trong vấn đề đạo đức học, ông cho rằng đức hạnh là khoa học cao siêu,
triết học đích thực là lắng nghe tiếng nói của lương tâm. Khẳng định bản chất
con người có tự do, nhưng trong quá trình phát triển tự do của con người luôn
bị kìm hãm. Kant tiếp thu ảnh hưởng của Rousseau từ phương diện của chủ
nghĩa nhân đạo, hướng con người tới điều thiện, xóa bỏ thói xấu, sự bất bình
đẳng , khẳng định giá trị cao đẹp. Tuy nhiên Rousseau theo quan điểm vô

thần, còn Kant thì ngược lại ông thỏa hiệp, dung hòa giữa hữu thần và vô
thần, công nhận con người như một lý tưởng cần thiết cho đạo đức. Rousseau
dường như tách con người độc lập với tự nhiên, còn Kant thì đặt con người
trong mối quan hệ với thế giới xung quanh. Rousseau đi tìm nguồn gốc bất
bình đẳng trong xã hội ở lĩnh vực pháp luật.
Tiếp thu tư tưởng của Montesquieu, Rousseau bổ sung học thuyết về
nhà nước pháp quyền tư sản với những quan điểm mới và sâu sắc hơn.
Rousseau cho rằng, để cho xã hội tồn tại và phát triển được, mọi công dân
phải thực hiện tuân theo bản cam kết hay còn gọi là khế ước ủy quyền cho các
đại biểu trong bộ máy nhà nước. Khế ước xã hội như là sự thỏa thuận thì nhân
19


dân có quyền thay thế bằng nhà nước mới. Mọi công dân trong xã hội muốn
thực hiện quyền công dân thì phải xóa bỏ quyền lực tối cao của vua, quyền
lực đó được chuyển về tay nhân dân. Mỗi công dân chỉ giao một phần quyền
của mình cho xã hội như là một cơ thể chung, ý chí chung. Khi con người
tham gia vào bộ máy nhà nước, khế ước xã hội thì mỗi cá nhân cần phải từ bỏ
trạng thái tự nhiên tức trạng thái chưa có pháp luật để chuyển sang trạng thái
dân sự, trạng thái có nhà nước và pháp luật. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước là
thực hiện ý chí quyền lực chung cho mỗi công dân. Mỗi công dân trong xã hội
phải có trách nhiệm với nhà nước.
Quyền lực nhà nước luôn phải thuộc về nhân dân không một cá nhân
nào có quyền quyết định tất cả. Tư tưởng này của Rousseau ảnh hướng to lớn
đến xã hội châu âu thể hiện rõ trong hiến pháp của nước Pháp năm 1791. Và
Kant cũng đã chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ đó khi ông viết “Trong tôi tràn đầy
khát vọng nhận thức... Đã có lúc tôi nghĩ rằng chính điều này mới đem đến
niềm kiêu hãnh cho nhân loại, và tôi coi thường lớp tiện dân ngu dốt,
Rousseau đã sửa chữa tôi. Sự kiêu căng mê muội một thời biến mất; tôi bắt
đầu học cách tôn trọng con người”.[Dẫn theo 9, tr.963].

Không chỉ Hume mà Rousseau cũng đã đánh thức cơn mê ngủ nơi
Kant, người có ảnh hưởng đến nhận thức, sửa chữa Kant như một nhà đạo
đức. Kế thừa những tư tưởng đó Kant viết tác phẩm về thẩm mỹ với tiêu đề
“Tìm hiểu cảm xúc về cái đẹp và cái cao thượng” (1764). Trong tác phẩm
này, Kant thể hiện tình cảm con người, sức mạnh hoạt động tạo ra giá trị,
Kant khai thác ở Rousseau quan niệm về sự băng hoại đạo đức, sự đánh mất
bản tính tự nhiên của con người kế thừa một phần trong học thuyết về đạo đức
và quan niệm về pháp quyền.
Nghiên cứu những tiền đề hình thành lý luận triết học Kant cho chúng
ta thấy hệ thống triết học Kant là một mắt xích trong lịch sử tư tưởng triết học
20


nhân loại, là sự tổng hợp khái quát những giá trị tư tưởng của thời đại trước
ông, để qua đó hình thành và phát triển hệ thống triết học mang tầm cỡ lớn
lao, thế hệ sau kế thừa tư tưởng thế hệ trước, sự tổng hợp lý tưởng cảm tính
và lý tính, duy vật và duy tâm trong một hệ thống hoàn chỉnh.
1.3. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Kant
Immanuel Kant sinh ngày 22 - 4 - 1724, trưởng thành trong một gia
đình trung lưu nghèo gốc Scốtlen tại Kenitbec thuộc Đông Đức. Cha mẹ ông
thuộc giáo phái sùng đạo, chính điều này đã ảnh hưởng tới tư tưởng của Kant.
Thủa nhỏ ông theo học tại trường địa phương Collegium Fredericianum. Mùa
thu năm 1740 ông vào học Khoa Triết học trường Đại học Kenitbec. Ở đại
học ông được trang bị các kiến thức không chỉ triết học mà còn cả những môn
khoa học tự nhiên. Dưới sự giảng dạy của nhà triết học Martin Knutzen
hướng tư tưởng Kant theo truyền thống duy lý của Châu Âu, người thầy này
đã kích thích sự quan tâm của Kant hướng tới vật lý học Newton, chính sự
quan tâm này góp một phần không nhỏ trong sự phát triển triết học độc đáo và
phê bình của Kant.
Tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, Kant tới làm gia sư cho một gia đình

giàu có mãi cho tới năm 1755 ông mới quay trở lại đại học và được nhận làm
giảng viên. Thời kỳ đầu các bài giảng của Kant tập trung vào thế giới bên
ngoài, liên quan chủ yếu tới các vấn đề vật lý học. Năm 1770, Kant được đề
nghị làm giáo sư triết học điều mà ông từng ao ước bấy lâu. Trong bài giảng
khai mạc, Nghị luận về mô thể và các nguyên lý về các thế giới khả giác và
khả tri, Kant tuyên bố ý định của ông là xây dựng lại triết học. Những năm
sau đó ông cẩn thận và âm thầm suy tư về mọi ý niệm của mình, mãi đến tuổi
trung niên ông mới triển khai các quan điểm, các tác phẩm quan trọng của
Kant được viết khi ông ở độ tuổi từ 57 cho đến 67, điểm đặc biệt ở Kant là

21


×