Mục lục
1. Đôi nét về tác giả Nguyễn Ngọc Tư …………………………………trang
2
2. Quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư ……………………trang
3
2.1. Con người sống là để yêu thương
2.2. Con người “Sống là luôn hi vọng”
2.3. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng mới quý”
3. Hình tượng nhân vật cô đơn
3.1. Con người cô đơn vì những ám ảnh của quá khứ………………….trang
6
3.2. Con người cô đơn vì những lỗi lầm………………………………..trang
7
3.3. Con người cô đơn và nỗi sợ bị lãng quên……………………….trang 10
3.4 . Con người cô đơn và sự trốn chạy……………………………….trang
12
3.5. Con người cô đơn vì sự ghẻ lạnh của những người thân………trang 14
4. Kết luận………………………………………………………………trang 15
Tài liệu tham khảo……………………………………………………..trang 16
Trang 1
1. Đôi nét về con người và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Hiện nay, các nữ nhà văn với ưu thế về sự đông đảo và sức trẻ đã
khoác cái áo mới cho nền văn học Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến một số
tên tuổi như: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Lý Lan,
Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Minh Thư, Nguyễn Th ị Ấm, Võ Thị
Xuân Hà…và một thế hệ nhà văn nữ sau này đã có sự nối tiếp thành công
với những cây bút sớm có bản sắc riêng: Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy,
Đỗ Hoàng Diệu … Những sáng tác của các cây bút nữ là những phản ánh
chân thực về cuộc sống con người hiện đại. Họ thường viết sâu sắc về
mảng đề tài tình yêu, trăn trở với những kí ức. Cuộc sống đa chiều hiện ra
dưới con mắt của các nhà văn nữ càng đằm thắm hơn, nhân bản hơn. Trong
chục năm trở lại đây, Nguyễn Ngọc Tư đã trở nên khá quen thuộc với công
chúng độc giả yêu văn học. Chị là cây bút trẻ đoạt nhiều giải thưởng cao
trong các giải thưởng thường kỳ cũng như trong các cuộc thi viết truyện
ngắn do các đơn vị có uy tín trong và ngoài nước tổ chức. Trong dòng chảy
chung của văn xuôi nữ đương đại Nguyễn Ngọc Tư đã tìm cho mình một lối
đi riêng, một phong cách riêng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc.
Cũng như nhiều nhà văn nữ khác, thế mạnh của Nguyễn Ngọc Tư là nói về
nỗi đau, về thân phận những người đàn bà trong cuộc sống hiện đại. Viết
bằng sự thấu hiểu, cảm thông của một nhà văn nữ, Nguyễn Ngọc Tư tinh tế
Trang 2
khi viết về những khao khát khôn nguôi về bến bờ hạnh phúc, sự bình yên
trong tâm hồn mỗi con người.
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi,
tỉnh Cà Mau trong một gia đình nông dân nghèo khó. Do hoàn cảnh gia đình
rất khó khăn nên chị phải nghỉ học sớm khi mới học hết cấp hai. Được cha
động viên “Nghĩ gì, viết nấy, viết những gì con đã trải qua”, chị bắt đầu
viết. Tác phẩm đầu tay của chị đã được Tạp chí văn nghệ Cà Mau chọn
đăng đã tạo thêm động lực để chị nuôi dưỡng ước mơ sáng tác. Sau đó chị
được nhận vào làm văn thư và học làm phóng viên tại báo này. Tập kí sự
Nỗi niềm sau cơn bão dữ đã đưa chị vào nghề văn chính thức với giải ba báo
chí toàn quốc năm 1997 và sau đó là rất nhiều giải thưởng khác. Chị được
coi là một trong những nhà văn trẻ gây được chú ý ở Việt Nam. Hiện nay
chị vừa làm phóng viên cho tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau và vừa là hội
viên hội hội văn học nghệ thuật Cà Mau. Trong đời thường, Nguyễn Ngọc
Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống giản đơn nhưng nội tâm phức tạp.
Trong văn chương, chị ví truyện của mình như trái sầu riêng – nhiều người
thích nhưng cũng không ít người dị ứng. Số lượng tác phẩm chính đã xuất
bản lên đến hàng chục ở rất nhiều thể loại: truyện ngắn, tạp văn, tản văn,
tạp bút, …trong đó phải kể đến một số tác phẩm tiêu biểu: Ngọn đèn không
tắt, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Ngày mai của những ngày mai,…
2. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư
2.1. Con người sống là để yêu thương
Trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, yêu thương đã thành lẽ sống,
niềm vui, niềm hạnh phúc. Chính bởi thế, hầu hết các nhân vật của chị đều
giàu tình yêu thương và luôn khát khao được yêu thương. Là người giàu cảm
xúc và coi trọng cảm xúc trong sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư luôn níu giữ lòng
tin yêu của con người. Trong quan niệm của chị viết về cái ác cũng là một
Trang 3
cách để tôn vinh cái thiện và ca ngợi tình yêu thương con người, để con
người biết sống tốt đẹp, nhân ái hơn.
2.2. Con người “Sống là luôn hi vọng”
Chị cho rằng hi vọng giúp cho con người thoát khỏi những khó khăn,
bế tắc. Ta nhận thấy rất rõ quan niệm này của Nguyễn Ngọc Tư thông qua
các tác phẩm của chị. Các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư vẫn luôn tin rằng
cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, bất hạnh khó khăn sẽ qua đi và hạnh phúc đang
đón chờ ở phía trước. Chính hy vọng tạo ra sức mạnh giúp con người vượt
lên khó khăn thực tại để tiếp tục sống và gây dựng tương lai. Nguyễn Ngọc
Tư từng nói: “Con người mà tắt hy vọng thì chết còn sướng hơn”.
2.3. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng mới quý”
Nguyễn Ngọc Tư cũng như bao người dân Nam bộ khác luôn cho rằng
tình cảm thì phải chân thành, không khiên cưỡng, không giả dối. Chị nhấn
mạnh sự giả dối rất đáng sợ, nó khiến cho những người trung thực luôn cảm
thấy khổ sở, bất an, thậm chí mất dần niềm tin vào cuộc sống. Có thể nói,
các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đều bộc lộ tính cách của con người Nam
Bộ: thẳng thắn, bộc trực, quý trọng sự thật lòng, ghét sự giả dối, nhất là
trong tình cảm.
3. Hình tượng nhân vật cô đơn
Tập truyện ngắn Đảo mới xuất bản năm 2014 của Ngọc Tư không
dày, chưa đến 150 trang gồm 17 truyện, nhưng vì kiêng con số 17, mất hên,
nên chị chỉ ghi ở bìa cuốn sách có 16 truyện thôi, trong đó phần lớn là những
truyện khá ngắn, khoảng trên dưới 2.000 chữ, thậm chí có truyện chỉ trên
dưới 1.000 chữ. Điểm khác biệt so với những truyện ngắn và truyện vừa
trước đây, đặc biệt là truyện vừa Cánh đồng bất tận, ở tập tập truyện này
Trang 4
số chữ ít đến mức không thể ít hơn được nữa, nhưng dường như tiếng vọng
của hồn cốt câu truyện lại dài rộng ra trông thấy.
Bản chất của con người là vận động, không ngừng vượt lên trên giới
hạn của chính nó. Nhưng IU. M. Lotman quan niệm rằng khi anh đi trên con
đường này, đồng thời anh đã đánh mất những con đường khác. Bị đóng khung
trong những giới hạn, con người luôn khao khát vượt qua. Nhưng con người
là một thực thể phức tạp, đầy bí ẩn. Mỗi người lại ở trong những giới hạn
khác nhau, nên khao khát của họ rất khác nhau. Con đường vươn tới sự hoàn
hảo của mỗi người, bởi vậy, không giống ai. Vì thế mà con người cô đơn.
Con người cô đơn thường là những người kháo khát hạnh phúc nhưng lại
không tìm được hạnh phúc. Chính vì thế họ luôn cảm thấy bơ vơ, trơ trọi
giữa gia đình mình, giữa cuộc sống bộn bề.
Cô đơn là một trạng thái bi kịch, là nỗi đau tinh thần lớn nhất của con
người. Nguyễn Ngọc Tư viết trong Cánh đồng bất tận: “Ngày ngày kẹt
giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi
tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã
rời…” Nhưng không có nỗi cô đơn nào giống nỗi cô đơn nào. Mỗi một
mảnh đời trong mười bảy câu chuyện của tập truyện ngắn Đảo là những
mảnh ghép muôn màu của cuộc sống. Thế giới nhân vật trong tập truyện ấy
được tác giả khai thác ở những nỗi đau sâu kín trong tâm hồn mà nỗi bật nhất
vẫn là nỗi đau cô đơn. Hảo (Biến mất ở Thư Viên) , Dịu (Xác bụi) luôn ám
ảnh bởi những kỉ niệm trong quá khứ mà đánh mất hạnh phúc hiện tại. Bà
Năm Nguyệt (Coi tay vào sáng mưa), người cha (Mùa mặt rụng) là những
người gây ra lỗi lầm và cái gái mà họ phải trả chính là sự cô đơn. Nhàn, em
(Tro tàn rực rỡ) sợ hãi vì người thân bỏ rơi nên đã tìm mọi cách để mình luôn
hiện diện trong mắt người mà mình yêu thương. Ông Sáng ( Đảo), cô Lý ( Sổ
lồng) thì chạy trốn sự sô đơn bằng nhiều cách để mong là chính mình.
Trang 5
Những nhân vật cô đơn trong tập truyện này có khác so với nhân vật cô
đơn trong tập truyện Cánh đồng bất tận mà Nguyễn Ngọc Tư viết trước
đó. Ở trong tập truyện ấy, tác giả viết về nỗi cô đơn của người nghệ sĩ trong
hành trình đi tìm cái đẹp hoặc nỗi cô đơn của những người nông dân giữa
biển người mênh mông hoặc những nhân vật suốt đời đi tìm, một hành trình
vô vọng và đơn độc. Ông Sáu (Biển người mênh mông) “đã đi tìm gần bốn
mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà vẫn
chưa thấy”. Nhân vật “má tôi” trong “Dòng nhớ” suốt mười mấy năm, tìm
người vợ cũ của chồng, “Tới bây giờ má tôi vấn chưa tìm được dì. Tôi hỏi
má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ
hơn không. Bây giờ thì ba tôi cũng nằm xuống (…) má tôi vẫn không ngừng
tìm kiếm dì”. Ông Năm Nhỏ (Cải ơi!) tìm suốt mười hai năm chưa thấy con.
Chúng ta bị ám ảnh bởi một ông già trước mỗi buổi diễn, mượn micro nói
mấy câu : “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con…”. Tiếng gọi “Cải ơi!” của ông
mắc lại trong người đọc, như món nợ lòng. Càng tìm kiếm càng vô vọng.
Càng vô vọng lại càng khao khát kiếm tìm. Họ đơn độc và tự nguyện đơn
độc. Họ không chối bỏ, không tìm lối thoát cho thực trạng cô đơn. Còn những
nhân vật cô đơn trong tập truyện Đảo trước hết là đủ hạng người từ trí thức
cho đến người nông dân, từ người đàn ông cho đến đàn bà, từ người già cho
đến trẻ vị thành niên tất cả họ đều sống trong nỗi day dứt của sự cô đơn. Cô
đơn đối với họ là nỗi đau như dằm ở trong tim. Họ đã tìm mọi cách để thoát
ra cái sự cô đơn ấy. Có nghĩa là họ đã phản kháng lại dù tích cực hay tiêu cực
thì đó cũng là qui luật tất yếu của cuộc sống “Tức nước thì vỡ bờ”
3.1. Con người cô đơn vì những ám ảnh của quá khứ
Thấu hiểu được nỗi đau quặn xé của những con người khốn khổ đặc
biệt là nữ giới, Nguyễn Ngọc Tư đã tinh tế khi viết về những day dứt, dằn
xé của những mảnh đời luôn bị ám ảnh bởi quá khứ thành ra cuối cùng lại cô
Trang 6
đơn. Những nhân vật chạy theo ảo ảnh của quá khứ phần nhiều là những kẻ
si tình mà sự si tình thường là mù quáng và ngốc nghếch. Họ không thoát
được, không buông bỏ được, họ bị chôn sống trong quá khứ, trong thứ tình
cảm tuyệt vọng, bám víu vào cái mà không có thật.
Hảo trong Biến mất ở Thư Viên gây cho người đọc cái cảm giác khó
chấp nhận vì sự si tình đến ngu ngốc của cô. Cô mãi chạy theo một hình bóng
xa vời, một hình bóng của kẻ không ra gì bỏ rơi cô khi cô đang bụng mang dạ
chữa, bỏ rơi cô để trốn chạy trách nhiệm. Vậy mà cô vẫn cố hi vọng, vẫn
mong nhìn thấy bóng hình người xưa trong hão huyễn và rất vui sướng khi có
một tia hi vọng “ Hình dung Sinh biến mất vào trang sách phả một sức sống
lạ lùng vào Hảo, làm chị tươi tắn, rạo rực hơn. Như đang đói gặp được nắm
xôi hay giề cơm cháy ”. ( tr. 10) Đúng như lời nhận xét của nhân vật tôi, Hảo
đã vui vẻ lên, năng đi nhà sách hơn và chăm chỉ nuốt từng chữ vào miệng
“Những tối ở nhà sách Thư Viên, tôi đứng ở một kệ sách nào đó và ngó về
phía Hảo trong lúc chị nép giữa những kệ sách văn học, say sưa đọc. Sức
sống rực lên ở Hảo khi chị cắm cúi vào rừng chữ, như chưa từng mệt mỏi
sau một ngày làm việc với những cái máy may đầy kim nhọn. Đứng lâu mỏi
chân chị la cà ở gian sách khác nhưng mắt luôn ngó về nơi gã đàn ông xưa
từng đứng.” (tr.12) Hảo đâu biết rằng chính cái sự ảo vọng của quá khứ mà
cô đã đánh mất đi tình yêu đích thực của đời mình trong hiện tại. Nhân vật
tôi rất yêu Hảo, muốn chăm lo bảo bọc cho đời Hảo dù cách biệt về tuổi tác.
Thế nhưng tôi chưa bao giờ hiện hữu trong mắt Hảo. Có lẽ một sự lặp lại
của định mệnh mới giúp cho cô cho Hảo nhận ra đâu là giá trị thật của tình
yêu.
Dịu trong Xác bụi cũng sống mãi với kí ức xưa mà quên đi cuộc sống
hiện tại của cô. Người yêu cũ của cô (Nhu) đã chết ở nơi xứ người mà chưa
tìm được xác. Nhu vẫn hiện về trong những giấc mơ của cô “ Nhu vẫn
Trang 7
thường về trong chiêm bao, bằng nhân dạng thằng con trai mười chín
tuổi.”(tr 16) Dịu đã luôn sống với kí ức đẹp thời con gái khi mới yêu lần đầu
nên cô mới rơi vào thế giới vô thức của những giấc mơ. Bằng linh cảm,
bằng trái tim yêu, bằng sự nhớ nhung chân thành, hình bóng của Nhu trở về
với Dịu trong hình hài của một con người chớ không phải là sương khói
mong manh. Dịu luôn ray rứt khi đi lấy chồng vì nghĩ rằng mình đã phản bội
Nhu “ Những giấc mơ mang bóng dáng Nhu buồn rượi”. (tr 17) Và nỗi ám
ảnh ấy nó làm cho đời sống vợ chồng của cô không êm ấm “Chồng em đã
quen việc nửa đêm vợ tự dưng ngồi dậy ngó quanh, thuộc cái nỗi ám ảnh
của thằng bạn cùng xóm tên Nhu, nhận ra nỗi đắn đo hổn hển hay không hổn
hển của vợ”. (tr.17) Trong căn nhà của Dịu người ta sẽ thấy một tình cảnh
thật là trớ trêu: mang tiếng là vợ chồng nhưng đồng sàng dị mộng. Những
giấc mơ của Dịu có kết thúc hay không khi cô tìm được tro cốt của Nhu mang
về. Đó cũng là câu hỏi cứ day dứt mãi cho bạn đọc.
Con người không nên phủ nhận quá khứ nhưng cũng đừng vì sống mãi
những kỉ niệm trong quá khứ mà đánh mất đi những gì tốt đẹp đanh hiện hữu
ngay bên cạnh mình. Thiết nghĩ đó cũng chính là thông điệp mà Nguyễn Ngọc
Tư muốn nhắn gửi đến tất cả mọi người.
3.2. Con người cô đơn vì những lỗi lầm.
Khi người ta gây ra lỗi lầm, nếu là người có lương tri người ta sẽ sám
hối và tự thu mình lại và sống trong nỗi dằn dặt ê chề. Nếu được người ta
tha thứ thì người phạm lỗi cũng cảm thấy không chuộc hết lỗi mà mình đã
gây tổn thương cho người ấy.
Khi đọc đến truyện Sổ lồng, ta không khỏi xót xa cho Lý. Người đàn
bà sống mà luôn bị chồng hành hạ vì những lỗi lầm trong quá khứ: có bầu
với người đàn ông khác trước khi lấy hắn. Lý lấy chồng trong sự bồng bột vì
sự hối thúc của bà mẹ: phải tìm ai đó cưới ngay để cái thai vô chủ đội bụng
Trang 8
thì tao đi bỏ xứ. Lý đã không ngần ngại suy nghĩ và đưa ra quyết định ngay “
Ra sông cọ lọ gặp thằng con trai đằng xóm chài tôm mà cứ đứng ngệt ngó
mình, Lý ngoắc lại hỏi, có muốn lấy tui không?” (tr.60) Sau khi cưới chưa
tròn tháng, anh chồng phát hiện cứ dán bụng mình vào bụng vợ là nghe có gì
đó động cựa phập phồng. Chồng Lý từ đó trở nên thay đổi tử một chàng trai
ngù ngờ dễ thương đã trở thành một người đàn ông cộc cằn say xỉn, hay
mắng nhiếc và đánh vợ. Bị hành hạ, bị dày vò và mức độ chịu đựng hết cho
phép, Lý trở nên mất trí tạm thời và điên loạn. Lý đã từng rủ một người đàn
ông bán kem thích Lý để bỏ trốn nhưng sau đó Lý lại đổi ý, Lý chuyển qua
cầm dao mà đuổi theo một chiếc ghe “ Tóc tai xấp xải sổ tung. Chân trần.
Quần xoắn ống cao ống thấp. Lý lăm lăm xách dao chạy trên bờ, chiếc ghe
chẳng biết sợ gì cũng lao đi xịt khói. Chị đã nhìn thấy gì trên ghe, má không
biết, chỉ biết đứa con gái tội nghiệp bỗng hộc lên, chụp lấy cây mác vót
phóng theo quyết liệt, điên dại.” (tr. 6262) Những hành động điên dại ấy
không bao giời Lý nhớ ra được bởi nó là những hành động của vô thức. Chính
bản năng trong con người Lý đã phản kháng lại cuộc sống đau khổ bằng
những hành động ngay dại đó. Lý chỉ được nghe người này người kia kể lại
cho mình biết, Lý hoàn toàn không biết được những hành động đã làm của
mình“ Ký ức bị đứt, từ xế trưa hôm qua đến giờ là một khoảng rỗng không.
Hồi chưa chồng có lần say, Lý cũng lẫn lộn nhớ quên vài thứ, nhưng không
quên trắn như chưa từng sống kiểu này”. (tr.56). Chính cái giây phút mà
những hành động trong vô thức trỗi dậy mãnh liệt là lúc Lý mới thật sự là
chính mình. “ Mặc kệ con dao lút cán trong bùn, chị nhẹ nhõm thả tàu bược
về nhà. Tĩnh lặng tràn trề, chị trôi ngửa như xác chết, mắt chong rờ rỡ bóng
mây. Hơn nửa đời lí nhí cúi mặt, Lý bỗng nhìn vào trời không run sợ mảy
may.” (tr. 62)
Trang 9
Người mẹ làm nghề thầy bói trong Coi tay vào sáng mưa chắc sẽ vui
mừng lắm khi được nắm bàn tay con và ôm con vào lòng. Nhưng nghịch lí
thay khi người con của bà trở về chỉ là một phần của thân thể một bàn tay
bị chặt lìa. Bao nhiêu năm kể từ khi để thất lạc đứa con lên tám ngồi ăn vạ
giữa chợ vì cái tội đòi mua hộp bút màu, bà Năm Nguyệt luôn day dứt, đau
khổ. Chồng bà sau khi mất con cũng bỏ bà đi biệt. Bà sống trơ trọi một mình
và đi phiêu bạt khắp nơi tìm con với niềm hi vọng mỏng manh cái dấu hiệu
đặc biệt trên bàn tay trái “Trong những tháng ngày bàn tay phiêu bạt, bà nắm
những bàn tay khác và không chịu được cái ý nghĩ mình níu người dưng đây
mà buông bỏ máu thịt của mình, bà bỏ nghề. Chỉ hi vọng là không buông.”
(tr. 69) Tác giả không nói rõ vì sao đứa trẻ biến mất cũng có thể là nó bị
người khác bắt đi cũng có thể nó hận mẹ nó vì đã buông tay bỏ rơi nó giữa
dòng người đông đúc. Và khi bàn tay của đứa con thơ bé năm nào quay về
trong bộ dạng chay sần và đầy sẹo và đứt lìa thì bà đã biết con bà không tha
thứ cho bà. Bà không thể giải thích để người con hiểu bởi nó có về gặp bà
đâu. Nó đã không muốn nhìn lại bà. Hi vọng tìm được con nhưng khi tìm lại
được thì bà phải đau đớn gấp vạn lần. Con bà những năm lưu lạc đã trở
thành một tay anh chị trong chốn giang hồ. Hiện tại nó đang bị chặt mất một
bàn tay và có thể trong tương lai nó có thể bị tù hoặc chết. Nó hận bà. Đó
chính là nỗi đau đến xé ruột. “ Bàn tay vẫn còn nằm lại trên mặt bàn trầy
xước. Bàn tay để ngửa. Cụt đến nửa ống. Vô nghĩa biết bao một bàn tay
không còn cầm nắm được. Người đàn bà kêu con ơi, níu mãi bàn tay xanh xao
đó.” ( tr. 70) Có nỗi cô đơn nào lớn hơn nỗi cô đơn gặm nhấm nỗi đau do
chính lỗi mình gây ra.
Nếu như ở truyện Coi tay vào sáng mưa người mẹ mãi cô đơn vì mất
đi đứa con trai do chính mình làm thất lạc thì người cha trong Mùa mặt rụng
lại đánh mất chính mình trong mắt đứa con gái mười chín tuổi. Nhân vật anh
Trang 10
người cha đã hoàn toàn đánh mất tình yêu thương, sự kính trong mà người
con gái dành cho anh. Lỗi là ở chính anh. Anh không giữ được lòng chung
thủy với vợ lại đèo bồng có thêm phòng nhì. Trước đây, một lần con gái –
Mèo Ngố thất vọng không tin vào đàn ông sau cái lần tình cờ thấy người yêu
chở cô gái khác thì ông bố khẳng định “.. đừng quơ đũa cả nắm, ba đâu phải
loại đó..”( tr 25) Mèo Ngố có lại được niềm tin vào cuộc sống vì cha nó là
điểm tựa để nó tin rằng đàn ông trên đời vẫn còn có người đàng hoàng không
đi lăng lăng bậy bạ. Ấy thế mà mọi thứ đã sụp đỗ tan tành khi cô con gái phát
hiện ra ba mình có vợ bé và đã có một đứa con. Người cha vô cùng sững sờ
không biết nói gì với con khi con gái khi nó hỏi ba để cái mặt rớt ở đâu rồi.
Anh cũng tự vấn lương tâm anh xem anh còn mặt hay không và cuối cùng
“Anh dáo dác nhìn quanh căn phòng mà trước dây anh thường đã đến ở vào
giờ nghỉ trưa, cả khi thằng bé kia chưa ra đời. Gương mặt anh đã bị rơi
trong căn phòng này vào cái đêm Giáng sinh đó. Thỉnh thoảng anh lại nhìn
thấy nó nằm chóng chơ trên đất, nhưng chạm tay vào chỉ là vụn bụi.” (tr.
28,29) Người cha không còn hiện diện trong mắt của cô con gái. Sống giữa
ngôi nhà thân thương mà anh như không còn tồn tại nữa. Con anh không còn
thủ thỉ tâm sự mỗi khi có chuyện như thời còn bé, cũng không chào anh khi ra
khỏi nhà, có chuyện cần nhờ đến cha cũng tự làm lấy. Nó cũng không còn
nghe lời anh thậm chí vì buồn nó còn tự hành hạ bản thân khi đi làm nhân
viên phục vụ trong một quán bia. Anh cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của
mình thậm chí cả ở nhà vợ bé.
3.3. Con người cô đơn và nỗi sợ bị lãng quên
Ở truyện Tro tàn rực rỡ, Nhàn sống cùng chồng ở xóm Thơm Rơm.
Ông Tam chồng cô suốt ngày say rượu và khi say ông tủi thân thì chỉ có một
thú vui duy nhất là đốt nhà để được ngắm những đốm tro tàn đỏ rực. Tam đã
năm lần tự tay đốt nhà mình để ngắm, cái mà phần lớn người đời vừa lo
Trang 11
ngại, vừa hoảng sợ. Nhàn thì cứ để mặc cho chồng đốt mà chẳng chữa cháy
vì cô đang hạnh phúc được ngắm Tam khi hắn say đắm, tê mê ngắm những
đám cháy rực lửa. Đã từ lâu rồi khi gia đình liên tiếp xảy ra những mất mác
đau thươnghai đứa con lần lượt rời xa thế giới này thì chồng Nhàn không
còn nhìn thấy cô nữa. Sau mỗi lần Tam đốt nhà, Nhàn lại cặm cụi đi kiếm
từng bó lá, cây cọc về dựng lại để... cho chồng đốt. Nhàn mong muốn được
chồng yêu thương và quan tâm đến mình. Có lẽ vì thế mà “ Nhàn đã không
chạy ra khỏi đống lửa như mọi khi, anh à! Không biết chị thấy mệt rồi hay
nghĩ chỉ ở giữa đám cháy Tam mới nhìn thấy chị" ( tr. 144). Không có gì não
nề bằng việc mình sống sờ sờ ngay bên cạnh chồng mà chồng xem như mình
đã chết. Nhàn đã chờ đợi Tam nhìn thấy mình nhưng chờ mãi mà chồng vẫn
không nhìn thấy. Nhàn đã không còn con đường nào khác đành lựa chọn cách
ở trong lửa thì Tam mới thấy mình. Chua xót biết chừng nào! Để người khác
không lãng quên mình người ta đôi khi đánh đuổi cả mạng sống của mình.
Con người nhiều lúc khờ khạo dại dột. Họ sống nhưng lại cô đơn và nỗi cô
đơn ấy lại gậm nhấm chính tâm hồn họ làm cho họ mất phương hướng. Cô
đơn lả ngọn lửa thiêu cháy mọi thứ không tốt đẹp.
Em cùng chung số phận như Nhàn, cũng luôn mong muốn có tình yêu
của chồng, muốn mình có một vị trí nào đó trong tim chồng. Vì thế mà em đã
kể hết chuyện này đến chuyện khác về Nhàn để chồng cô thường xuyên về
nhà và để cho cô không còn cô đơn trong giây phút ở bên chồng. Em và chồng
lấy nhau nhưng trong tim chồng lúc nào cũng có hình bóng của Nhàn. Trong
cái đêm Nhàn cưới Tam, chồng em đã say nên tưởng nhầm em là Nhàn mà ăn
ở với nhau. Đó cũng chính là cái đêm định em có thai. Biết được chồng
không thương mình nhưng em vẫn hi vọng một ngày nào đó chồng sẽ nhìn
em với cái nhìn ngây ngất và bừng cháy như trong cái đêm định mệnh đó. “
Nhưng cái nhìn đó không bao giờ em còn thấy lại cả khi em nói anh ơi con Tí
Trang 12
lại có em rồi, đạp mạnh lắm, chắc con trai. Mắt chồng vẫn tôi, lạnh, sâu ” (tr.
142) . Và sau cái chết của Nhàn thì em cũng không còn thứ gì để kể cho chồng
quay về với mình và các con. Có thể lại có thêm Nhàn thứ hai chăng?
Tôi trong Biến mất ở Thư Viên cũng là trường hợp tương tự. Tôi yêu
Hảo ngay từ cái nhìn đầu tiên dù chênh lệch tuổi tác. Hảo khi ấy bị Sinh
ruồng bỏ, sống cô đơn một mình. Tôi luôn bên cạnh che chở và bảo vệ Hảo.
Hai người luôn đi chung với nhau mỗi buổi tối . Tôi đã nghĩ về một đám cưới
với Hảo nhưng Hảo lại luôn đi tìm hình bóng của Sinh. “ Cuộc tìm kiếm ngày
càng mênh mông vô tận, và đôi lúc đang hôn nhau hảo nhắc tới một cuốn
sách nào đó mà con mọt sách như tôi nghe lạ” (tr.10) Tôi yêu Hảo rất chân
thành và mong muốn đem lại cho Hảo niềm vui. Tôi đau khổ vì trong tình yêu
này hắn là người cô đơn, hắn không bao giờ hiện hữu trong tim Hảo “ Tôi
kêu trong câm lặng. Hảo ơi nhìn tôi đi, tìm kiếm tôi đi. Không âm thanh,
nhưng cổ họng thì như bể nát ” (tr. 12). Tuyệt vọng, sợ hãi tôi cũng đã hành
động “Vụt mất như một phụ diễn trong màn ảo thuật, tôi đi vào khe của
những cuốn sách, náu mình trong thứ bóng tối trong veo” ( tr.13)
Nhàn, em, tôi đã sống trong sự cô đơn và luôn sợ rằng mình sẽ bị người
thân yêu lãng quên nên họ đã hành động. Hành động đó là tiếng nói đấu tranh
trong tuyệt vọng để được nhìn thấy, để được yêu thương.
3.4 . Con người cô đơn và sự trốn chạy
Nguyên Ngọc Tư với tâm hồn nhạy cảm đã sớm nhận ra con người ta
khi gặp những biến cố nào đó trong cuộc sống thường hay có khuynh hướng
thu mình lại trong vỏ ốc của chính mình. Vì thế Nguyễn Ngọc Tư đã có
những dòng văn cực ngắn nhưng vô cùng ý nghĩa về sự trốn chạy của những
con người cô đơn. Có người gặp bất hạnh mà không có người chia sẻ thì tìm
đến những nơ vắng vẻ để sống như ông Sáng ( Đảo), lại có người bị chồng
phản bội mà ngậm câm không thốt nổi nên lời như em ( Vị của lời câm). Có
Trang 13
thể nói mỗi người mỗi cách thể hiện khác nhưng điểm chung là họ cuộc
sống của họ rơi vào bế tắc và họ đang ở trong vực thẳm của sự cô đơn.
Ở Đảo, một người đàn ông tên Sáng sống một mình một trên Hòn
Trống nơi mà chỉ có: “Cái gọi là nhà lọt thỏm giữa những bãi đá và vài ba
luống rau, những lùm bụi hoang dại. Từng ấy đất đá chỉ là chút bụi mờ trên
mặt trùng khơi” (tr.33). Không có đôi mắt nhưng ông cảm nhận tinh tường
những giông, gió, nắng, trời. Anh làm việc dự báo mà "người ta tin ông cũng
như tin đằng sau cái vẻ dịu dàng của trời biển là sự hung hiểm khó lường."
(tr.32) Nguyễn Ngọc Tư không giải thích vì sao Sáng bỏ ra đảo sống một
mình đơn độc, trơ trọi nhưng phần nào ông tìm đã tìm thấy sự bình yên ở cái
nơi hoang vu ấy.
Cuộc đời bất ngờ, không ai lường trước được những khúc quanh và
biến cố. Rồi quà xuất hiện trong vòng 27 tiếng đồng hồ như một món quà từ
trên trời rơi xuống mà Sáng cũng chẳng hề bận tâm bất cứ điều gì, đến cả
tên của người đàn bà ấy là Đào, Mận hay Phượng mà gã cũng còn không biết
huống gì cuộc sống làm “vợ thiên hạ” của chị ta. Cũng vậy, người đàn bà ấy
cũng không hay biết Sáng là ai, làm gì và vì sao lại trốn ra đảo sống một
mình. “ Gặp nhau giữa biển, người ta hỏi nhau quá khứ chẳng qua bâng quơ
đưa chuyện” (tr.37). Họ đến với nhau rồi chia xa như bầy chim di trú một
cách đầy ngẫu nhiên, mang tính bản năng vậy thôi, hỏi lấy đâu ra cuộc sống
của một con người bình thường ở chốn hoang vu này. Nhưng rồi sự bình yên
của ông biến mất khi quà cố tình hăm dọa ông về một giọt máu của ông với
cô. “ Cơn giận dâng ứ ngang cổ họng, ông không gọi quà dậy để ăn chút gì
trước khi đi, cũng làm lơ chẳng tiễn đưa món quà ra ngoài bãi sau tiếng hú
dài làm hiệu của chiếc ghe ghé đón” (tr. 38). Ông ra nơi bao la giữa muôn
trùng nước, đá và gió ấy để lãng tránh cuộc đời, để tìm sự thanh thản trong
những ngày còn lại. Làm sau đây nếu như ông có một đứa con thật? Sự bình
Trang 14
an trong tâm hồn của ông không còn nữa mà thay vào đó là những bão tố vốn
đã ngủ yên trong ông nay đã được khơi dậy “Sáng cảm giác những cột sóng
phủ lấy người mình, vô phương chạy trốn. Coi như là mơ, nhưng gói sao
cũng không vừa.” ( tr. 38) Vậy là những ngày tháng yên bình không còn nữa
dù ông có trốn chạy ra nơi đảo xa xôi thì ông cũng không tránh được sự phiền
muộn của cuộc sống.
Là phụ nữ khi biết chồng mình có nhân tình thông thường người ta sẽ
phản ứng rất mạnh bằng la hét, chửi bới ông chồng nhưng cũng có những cô
vợ chạy trốn sự thật ấy bằng cách im lặng không nói lên lời nào. Đó chính là
cách trốn chạy của nhân vật xưng em trong Vị của lời câm. Nguyễn Ngọc
Tư đã xây dựng hình tượng nhân vật này hoàn toàn khác với những nhân vật
cô đơn trước. Em biết tất cả mọi thứ như trước khi cưới em đã nhận ra mình
và chồng không thật sự yêu nhau nhưng em lại không dám nói lên lời, khi
cưới nhau về chồng hờ hững với mình em cũng không đủ sức để nói, và cao
điểm khi phát hiện chồng ngoại tình cô cũng ngậm câm “Câu hỏi đó lại vo ve
trong đầu khi xe lăn bánh, nhập ngừng không biết có nên gời anh tin nhắn
“Cổ áo anh thường vướng mấy sợi tóc, em đo hoài mà chúng vẫn dài hơn tóc
của em. Kể cả khi em nuôi tóc dài thì tóc ấy vẫn dài hơn”. Ngậm câm hai câu
cứng đanh ấy không biết bao nhiêu lần, rồi nuốt trộng, lần nào cũng mắc
nghẹn muốn nín thở. Tối qua cắn nhằm chữ tóc mẻ luôn miếng răng khôn.”
Có lẽ Nguyễn Ngọc Tư thấu hiểu nỗi đau lớn nhất của sự cô đơn chính là
không thể nói nên lời.
Thế giới nội tâm về sự cô đơn của con người được Nguyễn Ngọc Tư
miêu tả rất thành công. Người ta cô đơn với nhiều lí do và cũng có nhiều
cách để chạy trốn sự cô đơn. Cô đơn là nỗi đau gậm nhấm tâm hồn của mỗi
con người. Cô đơn cũng có thể làm con người ta xa lánh cuộc sống xô bồ để
Trang 15
tìm đến nơi hoang vắng, cô đơn có thể làm cho người ta câm nín không thốt
nổi nên lời.
3.5. Con người cô đơn vì sự ghẻ lạnh của những người thân
Sự lạnh nhạt của những người thân trong dòng họ cũng sẽ làm con
người ta bị ức chế và sụp đỗ. Nhân vật anh trong truyện “ Bâng quơ khói
trắng” thật tội nghiệp khi bị sự ghẻ lạnh của các em chỉ vì câu nói lúc tức
giận của ông già trước lúc mất “Thằng trời đánh, mày không phải con tao”
(tr. 50). Trước đây, mỗi khi đến giỗ mẹ thì bốn anh em cùng vui vẻ bên nhau.
Nhưng kể từ khi người cha nói câu ấy thì tình cảm anh em nhạt dần. Đến
ngày giỗ của ba mẹ, mỗi người con tự cúng lấy mà không qua nhà người anh
hai nữa. Người anh cũng tìm mọi cách để kết nối lại tình cảm với các em.
Nhưng anh làm sao hàn gắn được khi chính bản thân anh cũng nửa tin nửa
ngờ về lời của người cha “Vợ xót quá, ấm ức xui chồng đi thử cái di truyền
gì đó, cho người ta sáng mắt ra. Anh đang châm rượu cúng, quay mặt vô vách
nạt, thôi đừng có tào lao, tía giận nói vậy… Anh sợ chị vợ bắt gặp cái ý nghĩ,
lỡ như lời ông già là sự thật.” (tr. 53) Tình cảm anh em ruột thịt sao mà
mong manh chỉ cần một biến cố nhỏ mà người ta có thể vứt bỏ như vứt bỏ
một vỏ chuối sau khi ăn. Nhân vật người anh sống trong sự ghẻ lạnh của các
em mình nhưng vẫn mong muốn các em sẽ hồi tâm chuyển ý để cả gia đình
lại vui vẻ như xưa vì thế anh kêu vợ “Giỗ năm sau cũng nấu đủ sáu mâm cho
tui” (tr. 53)
Phước trong truyện Áo đỏ bắt đèn còn thê thảm hơn. Cậu đã mơ một
giấc mơ thật kì lạ. Câu mơ cậu được đứng trên sân khấu hát và nhảy cùng
người bạn. cha mẹ cậu cùng ôm nhau sung sướng. Sau đó cậu còn thấy mình
bị tai nạn dù cậu mặt cái áo đỏ chói mà ông lái xe vẫn không nhìn thấy. Trở
về hiện tại thì cậu đơn cô đơn trong căn nhà đầy mạng nhện. Và người bạn
duy nhất để giúp cho cậu vui chính là mấy con thằn lằn. “ Sáng qua mấy con
Trang 16
thằn lằn còn rơi phịch xuống bụng mình, chắc do nhỏ bồ nó thì thầm “ nằm
ngửa ra đi cưng”, nghĩ vậy nên mắc cười hoài. Lấy đó làm vui được một
ngày.” (tr. 47) Cha mẹ đã bỏ rơi cậu mà chạy theo tình mới đã lâu. Cậu bé
phải bươn chảy để tự kiếm sống lúc còn rất bé. Cậu luôn khao khát được sự
quan tâm yêu thương của cha mẹ. Giấc mơ của cậu đã nói lên điều ấy.
Người lớn vì niềm vui riêng mà quên đi trách nhiệm chăm lo cho đứa con mà
mình tạo ra là thật đáng trách. Và người đọc sẽ đồng cảm và thấu hiểu nỗi
cô đơn của những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Sẽ có những trái tim nhân nhậu
cưu mang các em nhưng tâm hồn các em sẽ bị nỗi đau ấy cứ đeo đẵng mãi.
4. Kết luận
Tập truyện ngắn Đảo khi vừa ra mắt bạn đọc vào năm 2014 đã được
sự đón nhận nồng nhiệt của nhiều độc giả. Nhà xuất bản trẻ đã nhận xét “
Mười sáu truyện ngắn không thể ngắn hơn. Có thể nói đó là những bài thơ
viết bằng văn xuôi về số phận của những con người tranh đấu trong tuyệt
vọng để được nhìn thấy. Những truyện ngắn cho thấy dường như Nguyễn
Ngọc Tư đang ra khỏi hiện thực của những cánh đồng để tìm đến vùng hỗn
mang tâm trí con người.” Đúng vậy, nhà văn trẻ đã có cái nhìn sâu sắc hơn
về hiện thực cuộc sống. Nỗi đau của con người không chỉ là nỗi đau về thể
xác mà đó là nỗi đau về tinh thần. Đó là sự cô đơn trong tuyệt vọng. Hình
tượng con người cô đơn trong tập truyện vẫn luôn ám ảnh những ai đã đọc
tập truyện. Ở tập truyện này ta thấy tác giả dựng nên một bức tranh hiện
thực u ám, hoang lạnh, tối tăm. Bức tranh ấy đã đánh thẳng vào tâm thức của
từng độc giả để rồi làm bật lên thông điệp ý nghĩa: hãy trân trọng những gì
mình đang có, hãy biết yêu thương những người bên cạnh, hãy biết thứ tha
cho lỗi lầm của người khác.
Trang 17
Tài liệu tham khảo
1.
Tập truyện ngắn Đảo, NXB Trẻ,2014
2.
Nguyễn Ngọc Tư từ Cánh đồng bất tận … “Đảo”, Văn học quê nhà,
w.w.w.vanhocquenha.vn
3.
Nguyễn Ngọc Tư đặc sản miền Nam, w.w.w.viet.studies.net
4.
Hình tượng cong người cô đơn trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư, w.w.w.thvi.vn
Trang 18