Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

“Một số kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 6”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.2 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP:
1.1 Sự cần thiết hình thành giải pháp:
Nhà trường xã hội chủ nghĩa là một môi trường đào tạo những con người
có đủ tài năng trí tuệ và những phẩm chất đạo đức cách mạng, để sau này thực sự
là người của dân, vì dân mà cống hiến. Người trực tiếp đào tạo những con người
như thế không ai khác chính là Giáo Viên, trong đó quan trọng nhất chính là vai
trò của giáo viên chủ nhiệm lớp. Ở trường THCS, lớp 6 là lớp đầu cấp, việc hình
thành nhân cách và ý thức học tập rất quan trọng, nó ảnh hưởng lâu dài trong
suốt quá trình học ở THCS.
Có ý kiến cho rằng : “Con cái là hình ảnh của cha mẹ”. Trong hệ thống
giáo dục, hình ảnh của giáo viên chủ nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ,
nhận thức, tình cảm học sinh trong lớp, đặc biệt là học sinh lớp 6 (lớp bắt đầu
học làm người trưởng thành, chưa phân biệt rạch ròi được đúng sai trong nhiều
vấn đề) hình ảnh người thầy luôn là tấm gương để học sinh noi theo. Với học
sinh, giáo viên chủ nhiệm đôi khi là người cha, người mẹ thứ hai của các em,
dìu dắt các em trên con đường tiếp thu tri thức và hình thành nhân cách. Bởi vậy,
người giáo viên chủ nhiệm luôn phải biết tự hoàn thiện mình. Thời gian để giáo
viên chủ nhiệm tiếp xúc với học trò của mình tương đối nhiều vì ngoài những
giờ giảng dạy trên lớp, giáo viên chủ nhiệm còn được tiếp cận với các em qua
những giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt 15 phút đầu giờ, những buổi lao động, hội
trại, những đêm lửa trại, những lúc ở nhà,… Những lúc như thế làm cho tình
cảm thầy trò càng gắn bó, gần gũi nhau hơn. Học sinh có nhiều cơ hội để bày tỏ
tâm tư tình cảm với thầy cô và thầy cô chủ nhiệm cũng hiểu học sinh hơn. Như
vậy giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi với các em nhiều nhất, ảnh hưởng đến
tâm lý học sinh nhiều nhất.
1


1.2 Tổng quan những vấn đề liên quan đến giải pháp:


Giáo viên chủ nhiệm là thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ
học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi giáo viên
chủ vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp về mọi
phương diện: Học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi
hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng
chương trình và kế hoạch của nhà trường.
Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng
học sinh trong tập thể lớp. Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối là nhân vật trung
gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể
học sinh - xã hội. Như vậy một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho
nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với
nhà trường. Mặt khác giáo viên chủ nhiệm phải làm cho quan hệ giữa tập thể học
sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn.
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là những người thầy được đào tạo về kiến thức, về
nghiệp vụ chuyên môn, bên cạnh đó còn được trang bị những kiến thức về công tác
chủ nhiệm nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, trở thành công dân tốt cho xã
hội. Đây là công tác mà bất kì người giáo viên nào có tâm huyết cũng không thể xem
nhẹ . Tuy nhiên, công tác chủ nhiệm trong nhà trường hiện nay gặp phải không ít khó
khăn trong việc quản lý và giáo dục học sinh, do xã hội phát triển nhanh về công
nghệ, học sinh chưa được hướng dẫn để nhận biết chọn lọc cái tốt cái xấu để tiếp cận
(đạc biệt ở lớp 6) nên sa sút về đạo đức, thiếu ý thức trong việc học tập, phần lớn tồn
tại ở những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt.
Thông thường, Giáo viên chủ nhiệm sẽ được nhà trường phân công dạy bộ
môn tại lớp đó. Trên thực tế bất kỳ giáo viên nào cũng muốn lớp mình được phân
công chủ nhiệm là một lớp học giỏi, ngoan, có nhiều học sinh năng nổ trong học
tập cũng như trong sinh hoạt, đạt nhiều thành tích trong các hoạt động do trường
hoặc các tổ chức đoàn thể phát động, tổ chức.
2



Công tác chủ nhiệm lớp nhìn từ mọi góc độ đều thấy: Đây là công tác không
ít khó khăn, phức tạp, vui ít, buồn nhiều, thành công cũng có, thất bại cũng
không phải là hiếm và tiêu tốn nhiều thời gian. Bởi lẽ, mỗi tập thể lớp đều có
đặc thù riêng. Trong số đó, đối tượng học sinh làm cho thầy cô giáo trăn trở
nhiều nhất là lười học, còn nhiều sai phạm về đạo đức. Tuy nhiên, trong lớp vẫn
có nhiều học sinh ngoan, có tinh thần trách nhiệm cao, hợp tác tốt với GVCN để
xây dựng tập thể lớp vững mạnh.
1.3 Mục tiêu của giải pháp:
Vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức học sinh rất quan
trọng. Chính vì thế, để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức học sinh và góp phần hoàn thiện nhân cách học sinh ở trường
THCS thì mục tiêu cơ bản của giải pháp là:
- Đối với Giáo viên chủ nhiệm: GVCN hiểu rõ được mình cần phải có tình
cảm yêu thương học sinh, coi học sinh như người thân trong gia đình, tạo chỗ
dựa, niềm tin vững chắc đưa đến học sinh dễ thân thiện, gần gũi, giải bày, chia sẻ
mọi nỗi niềm của các em. Dĩ nhiên không thể thiếu nguyên tắc kỷ luật nhất định
phù hợp với tình hình mỗi lớp chủ nhiệm. Từ đó có phương pháp phù hợp với
từng đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 6, giúp học sinh lớp chủ nhiệm
rèn luyện ý thức tự giác trong học tập, rèn luyện đạo đức, thực hiện điều lệ nhà
trường THCS một cách tốt nhất có thể. Không bỏ qua những sai phạm dù nhỏ
nhất; uyển chuyển, khéo léo, mức độ nghiêm khắc nhất định trong xử lý sai
phạm. Điều chỉnh cách giao tiếp, cư xử không đúng của học sinh với người xung
quanh kịp thời. Tạo nơi học sinh một lòng tin tuyệt đối đối với mình.
- Đối với học sinh: Thấy được những việc nên làm, không nên làm. Học tập
cách giao tiếp, cư sử với mọi người xung quanh. Tự giác trong học tập và rèn
luyện nhân cách của bản thân, biết đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ bạn bè và mọi
người xung quanh, có ý thức vệ sinh cá nhân, bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp.
Cảm nhận được giáo viên chủ nhiệm như người cha, mẹ thứ hai của mình. Xác
3



định được mục đích của nhiệm vụ học tập, khẳng định được năng lực và phẩm
chất của chính mình.
1.4 Các căn cứ đề xuất giải pháp:
Muốn hoàn thành trọng trách này, giáo viên chủ nhiệm phải có phương pháp
chủ nhiệm sáng tạo, linh hoạt để giúp hình thành nhân cách cho học sinh. Là một
giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn suy nghĩ: Hình thành nhân cách cho học sinh một
cách tốt nhất có thể vừa là trách nhiệm vừa là bổn phận của GVCN đối với học
sinh, với nhà trường, với xã hội, đồng thời cũng là để khẳng định mình về năng
lực, trình độ và nhất là lương tâm nghề nghiệp! Giáo viên chủ nhiệm cần nhận
thấy rõ mỗi học sinh ưu tú là nền tảng vững chắc để xây dựng nhà trường vững
mạnh. Như vậy nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm có vai trò cực kì quan
trọng, ảnh hưởng nhất định đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của
học sinh. Công tác chủ nhiệm thành công đồng nghĩa với việc giúp các em hoàn
thiện chính mình, xây dựng được tập thể lớp vững mạnh, đưa nhà trường ngày
càng tiến lên. Vì vậy, để góp phần cùng với nhà trường trong công tác giáo dục
học sinh tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm ở trường THCS, tôi xin mạnh dạn trình
bày một số suy nghĩ được rút ra từ thực tế làm công tác chủ nhiệm của mình qua:
“Một số kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 6”
1.5 Phương pháp thực hiện, đối tượng và phạm vi áp dụng:
1.5.1 Phương pháp thực hiện:
 Phương pháp nghiên cứu lý luận :
Thu thập những thông tin lý luận về vai trò của người GVCN lớp trong công tác
giáo dục đạo đức học sinh trên các tập san giáo dục, các bài tham luận về công
tác chủ nhiệm của các trường THCS trên Internet, các tạp chí giáo dục.
 Phương pháp quan sát :
Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh
 Phương pháp điều tra :


4


Trò chuyện, trao đổi với: GV bộ môn, quản sinh, học sinh, bạn bè của học sinh,
cha mẹ học sinh và hàng xóm của học sinh.
 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm :
-

Tham khảo những bảng báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.

-

Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.

-

Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường mình.

1.5.2 Đối tượng và phạm vi áp dụng:
 Đối tượng:

- Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm học sinh lớp 6A3 (2013-2014); 6A3
(2014-2015); 6A5 (2015-2016)
 Phạm vi nghiên cứu:

“Một số kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 6”
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP:
2.1 Quá trình hình thành:
Trước hết, ta cần xác định rõ vai trò của GVCN lớp. Nhưng thực tế nhiều

người đã coi nhẹ và lẫn lộn GVCN với các giáo viên bộ môn khác . Về mặt đánh
giá xếp loại GV, nhiều cán bộ quản lí chỉ coi trọng chuyên môn mà chưa coi
trọng hiệu quả công tác quản lí lớp do GVCN lãnh đạo. Có nhiều GVCN lớp đặc
biệt là chủ nhiệm trẻ chưa biết mình có một số quyền hạn nhất định nên chưa
dám làm, ví dụ: quyền đi dự giờ các GVBM trong lớp khi mình thấy cần, quyền
được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật học sinh theo qui định, được hưởng
giờ công tác theo định mức quy định... Từ đó nếu có nhiều chủ nhiệm lớp trong
trường có năng lực và bản lĩnh thì công cuộc giáo dục sẽ đạt được nhiều thành
tựu đáng kể.
Như chúng ta đã biết: Học sinh THCS là lứa tuổi có đặc điểm tâm sinh lý
hết sức phức tạp. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ trẻ em sang người lớn. Những
đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh THCS còn nhiều hạn
5


chế. Trong quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh,không thể phủ nhận vai trò
của giáo viên chủ nhiệm. Nếu GVCN là người xác định đúng vị trí, nhiệm vụ của
mình, biết tổ chức giáo dục cho học sinh, thì người GVCN thực sự là người có
ảnh hưởng lớn nhất với học sinh. Để làm tốt điều này, giáo viên chủ nhiệm phải
thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô giáo, phải nắm được đường lối
quan điểm lí luận giáo dục đồng thời giáo dục những phẩm chất đạo đức rèn
luyện năng lực để trở thành công dân tốt mai sau. Người giáo viên chủ nhiệm
phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội, phải rèn luyện và không
ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm chủ
nhiệm lớp.
Hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm là một niềm vui lớn. Song để đạt được
điều đó không phải là một điều dễ dàng. Con đường dẫn đến thành công có nhiều
ngả. Điều kiện hỗ trợ cho ta cũng rất nhiều: Có thể do giáo viên chủ nhiệm đầy
nhiệt tình, bỏ ra công sức quan tâm sâu sát tới những hoạt động của lớp, cũng có
thể do lớp gồm toàn những học sinh ngoan, đã được chọn lọc, có ý thức học tập

và rèn luyện tốt v.v... việc kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với các lực
lượng giáo dục có tác dụng tích cực trong việc xây nhân cách cho học sinh – Đặc
biệt là học sinh THCS.
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ
nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận , có lệch pha trong thực tế là
bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành
động. Cũng như hiệu trưởng, chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc
kế hoạch hóa. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải giáo hóa
do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn. Phải lao vào làm, thấy đúng thì
tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc hủy bỏ
theo quy trình: xây dựng kế hoạch – thực hiện kế hoạch – tổng kết và vạch kế
hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cấn cù trí
nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS.
GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
6


Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo, đặc biệt là HS lớp 6,
các em luôn nghĩ “những gì thầy cô làm là đúng”. Cách hành động, suy nghĩ, cư
xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm sống của học sinh và sự nhìn
nhận của phụ huynh về ngành Giáo Dục. Trước hết, GVCN cần xác định rõ vai
trò của mình.
2.2 Nội dung giải pháp
2.2.1 Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm
a

Về tư tưởng:

Giáo viên chủ nhiệm phải là niềm tin, chỗ dựa tinh thần cho học sinh vì học
sinh THCS hầu hết ở độ tuổi mới lớn là lứa tuổi ô mai, mưa nắng thất thường, rất

dễ tự ái, có lòng tự trọng cao. Đặc biệt, đối với lớp 6, tất cả đều mới mẻ, lạ lẫm
với các em, việc giúp các em hòa nhập vào môi trường học mới hoàn toàn khác
với Tiểu học rất quan trọng. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của giáo viên sẽ để lại dấu
không tốt cho học sinh. Lòng tin của học sinh vào người GVCN quyết định
thành công hay thất bại trong công tác làm chủ nhiệm. Muốn vậy, người giáo
viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn để
xứng đáng làm một người thầy được học sinh kính trọng và tin yêu.
Giáo viên phải công bằng, xử lý nghiêm minh, khen thưởng kịp thời, nói là
làm, làm là phải lựa, biết kết hợp cương - nhu trong mọi tình huống. Bởi không
phải lúc nào tình huống đó xảy ra với một em học sinh duy nhất. Không thể có
thái độ chỉ quan tâm đến học sinh khá giỏi mà trù dập, coi thường học sinh cá
biệt, mà phải động viên khuyến khích các em hòa đồng với bạn bè, lễ độ với thầy
cô, tích cực tham gia hoạt động tập thể.
Đối với học sinh cá biệt giáo viên phải bằng tấm lòng nhân ái, bao dung,
không vụ lợi, đến với học sinh bằng chính tình yêu nghề và lương tâm của người
thầy. Để thực hiện được những yêu cầu này –GVCN phải nắm bắt điều kiện,
hoàn cảnh học sinh về kinh tế, về đời sống tình cảm. Giáo dục thông qua các đặc
điểm tâm lý của học sinh: kích thích, gây hứng thú học tập cho học sinh.
7


Kết hợp giữa gia đình và nhà trường bằng các biện pháp: Gặp gỡ gia đình;
Gặp gỡ những người có uy tín đối với học sinh; Kết hợp với đoàn trường tổ chức
các hoạt động thu hút học sinh.
b

Về tổ chức lớp:




Lựa chọn ban cán sự lớp:
Đây là khâu quan trọng, GVCN cần đầu tư. Việc lựa chọn này không đơn

giản, vì các em từ Tiểu học qua nên đối với GVCN tất cả các em đều mới lạ.
Lập mẫu sơ yếu lý lịch để học sinh tự điền theo mẫu. GVCN cần căn cứ
vào “sơ yếu lý lịch và bảng kết quả năm học lớp 5 do văn thư gửi cho GVCN,
bảng khảo sát chất lượng đầu năm học”. GVCN cho lớp biểu quyết bầu ban cán
sự lớp tạm thời (GVCN phải nhấn mạnh sự “tạm thời” để khi thay đổi sẽ không
ảnh hưởng đến tâm lý học sinh bị thay đổi) hoạt động 3 tuần đầu năm học.
GVCN theo dõi và tuần 4 cho lớp tiến hành đại hội lớp công khai, bầu chọn lại.
Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp thông qua bầu dân chủ trong đại hội
lớp dưới sự hướng dẫn của GVCN.


Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp:
Dựa vào sơ yếu lý lịch, giáo viên chủ nhiệm cùng với cả lớp phân công

nhiệm vụ trong ban cán sự (BCS) lớp một cách hợp lý và khoa học.
SƠ YẾU LÝ LỊCH HỌC SINH
Họ tên học sinh:..............................Nam (Nữ).................
Chỗ ở hiện nay (cụ thể): …………………………………………………………
Họ tên cha:................................nghề nghiệp:..................Số điện thoại:……….
Họ tên mẹ:................................nghề nghiệp:...................Số điện thoại:……….
(nếu là hs mồ côi cha mẹ ghi rõ họ tên người đỡ đầu, giám hộ)
Họ tên người đỡ đầu (giám hộ):..........................................................................
Gia đình có anh, chị, em:
-

1/....................................học tại trường:…………….. ………; lớp ............
8



-

2/....................................học tại trường:…………….. ………; lớp ............

Xếp loại ở lớp 5: Học lực : ..................; hạnh kiểm: .........................
Điểm thi cuối HKII của lớp 5: Toán.....điểm; Văn.....điểm; Môn thứ 3:.....điểm
Chức vụ cán sự lớp ở lớp 5:.......................................
Chức vụ cán bộ Đội lớp ở lớp 5:................................
Con thương bệnh binh hạng:........................................
Diện chính sách (hộ nghèo, cận nghèo, đặc biệt khó khăn):.............................
Năng khiếu môn học: TDTT:............; Văn nghệ:......., Các môn văn hóa:.............
Giáo viên chủ nhiệm dựa vào thông tin đầu năm do trường cung cấp và sơ yếu lý
lịch trên để tổng hợp và ghi vào sổ tay của mình.
Thông qua phương pháp này giáo GVCN nắm rõ hơn tâm lý, tính cách của
từng học sinh, rõ về học tập của từng em để tham mưu cho các giáo viên bộ môn,
phối hợp với cha mẹ học sinh được tốt hơn trong việc phân công tổ, nhóm học
tập.
Đồng thời giúp GVCN định hướng cán sự lớp đầu cấp thật sự có năng lực,
chất lượng và làm việc có hiệu quả.
GVCN lập sổ theo dõi và giao lại cho từng bộ phận đã phân trách nhiệm cụ
thể trong BCS lớp. Quan trọng nhất vẫn là quá trình huấn luyện một BCS lớp tốt
trong tháng đầu tiên của năm học, huấn luyện một BCS lớp: trung thực, khiêm
tốn, nhiệt tình, năng nổ, tự lập trong nhiệm vụ.
Đặc trưng tâm lý học sinh THCS thể hiện rõ nhu cầu tự khẳng định mình,
mong muốn có một chỗ đứng trong tập thể. Do đó GVCN chia nhỏ tạo nên một
số chức danh để qua đó học sinh được góp phần mình trong công việc chung.
c


Về quy định thi đua trong lớp:

GVCN lập biểu mẫu, đóng thành cuốn, giao cho các tổ trưởng (hoặc nhóm
trưởng) để theo dõi và tính điểm thi đua hàng tuần. Việc này cần nguyên tắc,
khoa học và phù hợp với công tác thi đua hàng tuần của trường.

9


2.2.2 Tiếp xúc với học sinh của lớp chủ nhiệm:
Là giáo viên chủ nhiệm tôi tiếp xúc thường xuyên với học sinh của mình
để tìm hiểu các em biết gì? cần gì? các em là người như thế nào? Có tiếp xúc
với các em như vậy mới kéo ngắn được khoảng cách giữa thầy và trò, tạo sự
thân thiện giúp các em rèn luyện kĩ năng sống, không còn e ngại, rụt rè mà luôn
tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn bộc bạch những việc của lớp, những thiếu
sót của bản thân, của bạn bè trên tinh thần xây dựng…
Ví dụ: Trong lớp chủ nhiệm có một học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
mẹ mất sớm, bố bỏ đi lấy vợ khác, mọi công việc trong gia đình đều trông chờ
vào bàn tay yếu đuối của bà ngoại. Kinh tế gia đình giảm sút, em trở thành lao
động chính trong gia đình, vì vậy em luôn mặc cảm, xa lánh bạn bè, nghỉ học
nhiều, thường xuyên không học bài vì còn phụ giúp ngoại lo miếng cơm manh
áo mỗi ngày…Biết được điều đó, tôi luôn giành cho em sự chăm sóc đặc biệt,
luôn gần gũi sẻ chia những khó khăn của em và gia đình. Trong tiết sinh hoạt
lớp, tôi nhắc nhở học sinh trong lớp phải biết cảm thông, chia sẻ cùng bạn,
không trêu đùa ác ý gây tổn thương cho bạn, phân công các bạn học khá giúp đỡ
để bạn cố gắng học tập. Động viên thăm hỏi gia đình những lúc khó khăn…Với
tình yêu thương của thầy cô và bạn bè, hiện học sinh đó đã đi học đều, chăm
ngoan, nghe lời thầy cô giáo. Mặc dù với hoàn cảnh của mình, em phải nỗ lực rất
nhiều, nhưng tập thể lớp đã tiếp thêm sức mạnh cho em.
Tuy nhiên, khi tiếp xúc với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, GVCN phải

thật lựa chọn thời điểm thích hợp hỏi thăm về gia cảnh để biết được đó có phải
là điều kiện khó khăn, hoặc thuận lợi ảnh hưởng đến học tập, đạo đức của các em
không. Đối với học sinh có gia đình quan tâm, GVCN luôn phải biết phát huy
thế mạnh này. Vì thường học sinh được giáo dục tốt, được chăm lo việc học tập
nên chăm ngoan hơn, chính những học sinh này sẽ là nhân tố tích cực của lớp.
Ngược lại, học sinh gặp phải những khó khăn về gia đình như: kinh tế, con ngoại
hôn, cha mẹ là người ỷ lại vào xã hội, lười lao động;… giáo viên và tập thể lớp
cần quan tâm đến tinh thần của học sinh đó nhiều hơn. Đối tượng này thường tự
10


ti, mặc cảm nên cần phải khéo léo tế nhị trong cách đối xử cũng như giúp đỡ,
nhưng để tránh tạo nên tính ỷ lại thì sự quan tâm đó cần có chừng mực nhất định.
Những buổi lao động, xây dựng trường, sinh hoạt đội, đoàn, hội trại, cắm
trại, thi làm báo tường… rất dễ dàng tạo điều kiện để thầy và trò gần gũi nhau
hơn, hiểu nhau hơn. Tôi thường hướng dẫn cặn kẽ công việc cụ thể nhiều lần (vì
lớp 6 còn nhỏ so với các anh chị 7,8,9 tronh trường) để các em tự tin phát huy
khả năng của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao các em không
tránh khỏi được những sai sót, thay vì nhăn nhó, bất lành, giáo viên nên nhẹ
nhàng nhắc nhở, hướng dẫn lại. Đối với những trường hợp thiếu trách nhiệm ảnh
hưởng đến tình hình chung, GVCN cần tỏ thái độ cứng rắn để học sinh hiểu hậu
quả của việc thiếu trách nhiệm của mình. Có làm như vậy, giáo viên mới giúp
các em rút ra được kinh nghiệm, ý thức hơn, tự tin hơn trong nhiệm vụ kế tiếp.
Đặc biệt trong lao động, ngoài việc hướng dẫn, phân công công việc thì việc
giáo viên chủ nhiệm cùng học sinh thực hiện những công việc nặng nhọc, khó
khăn là rất cần thiết. Vì học sinh sẽ không đứng chơi, mà tích cực lao động hơn
khi thấy cô đang làm! Giáo viên, cùng lao động với các em vừa tạo nên không
khí sôi nổi trong buổi lao động, vừa giáo dục các em tính tích cực, không lảng
tránh nhiệm vụ. Như vậy có nghĩa là giáo viên góp phần san sẻ niềm vui, nỗi
buồn, thành công, thất bại với lớp chủ nhiệm.

Tiếp xúc với cán bộ lớp, cán sự bộ môn lớp để biết được mọi hoạt động
của lớp là việc làm hết sức cần thiết. Những thông tin về lớp chủ nhiệm chủ yếu
là do các em cung cấp. Nhưng việc làm này luôn có hai mặt, nếu giáo viên không
khéo léo xử lý sẽ dễ dàng biến học sinh thành những kẻ mách lẻo, xoi mói, nói
xấu bạn….
2.2.3 Giáo dục học sinh kết hợp với giáo viên bộ môn.
Việc phối kết hợp với giáo viên bộ môn trong việc hình thành nhân cách cho
học sinh là việc làm rất cần thiết bởi dù muốn hay không thì GVCN không phải
lúc nào cũng có mặt trên lớp của mình. Vì vậy, những đổi thay của các em rất
cần sự quan tâm hợp tác của các thầy cô giáo dạy bộ môn.
11


Phương pháp giảng dạy mỗi giáo viên có sự khác nhau, cách ứng xử của từng
giáo viên bộ môn với học sinh cũng khác nhau. Bên cạnh đó còn tùy thuộc vào
đặc trưng bộ môn. Một số học sinh lười học cho rằng thầy cô dạy khó hiểu, yêu
cầu cao… nên không hợp tác hoặc có thái độ không đúng mực với thầy cô bộ
môn. Đôi khi lỗi không hoàn toàn do học sinh, GVCN cần khéo léo để giúp học
sinh và GVBM thông cảm và hiểu nhau hơn. Tuy nhiên, để xác minh thông tin từ
phía học sinh, giáo viên chủ nhiệm nên tiếp xúc với giáo viên bộ môn, với một
số học sinh thật thà trong lớp để tường tận hơn trước khi đi đến kết luận. Tránh
độc đoán, phiến diện gây bức xúc, căng thẳng cho học sinh và cả giáo viên. Vừa
đảm bảo giáo dục được học sinh vừa bảo vệ được uy tín đồng nghiệp.
2.2.4 Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp:
Trong một tập thể lớp, việc nảy sinh các vấn đề mỗi buổi học là điều
không thể tránh khỏi, giáo viên chủ nhiệm phải có mặt với lớp vào mười lăm
phút đầu giờ (không nhất thiết phải thường xuyên, cần tạo không gian cho học
sinh phát huy tinh thần tự quản) để kịp thời giải quyết những vướng mắc cho các
em. Nếu thực hiện tốt khâu sinh hoạt đầu giờ, học sinh sẽ ổn định tâm thế để
bước vào tiết học đầu tiên tốt hơn, kể cả các tiết học sau.

Sau mỗi buổi học, xét thấy có việc gì cần giải quyết, giáo viên chủ nhiệm
yêu cầu các em ở lại năm, mười phút để làm việc và hàng tuần có một cuộc họp
với cán bộ lớp, có thể họp đột xuất trong tuần nếu thấy cần thiết. Tuy lớp có lớp
trưởng, lớp phó…nhưng giáo viên không hoàn toàn giao hẳn việc cho các em mà
phải để ý theo dõi đến lớp thường xuyên, kịp thời nhắc nhở, động viên.
Giáo viên chủ nhiệm cần phải biết phát huy khả năng làm việc của cán bộ
lớp, nhất là lớp trưởng. Định hướng cho cán bộ lớp làm việc, tôn trọng ý kiến đề
xuất, cách làm việc của các em, giáo viên giúp cán bộ lớp mạnh dạn làm việc
độc lập nhưng không lạm dụng quyền hạn. Cán bộ lớp gần gũi, sát với lớp nhiều
hơn giáo viên chủ nhiệm nên các em giúp giáo viên giải quyết các vấn đề của lớp
nhanh hơn, có hiệu quả tốt, giáo viên chủ nhiệm sẽ đỡ vất vả hơn. Giáo viên
không để việc học sinh lạm dụng việc phê bình và tự phê bình. Những em vi
12


phạm nội quy phải nhận thấy sai lầm của mình, các em phải biết hối hận và
xấu hổ. Tập thể lớp cũng không nên tập trung vào sai sót của bạn mà phê bình,
chỉ trích, nặng lời thay vì giúp bạn tiến bộ, như vậy học sinh này sẽ lì lượm hơn,
phá phách hơn, xa rời tập thể, có khi cố tình phá lớp. Thực tế đã chứng minh
rằng những học sinh này thường thể hiện tinh thần tập thể cao trong những buổi
lao động, cắm trại.
Giáo viên chủ nhiệm cần chú ý đến việc khen, phê bình kịp thời đối với
học sinh. Giáo viên không thiên vị, phải công minh trong khi khen cũng như phê
bình các em. Những lời động viên khi các em làm việc tốt, những lời nhắc nhở
khi các em làm sai kịp lúc có tác dụng rất lớn đến việc tự rèn luyện của các em.
Như vậy việc gì cần giải quyết giáo viên chủ nhiệm giải quyết kịp thời sau
mỗi buổi học, không đợi đến sinh hoạt lớp. Làm như vậy rất dễ dàng chấn chỉnh
nề nếp của tập thể. Điều hết sức quan trọng là cách đối xử, xử lý học sinh cá biệt
không nên quá nghiêm khắc, tùy vấn đề, tùy tâm lý từng học sinh mà cương nhu
hợp lý mới có tác dụng giáo dục. Khen chê học sinh phải công minh, có làm

được như vậy học sinh mới kính trọng và tin yêu.
2.2.5 Mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh:
Việc giáo dục học sinh trong nhà trường ta là sự kết hợp nhà trường với đoàn
thể, địa phương, gia đình…Trong đó, mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường
nhất là đối với giáo viên chủ nhiệm là hết sức cần thiết. Chính vì vây, công tác
chủ nhiệm của một giáo viên thành công hay không đừng bao giờ quên gia đình
học sinh là yếu tố quan trọng.
Sau khi sơ kết tuần trên lớp, GVCN cần nhắn tin vnedu đến phụ huynh những
học sinh tiêu biểu trong tuần (khen). Sau khi sơ kết tháng, GVCN nhắn tin vnedu
đến phụ huynh những học sinh có nề nếp tốt (khen), tiêu biểu (khen), có biểu
hiện cố gắng và tiến bộ trong học tập (khen), có biểu hiện không tiến bộ và chây
lười trong học tập dù đã áp dụng các biện pháp (nhắc nhở khéo léo)
Việc đến thăm gia đình học sinh cũng rất cần thiết. Trước khi đến thăm phụ
huynh học sinh, giáo viên cần phải phân loại đối tượng học sinh: Hạnh kiểm tốt,
13


học tập tốt - hạnh kiểm tốt, học tập trung, yếu - hạnh kiểm trung bình, yếu…để
có kế hoạch đi thăm nhưng nên đi thăm gia đình những em có kết quả xếp loại
hạnh kiểm trung bình trước.
GVCN cần gặp gỡ và trao đổi với những phụ huynh quá dễ dãi với các em về
việc cho các em sử dụng internet, xem thường tác của nó, không quản lý chặt
chẽ, dẫn đến việc lơ là trong học tập. Đặc biệt với những học sinh có biểu hiện
lệch lạc về phẩm chất do ảnh hưởng của xã hội chạy đua công nghệ như hiện
nay. GVcn cũng cần để ý đến những học sinh này để giúp các em hạn chế và
thay đổi tích cực hơn.
Đối với học sinh hay nghịch, có biểu hiện không tốt về ý thức tự giác, ý thức
tập thể, ý thức trách nhiệm, việc giáo viên chủ nhiệm đến nhà thăm gia đình là
hết sức cần thiết. Vì đa số học sinh này gia đình không khó khăn, cha mẹ ít có
thời gian quản lý, chỉ bảo chuyện học hành của con cái vì lo kiếm tiền, thường

giao con mình cho thầy cô, khi được giáo viên chủ nhiệm báo cho biết về tình
hình học tập, rèn luyện đạo đức họ mới vỡ lẽ. Có gia đình thực sự khổ tâm vì
con, nhưng cũng có gia đình rất “tỉnh”, xem như chẳng có chuyện gì, thậm chí
chẳng cần thiết phải nghe thông tin từ giáo viên. Nếu vậy, giáo viên chủ nhiệm
không được nản lòng phải kiên trì gặp một lần, hai lần…để cùng nhau bàn bạc
về việc giáo dục học sinh đến khi nào có kết quả. Và điều cần lưu ý là khi giáo
viên chủ nhiệm trao đổi cùng phụ huynh học sinh phải có mặt học sinh.
 Khi gặp phụ huynh của học sinh cá biệt, muốn có tác dụng tốt, bản thân tôi

thấy có thể thực hiện một số giải pháp sau:
+ Có thể lần đầu đến thăm gia đình mà không bàn chuyện giáo dục học sinh.
+ Nếu muốn bàn chuyện giáo dục các em phải thật bình tĩnh, trao đổi ôn hoà,
không để phụ huynh có cảm nhận là mình mắng khéo. Cố nói làm sao để cho họ
thấm thay vì làm cho họ tức.
+ Không đổ thừa trách nhiệm cho gia đình mà phải khéo léo điều chỉnh mọi vấn
đề theo đúng hướng.
14


Theo tôi, việc đến thăm gia đình của các em sẽ giúp cho phụ huynh biết
khá tường tận về con em mình. Từ đó, phụ huynh sẽ tích cực phối hợp với nhà
trường trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. GVCN phải coi đây là việc làm
thường xuyên, tuy mất nhiều thời gian của giáo viên chủ nhiệm nhưng chắc chắn
sẽ mang lại hiệu quả.
Nếu ví tập thể lớp là một cơ thể sống thì giáo viên chủ nhiệm giống như
linh hồn của cả lớp, là người chịu trách nhiệm trước nhà trường về mọi hoạt
động của lớp, mọi hành vi của học sinh. Chính vì những trách nhiệm nặng nề này
mà nếu giáo viên chủ nhiệm không thực hiện tốt thì chẳng những ảnh hưởng đến
kết quả công tác chủ nhiệm, ảnh hưởng đến công tác giảng dạy mà còn ảnh
hưởng đến nhận thức của học sinh trong tương lai.

3. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
3.1 Thời gian áp dụng:
- Bắt đầu từ tháng 9/2014
- Kết thúc tháng 4 năm 2016
Từ những kinh nghiệm của bản thân cùng với sự cố gắng tìm tòi học hỏi
những kinh nghiệm quí báu của quí đồng nghiệp nên trong năm học này, lớp chủ
nhiệm của tôi là lớp 6A5 đã có những tiến bộ rõ rệt về đạo đức, về kỹ năng
sống, về kết quả học tập…. Cụ thể như sau: (Số liệu ước thực hiện năm học
2015- 2016)
Lớp 6A5 là một trong 22 lớp của trường THCS Nguyễn Du – TP. Bà Rịa.
Với tổng số 30 học sinh, các em phần lớn là ngoan ngoãn, nghe lời thầy cô, có ý
thức học tập tích cực. Tuy nhiên với điều kiện kinh tế địa phương nói chung và
gia đình nói riêng (đa số các em ở Bến Súc), hầu hết các em còn gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống cũng như trong học tập.
3.2 Hiệu quả đạt được


Lớp

Kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh lớp 6A3 – Năm học 2013- 2014.
Học Kỳ Tổng số HS

Tốt
15

Kết quả xếp loại hạnh kiểm
Khá
TB

Yếu



1
31
21
10
0
0
2
29 (chuyển 2)
25
4
0
0
Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh chưa cao; chưa đáp ứng được mục tiêu
6A3

của lớp đề ra.


Kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh lớp 6A3 – Năm học 2014- 2015.

Kết quả xếp loại hạnh kiểm
Tốt
Khá
TB
Yếu
1
34
32

2
0
0
6A3
2
33 (chuyển 1)
31
2
0
0
Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh chưa đáp ứng được mục tiêu của lớp đề
Lớp

Học Kỳ Tổng số HS

ra vì vẫn còn 1 học sinh chuyển đi.


Lớp

Kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh lớp 6A5 – Năm học 2015- 2016.
Học Kỳ Tổng số HS

Tốt
1
30
26
6A5
2
30

30
Với kết quả trên, tôi nhận thấy mình

Kết quả xếp loại hạnh kiểm
Khá
TB
Yếu
4
0
0
0
0
0
đã góp được một phần nhỏ bé vào

việc hình thành nhân cách cho học sinh và: Nếu thực sự yêu học trò mình, thực
sự yêu nghề mình thì không việc gì là không làm được.
3.3 Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp:
Được Ban Giám Hiệu giao trọng trách chủ nhiệm, tôi thấy rằng đó là vinh
dự và cũng là trách nhiệm lớn lao của mình. Do đó tôi luôn coi lớp chủ nhiệm
như gia đình và học sinh là người thân của mình. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi
luôn giành hết tâm trí, tình cảm của mình vào công việc quan trọng này.
Hiện nay, xã hội đang xuất hiện và nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, bạo lực,
…đang len lỏi vào học đường. Những vấn nạn đó ảnh hưởng lớn đến nền tảng
đạo đức và thuần phong mĩ tục của dân tộc. Trong khi đó học sinh của chúng ta
là đối tượng rất dễ bắt chước, rất dễ bị lôi cuốn vào những trò mới lạ đặc biệt là
những học sinh cá biệt. Đứng trước thực tế đó, nhiệm vụ của một người giáo
viên chủ nhiệm lại càng nặng nề hơn bao giờ hết. Làm sao giúp các em hình
thành nhân cách, thu hút được các em gắn bó được với trường với lớp, gắn bó
với bạn bè cùng nhau vui chơi học tập, rèn luyện để tránh xa cái ác, cái xấu đang

16


ở rất gần các em? Hơn lúc nào hết, các em rất cần sự quan tâm giúp đỡ kịp thời
để các em là những học sinh mang trong mình tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, vô
tư của tuổi học trò.
Những giải pháp trên dù là có vẻ hơi “cổ điển”, đôi khi nghe có vẻ quen
thuộc nhưng khi thực hiện càng ngày càng thấy thấm thía giá trị của nó, giải
pháp luôn phù hợp với xã hội ngày một phát triển, phù hợp để giáo dục lứa tuổi
tâm sinh lý bắt đầu thay đổi, phù hợp với mỗi GVCN tâm huyết với học sinh.
Học sinh lớp 6 ở độ tuổi mới lớn, có tâm lý phức tạp, trong khi đó nhiệm
vụ của các em là phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng để trở thành những
người dân có ích. Chính vì thế, nhiều khi các em có thái độ phản kháng, không
cộng tác. Nhưng với tình cảm chân thực, thương yêu, giúp đỡ của người GVCN
chắc chắn các em sẽ thay đổi trở thành người có đủ tài, trí làm chủ cuộc sống,
làm chủ cuộc đời mình.
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp việc đầu tiên GVCN cần quan tâm nhất
là việc góp phần xây dựng hình thành nhân cách cho học sinh.
Thực tiễn hiện nay ở trường THCS Nguyễn Du, công tác chủ nhiệm được
chú trọng và quan tâm nhiều, hàng tháng sinh hoạt, và họp đột xuất nếu cần thiết,
mục đích là cùng nhau tháo gỡ khó khăn của lớp, chia sẻ kinh nghiệm, tạo nên
sự dân chủ. Đó là cơ sở để tôi làm tốt công tác chủ nhiệm của mình.
Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người giáo viên chủ
nhiệm phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình giáo
viên chủ nhiệm cần biết đặt tình thương, trách nhiệm để giải quyết các tình
huống của lớp phụ trách trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối
hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội
Trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động của GVCN rất đặc thù và
đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:

- Độ tuổi, mức độ trưởng thành của học sinh.
- Hoạt động tự quản của ban cán sự lớp.
17


-Phong cách làm việc của các giáo viên bộ môn.
- Điều kiện cụ thể của địa phương, lớp, gia đình học sinh, và các tổ chức
xã hội có liên quan.
Không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của GVCN. Công
tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường, đòi hỏi GVCN phải
hết sức linh hoạt, kịp thời và sáng tạo, sáng tạo tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng học
sinh với một tinh thần trách nhiệm cao, biết đứng ở vị trí của học sinh để cảm
nhận vấn đề, có như thế mới gánh vác được nhiệm vụ này hiệu quả.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục hai mặt của hoc3
sinh, đặc biệt hình thành nhân cách cho học sinh là vô cùng to lớn (nhất là học
sinh đầu cấp). Một công việc tưởng như đơn giản song không hề dễ dàng, nó
phức tạp và khó khăn rất nhiều. Năm học nào cũng vậy, lớp học nào cũng thế đều
có đủ các đối tượng học sinh. Nhiều học sinh đã làm thầy cô chật vật. Nhưng
bằng tình yêu thương của mình – Người giáo viên chủ nhiệm nên đặt lợi ích của
tập thể lớp lên trên hết, hãy phát huy những thế mạnh của lớp bằng tình yêu
thương của mình để đưa các em hòa vào thế giới tuổi thơ bằng tâm hồn trong
sáng nhất. Người giáo viên chủ nhiệm hãy xem tập thể lớp mình chủ nhiệm là
một mái ấm gia đình . Hãy là người chắp cánh cho ước mơ của các em bay cao
bay xa để các em hoàn thiện và khẳng định mình xứng đáng là chủ nhân tương
lai của đất nước.
Là một giáo viên đã và đang trực tiếp giảng dạy môn Toán và tham gia
làm công tác chủ nhiệm ở Trường, với mong muốn luôn làm tốt công tác chủ
nhiệm và có thêm những kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này. Cùng với

những trăn trở về thực trạng học sinh hiện nay, tôi xin mạnh dạn viết: “Một số
kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 6” để cùng đồng nghiệp trao đổi
học hỏi thêm kinh nghiệm.
18


4.2 Đề xuất, kiến nghị:


Đề xuất:

Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp trong toàn ngành được phát triển xin có một
số đề xuất sau:
 Đối với nhà trường: Thay đổi một số nguyên tắc cứng nhắc liên quan đến

công tác chủ nhiệm (VD: GVCN phải đi 15’ đầu giờ thường xuyên. Việc này sẽ
hạn chế tinh thần tự quản của mỗi học sinh, không phát huy được kỹ năng tự
quản lý lớp của ban cán sự. Nên đi xen kẽ 2-3 buổi/tuần). Nhà trường cần tạo
mọi điều kiện về trang thiết bị, đồ dùng dạy học, các tài liệu tham khảo các sáng
kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp về công tác chủ nhiệm để giáo viên làm tốt
công tác chủ nhiệm hơn nữa. Cần có nhiều chế độ ưu đãi, tạo điều kiện hết sức
có thể để GVCN hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm. Phân chia các lớp đồng đều
theo lực học ở các khối lớp để GVCN có được một đội ngũ ban cán sự lớp nòng
cốt, không những giúp GVCN có phụ tá đắc lực trong công tác GVCN mà còn
tạo môi trường cho học sinh giỏi học hỏi và phát huy khả năng quản lý, đức tính
biết chia sẻ cùng bạn....
 Đối với cha mẹ học sinh: Thường xuyên rèn luyện tính tự lập, kỹ năng

sống cho con em. Cần quan tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn và thái độ đạo
đức, nhận thức, phẩm chất của các em nhiều hơn nữa.

 Đối với chính quyền địa phương: Luôn luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về

vật chất cho những em học sinh nghèo và những em học sinh có hoàn cảnh khó
khăn để các em được đến trường như các bạn khác. Bộ phận phổ cập giáo dục
cần có trách nhiệm cao trong việc vận động học sinh bỏ học ra lại lớp học cùng
giáo viên chủ nhiệm.
Tôi mạnh dạn viết lên ý kiến về đề tài của mình và đưa ra đây để đồng nghiệp
cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng phạm vi đề tài còn mang nhiều
tính chủ quan và không tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được nhiều ý

19


kiến đóng góp của ban lãnh đạo, quý đồng nghiệp để tôi có dịp bổ sung, sửa
chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay.


Kiến nghị:
Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của giáo viên chủ nhiệm, ban lãnh

đạo cần quan tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm lớp. Cụ thể: cần có hành
động thiết thực khích lệ tinh thần, cần có công tác phí mỗi khi GVCN đến nhà
phụ huynh học sinh để giải quyết vấn đề, cần khen thưởng kịp thời….

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1


Tài liệu BDTX cho giáo viên THCS chu kỳ III (2004-2007) môn GDCD,
Vụ giáo dục trung học.

2

Thông tư số 12/TT - BGDĐT về việc ban hành điều lệ trường THCS,
trường THPT và trường PT có nhiều cấp học.

3

Lê Thị Tâm (4/2015), Nội dung quản lý giáo dục đạo đức học sinh của
Hiệu trưởng trường THCS, Tạp chí Quản lý giáo dục, Số 71, Tr.19, Hà
Nội.

21



×