Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Tiểu luận cao cấp chính trị: Một số biện pháp đổi mới công tác quản lý Ngân sách Nhà nước của địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.88 KB, 50 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế –
xã hội của đất nước, Ngân sách Nhà nước đã trở
thành công cụ điều chỉnh vó mô cực kỳ quan trọng
của Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, chính trò, văn hóa, xã hội.
Từ khi Đại hội VI của Đảng cộng sản việt nam đề
ra đường lối mới toàn diện, để thể chế hóa các
quan điểm chủ trương chính sách của Đảng về việc
quản lý Ngân sách Nhà nước, Nhà nước đã ban
hành luật Ngân sách và các văn bản hướng dẫn về
quản lý Ngân sách nhằm sử dụng có hiệu quả vốn
Ngân sách Nhà nước, quản lý thống nhất nền Tài
Chính quốc gia, tăng tích luỹ để thực hiện Công nghiệp
hóa – Hiện đại hóa đất nước theo đònh hướng xã hội
chủ nghóa.
Để góp phần nâng cao và hoàn thiện quản lý
Ngân sách tích cực đáp ứng yêu cầu kinh tế – xã hội
chuyển sang thời kỳ mới , nên em chọn đề tài này :”
Thực hiện và một số biện pháp đổi mới công
tác quản lý Ngân sách Nhà nước của đòa
phương Quận Cái Răng “ Nhằm góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Nghò quyết Đại hội
Đảng Bộ Lần Thứ VIII Quận Cái Răng nhiệm kỳ 2001
– 2005 đã đề ra.
Đề tài này sẽ giúp em nghiên cứu một số vấn
đề về lý luận, đồng thời tìm hiểu được thực trạng ở
Quận nhà về việc thực hiện quản lý Ngân sách thời
gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần thực hiện có hiệu quả hơn nữa trong quản lý
Ngân sách Nhà nước trên đòa bàn Quận, thúc đẩy


hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà Nước giao
cho, đó là nội dung vấn đề nghiên cứu mà em chọn.
Tiểu luận ngoài phần mở đầu và kết luận, nội
dung trình bày trong 3 chương:

1


Chương 1 : Ngân sách nhà nước trong việc phát
triển kinh tế xã hội .
Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý Ngân sách
nhà nước ở Quận Cái Răng.
Chương 3 : Những giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý Ngân sách nhà nước ở Quận Cái Răng –
Thành Phố Cần Thơ.
CHƯƠNG I
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
I/ BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ XÃ HỘI :
1/ Khái niệm và bản chất của ngân sách
nhà nước:
a/ Khái niệm:
Ngân sách Nhà nước là hệ thống quan hệ kinh
tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài
chính của xã hội, để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ
của nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các
khoản thu chi trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền quyết đònh và thực hiện trong một
năm nhằm bảo đảm thực hiện chức năng nhiệm vụ
của Nhà nước.
b/ Sự cần thiết của ngân sách nhà nước
trong nền kinh tế – xã hội :
Ngân sách Nhà nước là một phạm trù kinh tế
mang tính lòch sử, sự ra đời và sự tồn tại của ngân
sách gắn liền với sự ra đời của Nhà nước, nhằm
đáp ứng các nhu cầu về tài chính để thực hiện các
chức năng quản lý và điều tiết nền kinh tế của xã
hội của Nhà nước.
2


Lúc đầu ngân sách Nhà nước tồn tại dưới hình
thức của cải vật chất do các tầng lớp dân cư thu
nộp hoặc thu chiếm trong chiến tranh. Khi xã hội phát
triển quan hệ hàng hóa tiền tệ ra đời dưới hình thức
các nguồn thu, nguồn chi được qui đònh :
- Nguồn thu chủ yếu của ngân sách là thuế, phí
lệ phí, các khoản tài trợ, vay mượn từ nước ngoài.
- Nguồn chi chủ yếu của ngân sách là : chi đầu tư
XDCB và phát triển kinh tế xã hội, chi thường xuyên
của nhà nước. Ngày nay, cùng với quá trình phát
triển và tăng trưởng nền kinh tế hiện đại trên phạm
vi thế giới và phạm vi cả nước, nguồn thu trong nước
ngày càng tăng và chiếm đại bộ phận của tổng thu
ngân sách, đồng thời nhu cầu phát triển kinh tế và
đời sống nhân dân đòi hỏi thu ngân sách phải đáp
ứng các nhu cầu chi cho đầu tư phát triển kinh tế –

khoa học kỹ thuật , đầu tư phát triển các lónh vực y
tế, giáo dục ngày càng tăng. Do đó, Ngân sách Nhà
nước là yêu cầu cần thiết khách quan trong nền kinh
tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Đối với nước ta, quá trình đổi mới phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành cơ chế thò
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo đònh hướng
XHCN.
Vì thế, tất yếu phải có ngân sách nhà nước
nhằm để thực hiện khai thác nguồn thu và tích lũy
vốn cho tất cả các hoạt động của Nhà nước và sử
dụng cân đối thường xuyên như : Thực hiện kế hoạch,
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, dự
toán chi hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà
nước, cũng như cung cấp một phần vốn cho các khâu,
các bộ phận khác trong hệ thống tài chính, nhằm
đáp ứng nhu cầu ổn đònh và phát triển nền kinh tế –
xã hội, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân,
đảm bảo an ninh quốc phòng.
c/ Bản chất của Ngân sách Nhà nước :
Trên ý nghóa thực tiễn hoạt động thu chi của ngân
sách nhà nước thể hiện quá trình điều tiết phân
phối và phân phối lại giá trò tổng sản phẩm xã hội

3


về bản chất xã hội do Nhà nước là đại diện của
một giai cấp ,vốn ngân sách của Nhà nước cũng

mang tính giai cấp nó phục vụ trực tiếp cho yêu cầu,
chức năng của Nhà nước trong từng thời gian lòch sử
nhất đònh. Xuất phát từ ý nghóa đó ta thấy bản chất
của Nhà nước thể hiện các nội dung sau :
- Các khoản thu chi của Ngân sách phần lớn mang
tính chất bắt buộc, còn các khoản chi lại mang tính
cấp phát. Đây là nội dung quan trọng có ý nghóa
quyết đònh tồn tại của ngân sách Nhà nước. Bởi vì,
xuất phát từ quyền lực của Nhà nước là tập trung
thống nhất và nhu cầu tài chính để thực hiện chức
năng quản lý điều hành nền khinh tế – xã hội của
nhà nước.
-Bất kỳ một Nhà nước nào cũng có quyền lập
pháp do yêu cầu hoạt động của mình đòi hỏi khoản
chi tiêu cần thiết, Nhà nước phải sử dụng quyền đó
để xây dựng hệ thống pháp luật tài chính và thuế
qui đònh mọi đối tượng các tổ chức kinh tế và cá
nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho Nhà
nước, với tư cách là một chủ thể kinh tế thực hiện
nghóa vụ đối với nhà nước. Tất nhiên tính chất bắt
buộc , qui đònh các khoản thu ngân sách của Nhà
nước không mang tính tiêu cực. Bởi lẽ đây là sự cần
thiết, mà mọi đối tượng nộp thuế đều có nghóa vụ
nộp thuế của mình trong việc bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của Nhà nước, của quốc gia. Điều đó
chứng tỏ vai trò của Nhà nước là một yếu tố quyết
đònh tính chất hoạt động của Ngân sách Nhà nước.
- Mọi sự hoạt động của ngân sách Nhà nước đều
là hoạt động phân phối các nguồn tài chính, nó thể
hiện các mối quan hệ trong phân phối, có ý nghóa

quan trọng trong quá trình nhận thức về bản chất của
ngân sách Nhà nước. Quá trình phân phối, vấn đề
cần giải quyết giữa các đối tượng tham gia, chính là
vấn đề lợi ích kinh tế . Vì vậy, quan hệ giữa Nhà nước
và xã hội qua ngân sách Nhà nước cũng chính là
quan hệ kinh tế.
Thực tế việc phân phối các nguồn tài chính để
hình thành nguồn thu của Nhà nước, dù thực hiện
dưới hình thức nào thực chất là quá trình giải quyết
quyền lợi kinh tế giữa nhà nước và xã hội. Kết quả

4


nguồn tài chính được phân chia thành 2 phần : Phải
nộp vào ngân sách Nhà nước và phần để lại cho
các thành viên trong xã hội.
Phần nộp vào ngân sách nhà nước sẽ tiếp tục
phân phối lại, để thực hiện qua cấp phát từ ngân
sách cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư phát triển.
Mặc khác, các quan hệ kinh tế trong quá trình
phân phối này luôn luôn gắn liền với lợi ích của các
chủ thể tham gia vào quá trình phân phối các nguồn
tài chính và chính chúng đã qui đònh bản chất kinh tế
của ngân sách Nhà nước. Do đó, việc khẳng đònh
ngân sách Nhà nước thể hiện các quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và xã hội có ý nghóa quan trọng
không chỉ đơn thuần về mặt lý luận mà còn thật sự
cần thiết trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà
nước, nó đòi hỏi chúng ta phải có một chính sách

đúng đắn tôn trọng các qui luật khách quan, không
được coi thường lợi ích kinh tế của xã hội để huy động
một cách tùy tiện các nguồn thu nhập của các
thành viên trong xã hội, đồng thời mọi khoản chi tiêu
của Nhà nước phải tính toán chặt chẽ, tiết kiệm,
mang lại hiệu quả cao và đảm bảo công bằng xã
hội, kích thích phát triển đầu tư sản xuất và tăng
nguồn thu ngân sách Nhà nước .
Như vậy, có thể hiểu rõ bản chất của ngân
sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính
của xã hội để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước nhằm đảm bảo yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước .
2/ Chức năng ngân sách Nhà nước :
Trong hoạt động ngân sách Nhà nước có 2 chức
năng
a/ Chức năng phân phối :
- Chức năng phân phối của ngân sách Nhà nước
biểu hiện bản chất của ngân sách Nhà nước và
được vận dụng vào đời sống kinh tế – xã hội để
phân phối, chủ yếu là tổng sản phẩm quốc dân
theo những tỉ lệ và xu hướng nhất đònh cho tích lũy
và tiêu dùng nhằm tích tụ, tập trung vốn để đầu tư

5


phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng.

Chính vì thế, nhờ vào chức năng phân phối của ngân
sách Nhà nước mà các nguồn tài chính của xã hội
được huy động và sử dụng hợp lý, đảm bảo cho việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của Nhà
nước.
-Thông qua quan hệ phân phối mà các nguồn tài
chính được điều hòa đảm bảo cho sự phát triển cân
đối giữa các ngành, các đòa phương đảm bảo nhu cầu
chi tiêu cho các lónh vực sản xuất, kinh tế, điều tiết
thu nhập của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh
và các tầng lớp dân cư để vừa phục vụ cho nhu cầu
chung của xã hội, vừa đảm bảo sự đóng góp công
bằng hợp lý, đồng thời giảm bớt chênh lệch trong thu
nhập giữa các tầng lớp và giai cấp trong xã hội.
b/ Chức năng giám đốc :
Trong quá trình phân phối các nguồn tài chính để
đảm bảo cho việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước một cách hiệu quả, tiết
kiệm đảm bảo nguyên tắc chế độ tài chính của Nhà
nước.
Thông qua chức năng giám đốc mà Nhà nước
phát hiện những ưu điểm, những tồn tại, yếu kém
trên cơ sở đó đề ra các biện pháp cần thiết nhằm
thúc đẩy hoạt động quản lý và điều hành ngân
sách Nhà nước đạt chất lượng hiệu quả cao.
c/ Mối quan hệ giữa chức năng phân phối
và chức năng giám đốc :
Hai chức năng phân phối và chức năng giám
đốc của ngân sách Nhà nước được hình thành và
vận động trong mối quan hệ hữu cơ. Trong đó, phân

phối là chức năng trọng yếu, chức năng phân phối
vừa là tiền đề, vừa là căn cứ cho sự hoạt động của
chức năng giám đốc. Bởi vì, xuất phát từ chức năng
phân phối mà đòi hỏi giám đốc, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện phân phối các nguồn tài chính theo
đúng mục đích yêu cầu đề ra, đồng thời chỉ trên cơ
sở các kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối mới
có thể thực hiện được chức năng giám đốc của
ngân sách Nhà nước mà đảm bảo tính đúng đắn,
hợp lý của các quan hệ phân phối, đáp ứng yêu

6


cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước trong từng thời kỳ.
3/ Vai trò ngân sách Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế – xã hội :
Ngân sách Nhà nước có vai trò rất quan trọng
trong việc huy động vốn tài chính tập trung, đảm bảo
yêu cầu chỉ tiêu của Nhà nước. Đồng thời, thực
hiện yêu cầu cân đối giữa các khoản thu và khoản
chi của ngân sách nhà nước.
Đối với nước ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay
vai trò của ngân sách nhà nước càng có ý nghóa
quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại và phát
triển kinh tế đất nước. Bởi vì, xuất phát từ thực tế
của nền kinh tế thò trường hiện nay, với xu hướng
phát triển theo đònh hướng XHCN, vai trò của ngân
sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh vó mô nền kinh

tế của Nhà nước. Vai trò này rất quan trọng, vì cơ chế
thò trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vó mô từ
phía Nhà nước. Song Nhà nước cũng có thể thực hiện
điều chỉnh thành công khi có nguồn tài chính đảm
bảo, tức là khi sử dụng triệt để và có hiệu quả
công cụ ngân sách. Để làm rõ vấn đề này có thể
khái quát vai trò của Nhà nước trên các lónh vực sau :
+ Về kinh tế : Sự cần thiết phải có Nhà nước
để khắc phục những hạn chế của cơ chế thò trường.
Đó là việc của Nhà nước trong đònh hướng hình thành
cơ cấu mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh
và chống độc quyền. Ngân sách Nhà nước cung cấp
nguồn kinh phí để đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng,
hình thành các doanh nghiệp thuộc các thành phần
khác. Mặc khác, việc sử dụng công cụ ngân sách
thông qua các nguồn hình thành của nó cũng có ý
nghóa kinh tế rất lớn. Bởi lẽ, các khoản thuế và
chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò đònh
hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh
doanh.
+ Về mặt xã hội : Kinh phí của ngân sách Nhà
nước được cấp phát cho tất cả các lónh vực điều
chỉnh của Nhà nước, đồng thời khối lượng và kết

7


quả quản lý, sử dụng nguồn kinh phí này cũng quyết
đònh mức thành công của các chính sách xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhà nước

sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh. Thuế thu nhập
và thuế lợi tức có vai trò quan trọng nhằm điều tiết
thu nhập cao để phân phối lại cho các đối tượng có
thu nhập thấp. Các loại thuế gián thu còn có tác
dụng hướng dẫn con người tiêu dùng một cách hợp
lý. Để giải quyết vấn đề trên, đòi hỏi việc sử dụng
công cụ ngân sách Nhà nước phải được nghiên cứu
đầy đủ và phải có sự thống nhất giữa chính sách và
biện pháp. Đồng thời việc quản lý sử dụng nguồn
kinh phí ngân sách nhà nước có hiệu quả cũng quyết
đònh đến mức độ thành công của chính sách xã hội .
* Tóùm lại: Ngân sách nhà nước là công cụ
cần thiết quan trọng , có mục đích phục vụ quá trình
hoạt động và vai trò của Nhà nước nhất là trong giai
đoạn hiện nay cần phải được đổi mới một cách cơ
bản, đồng bộ và phù hợp với quá trình đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
II. PHÂN CẤP VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC :
1/ Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong
nền kinh tế – xã hội :
a/ Nguyên tắc tổ chức và quản lý ngân
sách nhà nước :
Hệ thống ngân sách nhà nước được tổ chức và
quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ được thể
hiện :
- Mặt tập trung qui đònh các chế độ Thu – chi của
hệ thống ngân sách từ trung ương đế đòa phương và
được thực hiện thống nhất. Đồng thời, chế độ quản
lý ngân sách tức khâu lập dự toán thu – chi đến

khâu chấp hành và quyết toán ngân sách cũng
thống nhất. Nguyên tắc tập trung thể hiện là ngân
sách Nhà nước. Nước cộng hòa xã hội chủ nghóa
việt nam đặt dưới sự quản lý của cơ quan quyền lực
cao nhất của nước ta là Quốc hội là cơ quan phê

8


chuẩn dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách,
cũng như chuẩn y các quy đònh về luật ngân sách.
- Đi đôi với tập trung, mặt trận dân chủ thể
hiện trong tổ chức và quản lý hệ thống ngân sách
tức là mỗi cấp chính quyền đòa phương ( Thành Phố,
Quận, Phường ) đều được tổ chức một cấp ngân
sách tương đương.
- Các đòa phương ( Thành Phố, Quận, Phường ) sử
dụng công cụ tài chính này tạo lập ngân sách của
Nhà nước đòa phương trong việc thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế – xã hội ở đòa phương. Chính quyền đòa
phương các cấp có thẫm quyền quyết đònh về thu – chi
ngân sách cấp mình, quản lý trên cơ sở đảm bảo
các thể chế thống nhất về thu – chi và quản lý ngân
sách.
Ngân sách đòa phương khi lập dự toán và quyết
toán đều do Hội đồng nhân dân chuẩn y. Mặt khác,
để thể hiện tính dân chủ trong quản lý ngân sách là
nhân dân có quyền tham gia đóng góp ý kiến các dự
thảo về Luật ngân sách và biểu quyết phê chuẩn,
thông qua các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân

dân các cấp. Trong nguyên tắc tổ chức và quản lý
ngân sách Nhà nước mối quan hệ tập trung và dân
chủ tùy thuộc vào quá trình phát triển và trình độ
quản lý kinh tế của các cấp chính quyền.
Với đường lối đổi mới hiện nay, việc quản lý
kinh tế tài chính được thay thế bằng cơ chế mới : cơ
chế thò trường với sự quản lý của Nhà nước theo
đònh hướng XHCN. Từ đó, mặt dân chủ của cấp dưới
cũng được thể hiện một cách đầy đủ hơn, tập trung
hơn trong quản lý và điều hành ngân sách, điều này
được ghi rõ tại điều 3 và 4 Nghò đònh 87/CP của Chính
phủ.
b/ Hệ thống ngân sách nhà nước nước ta :
Điều 3 Nghò đònh 87/CP của Chính phủ qui đònh hệ
thống ngân sách Nhà nước Việt Nam gồm 4 cấp
ngân sách :
- Ngân sách Trung Ương : Đóng vai trò chủ đạo
và chi phối ngân sách các cấp trong hệ thống ngân
sách bởi vì : ngân sách Trung Ương là công cụ tài chính

9


để thực hiện phân phối thu nhập trên phạm vi cả
nước . Đồng thời nguồn vốn của ngân sách Trung
Ương là ngân quỹ để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
– xã hội an ninh quốc phòng của quốc gia.
- Ngân sách đòa phương : ( Ngân sách Thành
phố (Tỉnh ) Quận ( Huyện ) Phường ( Xã Thò Trấn ) là
công cụ tài chính để chính quyền đòa phương các cấp

thực hiện thu thập phân phối quốc dân, là phương
tiện hữu hiệu để tài trợ chính cho chính quyền đòa
phương thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của
mình, tạo điều kiện đòa phương đầu tư vốn khai thác tối
đa những tiềm năng sản xuất, những lợi thế kinh tế
riêng của mình tạo ra của cải vật chất cho xã hội và
thực hiện chính sách xã hội ở đòa phương, bao gồm
các cấp ngân sách.
+ Ngân sách Thành Phố ( Tỉnh ) : Có vai trò
tổ chức chỉ đạo và tổng hợp
ngân sách cấp dưới, đồng thời thực hiện điều hòa
vốn ngân sách cấp dưới để cân đối ngân sách đòa
phương.
+ Ngân sách Quận ( Huyện ) Là cấp ngân
sách trong hệ thống ngân sách Nhà nước, ngân sách
cấp Quận có vai trò nhất đònh trong việc phát triển
kinh tế – xã hội ở đòa bàn Quận ( Huyện ) đến
Phường ( xã – Thò trấn ).
+ Ngân sách Phường ( xã – Thò trấn ) là cấp
ngân sách được qui đònh trong hệ thống ngân sách
Nhà nước hiện nay, nội dung thu – chi của ngân sách
cấp Phường ( xã – Thò trấn ) đã được hạch toán và
phản ánh vào ngân sách nhà nước.
Mặc dù, nguồn thu và nhiệm vụ chi cả năm
không lớn. Nhưng ngân sách Phường ( xã – Thò trấn )
là công cụ phục vụ rất hiệu quả cho chính quyền
Phường ( xã – Thò trấn ) trong việc thực hiện nhiệm vụ
kinh tế chính trò – xã hội, an ninh quốc phòng trên đòa
bàn luôn được ổn đònh cân đối.
2/ Tổ chức công tác quản lý ngân sách :


10


Công tác tổ chức ngân sách là quá trình thực
hiện 3 khâu công tác : Lập dự toán ngân sách ,cấp
hành ngân sách, quyết toán ngân sách .
a/ Lập dự toán ngân sách :
Công tác lập dự toán là khâu mở đầu của kế
hoạch quản lý vốn và cấp phát vốn của ngân sách,
thực hiện cân đối thu – chi nhằm đảm bảo các nguồn
vốn cấp phát của ngân sách để thực hiện nhiện vụ
kinh tế – xã hội trong năm kế hoạch.
Dự toán ngân sách là khâu rất quan trọng trong
quản lý ngân sách, vì nó có nhiều liên quan đến
nhiều lónh vực hoạt động. Đóng vai trò trọng yếu việc
đònh hướng phát triển kinh tế – xã hội. Để đảm bảo
việc lập dự toán ngân sách có căn cứ kinh tế là cơ
sở thực hiện phải đảm bảo các nguyên tắc sau :
+ Nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo
đảm an ninh quốc phòng.
+ Những nhiệm vụ cụ thể của các ngành các đòa
phương .
+ Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, tỉ lệ
% phân chia các khoản thu và bổ sung của ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới đã được qui đònh .
+ Chế độ thu, tiêu chuẩn đònh mức chi ngân
sách .
+ Kế hoạch chỉ đạo và nhiệm vụ kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước và đòa phương.

+ Tình hình thực hiện dự toán các năm trước.
+ Công tác lập dự toán ngân sách các cấp được
thực hiện theo thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính
và đảm bảo các yêu cầu :
- Dự toán ngân sách của các đơn vò dự toán phải
lập theo đúng biểu mẫu và thời gian do cơ quan tài
chính hướng dẫn, phải thực hiện các khoản thu – chi
của đơn vò theo mục lục ngân sách Nhà nước.
- Dự toán ngân sách các cấp phải tổng hợp theo
từng loại thu, từng lónh vực chi và theo cơ cấu giữa chi
thường xuyên, chi đầu tư phát triển .
-Dự toán ngân sách phải kèm theo báo cáo
thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ quyết toán.

11


b/ Chấp hành ngân sách :
Là nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chỉ tiêu thu –
chi của kế hoạch ngân sách và thực hiện các biện
pháp quản lý, tập trung đầy đủ và kòp thời, đúng
với thời gian, chế độ, nguyên tắc tài chính của Nhà
nước.
c/ Quyết toán ngân sách :
Quyết toán ngân sách nhằm tổng hợp tình hình
thực hiện ngân sách của một năm và đánh giá việc
xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và
phản ánh kết quả một năm tài chính, đồng thời
củng phản ánh tốc độ phát triển kinh tế của quốc
gia hay một đòa phương. Ngoài ra nó còn có tác dụng

tích lũy được tình hình, số liệu làm cơ sở cho việc xây
dựng dự toán thu – chi ngân sách của một năm sau và
rút ra những kinh nghiệm thực tiễn cần thiết trong tổ
chức điều hành quản lý ngân sách.
Ngoài ra trong quá trình tổ chức công tác quản lý
ngân sách phải tiến hành giám sát, kiểm tra, thanh
tra tài chính là một trong những nhiệm vụ của quản
lý ngân sách, bởi vì đó là thực hiện chức năng giám
đốc của ngân sách Nhà nước.
Qua kiển tra, thanh tra không những để nâng cao
hiệu quả đầu tư của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc
chế độ tài chính của Nhà nước được thực hiện và
tiết kiệm tiền vốn của Nhà nước tránh thất thoát,
hạn chế tiêu cực lãng phí, Đồng thời còn góp phần
quan trọng trong việc kiểm nghiệm tính phù hợp của
văn bản phát huy, chế độ chính sách, về quản lý
ngân sách Nhà nước, kòp thời phát hiện những sai
trái, bất hợp lý của văn bản đó để điều chỉnh, bổ
sung thay đổi được phù hợp hơn.
3/ Phân cấp quản lý ngân sách các cấp và
nguồn thu – chi ngân sách Quận :
a/ Phân cấp quản lý ngân sách cấp :
Điều 4 luật ngân sách nhà nước qui đònh : Ngân
sách Nhà nước bao gồm ngân sách Trung Ương và
ngân sách các cấp ngân sách chính quyền đòa phương.
Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo
nguyên tắc sau :

12



- Ngân sách Trung Ương và ngân sách mỗi cấp
chính quyền đòa phương được phân đònh nguồn thu và
nhiệm vụ chi cụ thể .
-Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên
cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm công bằng,
phát triển cân đối giữa các vùng, các đòa phương. Số
bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới .
- Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên
ủy quyền cho cơ quan quản lý cấp dưới thực hiện
nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải
chuyển kinh phí từ cấp trên cho cấp dưới để thực hiện
nhiệm vụ đó.
- Ngoài việc bổ sung nguồn thu và ủy quyền thực
hiện nhiệm vụ chi qui đònh tại các khoản 2 và 3 điều
này, không được dùng ngân sách cấp này để chi cho
nhiệm vụ cấp khác.
b/ Phân đònh nguồn thu – Nhiệm vụ chi của
ngân sách Quận (Huyện )
Điều 32 luật ngân sách nhà nước qui đònh nguồn
thu ngân sách Quận (Huyện) bao gồm :
*Nguồn thu được hưởng 100% :
+ Thuế môn bài ( trừ môn bài thu từ các hộ kinh
doanh nhỏ ở phường )
+ Thuế sát sinh thu từ các cơ sở.
+ Các khoản thu phí, lệ phí từ các hoạt động do
các cơ quan thuộc Quận quản lý.
+ Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vò
Quận quản lý.
+ Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá

nhân ở nước ngoài trực tiếp cho cấp Quận theo qui
đònh của pháp luật.
+ Đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo qui đònh
của Chính phủ .
+ Đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân
ở trong và ngoài nước cho ngân sách cấp Quận .
+ Thu kết dư ngân sách cấp Quận.
+ Bổ sung từ ngân sách cấp Thành phố.
+ Các khoản thu khác theo qui đònh của pháp luật.

13


* Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ % giữa các
cấp Thành phố ( Tỉnh ) Ngân sách cấp Quận
( Huyện ) Ngân sách cấp Phường ( xã – Thò trấn ) :
+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp
+ Thuế chuyển quyền sử dụng đất
+ Thuế nhà đất
+ Tiền sử dụng đất
* Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ % giữa ngân
sách các cấp ( Thành phố , Quận )
+Thuế doanh thu
+ Thuế lợi tức
+ Lệ phí trước bạ thu trên đòa bàn Quận quản

Điều 33 luật ngân sách Nhà nước qui đònh nhiệm
vụ chi của ngân sách Nhà nước Quận bao gồm :
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, văn hóa,

thông tin – thể dục thể thao và các hoạt động sự
nghiệp khác do cơ quan cấp Quận quản lý.
+ Quốc phòng an ninh và trật tự xã hội, phần giao
cho cấp Quận.
+ Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan
Đảng Cộng Sản Việt Nam và các tổ chức chính trò xã
hội cấp Quận.
+ Tài trợ các tổ chức xã hội, xã hội nghề
nghiệp cấp Quận theo qui đònh của phát luật.
+ Các khoản chi khác theo qui đònh pháp luật.
+ Các khoản chi kiến thiết thò chính, công trình
công cộng.
 Chi đầu tư phát triển : Chi đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội theo
phân cấp của Thành phố.
 Chi bổ sung ngân sách cấp dưới.

14


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC
QUẬN CÁI RĂNG – THÀNH PHỐ CẦN THƠ
I/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TE Á- XÃ HỘI CỦA
QUẬN :
Thực hiện Nghò đònh số : 05/2004/NĐ-CP ngày 02
tháng 01 năm 2004 của Chính phủ về việc thành lập
quận – Huyện và các Phường Xã Thò Trấn thành Phố
Cần Thơ trực thuộc Trung Ương.

Quận Cái Răng là một Quận nằm ven thành phố
Cần Thơ có Quốc lộ I A đi qua và cách Trung Tâm
thành phố Cần Thơ 5km về phía Đông Bắc, toàn Quận
có 07 Phường.
+ Phía Đông giáp : Huyện Bình Minh – Tỉnh Vónh
Long
+ Phía Tây giáp :Huyện Châu Thành A –Tỉnh Hậu
Giang.
+ Phía Nam giáp: Huyện Châu Thành A –Tỉnh Hậu
Giang

15


+ Phía Bắc giáp: Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ
Diện tích tự nhiên :17.704.ha trong đó : diện tích
nông nghiệp :14.451 ha, diện tích vườn:6.535.ha diện tích
lúa:7.916.ha bình quân diện tích tự nhiên:0,1419.ha /
người. Toàn Quận ( theo số liệu của Phòng Thống Kê
năm 2003 ) có 25.358 hộ, với: 124.760 khẩu, trong đó :
Nam: 58.887, Nư õ: 65.873.trong độ tuổi lao động chiếm:
52,25% so tổng số dân, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên :
1,25% tỷ lệ hộ gia đình văn hóa: 83,03%, tỷ lệ hộ
nghèo qua phúc tra :5,01% về cơ cấu kinh tế.
+ Khu vực I : ( Nông – Lâm – Thủy sản ) 69,25%
+ Khu vực II : ( Công nghiệp – Xây dựng ) 7,27.%
+ Khu vực III: ( Thương Mại – Dòch vụ ) 23,48.%
+Tốc độ tăng trưởng kinh tế : 7,86%
Nằm tiếp cận thành phố Cần Thơ, nên Quận Cái
Răng có vò trí quan trọng việc phát triển kinh tế – xã

hội, an ninh quốc phòng của thành phố . Là đòa bàn
phát triển về công nghiệp và thương mại có Cảng
Cái Cui , Khu công nghiệp Hưng Phú I- II thuộc Phường
Tân Phú là một Cảng lớn nhất phía nam, Công Ty
PETRO MEKONG, Công Ty Dầu Thực Vật Cái Lân, Công Ty
Cấp Thoát Nước thuộc Phường Phú Thứ . Trong tương lai
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
– xã hội, hàng hóa trao đổi mua bán dễ dàng, mặt
khác làm thu hút một số lực lượng lao động đáng kể
ở đòa phương.
Là một Quận chủ yếu sản xuất nông nghiệp
( chủ yếu làm vườn ) người dân nơi đây có tính cần
cù thông minh, có kinh nghiệm trong sản xuất, cho nên
thích ứng nhanh với cơ chế mới, đặc biệt ở lónh vực
chuyển đổi cơ cấu trong sản xuất, mạnh dạng thay đổi
những giống cây trồng vật nuôi và áp dụng khoa học
– kỹ thuật vào sản xuất. Từ đó kinh tế phát triển,
đời sống nhân dân ngày càng tăng lên.
Trong năm qua, Quận Cái Răng đã tập trung dồn
sức phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh, quốc
phòng đạt được một số kết quả đáng kể. Sử dụng
các nguồn thu mà đầu tư xây dựng phục vụ tốt cho
đời sống nhân dân cụ thể như : Xây dựng khu thương
mại, khu vượt lũ , giao thông nông thôn, khép kín nội

16


đồng, bắt nhiều cầu mới xóa cầu khỉ đảm bảo lưu
thông cho xe 2 và 4 bánh đi lại dễ dàng trong hai mùa

mưa nắng giữa Phường và Phường, giữa Phường và
Quận.Đời sống văn hóa ngày được nâng cao tình làng
nghóa xóm ngày thêm thắt chặt, phong trào chăm sóc
sức khỏe nhân dân, nhất là phong trào đờn ca tài tử
của các Phường, an ninh chính trò, trật tự an toàn xã
hội được đảm bảo.
Những kết quả đạt được trên là do nhân dân
Quận Cái Răng có truyền thống đấu tranh cách mạng,
có lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đặc
biệt là công cuộc đổi mới hiện nay. Mặt khác, là do
Quận Ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,
các ban ngành và đoàn thể trong Quận đoàn kết
thống nhất đồng tâm hiệp lực, vận dụng sáng tạo,
phù hợp vào điều kiện cụ thể ở đòa phương. Những
quan điểm chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và pháp luật của nhà nước nhất đònh xây dựng quê
hương Quận Cái Răng giàu đẹp, góp phần cùng
Thành phố và cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu “
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
II/ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC Ở QUẬN CÁI RĂNG :
1/ Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngân
sách Nhà nước :
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước ở đòa phương Quận Cái Răng, thật sự
trở thành trung tâm phân phối của việc phát triển
kinh tế ở đòa phương, nó có mối quan hệ mọi ngành,
mọi cấp, mọi thành phần kinh tế. Cùng chủ trương,
đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần vận hành theo cơ chế thò trường , mở rộng hợp
tác quốc tế, đã thúc đẩy nhiều tổ chức kinh tế, cơ
sở sản xuất kinh doanh hoạt động với nhiều ngành
nghề, nhiều lónh vực trên phạm vi rộng lớn.
Do đó, quản lý ngân sách Nhà nước là một
công tác phức tạp đòi hỏi phải có bộ máy quản lý

17


chuyên sâu, có năng lực mới đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới đề ra.
Xuất phát từ phân cấp quản lý và điều hành
của Nhà nước thống nhất từ Trung Ương đến đòa
Phương, quản lý ngân sách gắn liền với tổ chức nhà
nước của từng cấp. Tức là, chức năng nhiệm vụ của
mỗi cấp chính quyền và các vấn đề quan hệ tài
chính, hai vấn đề này, không thể tách rời nhau bởi vì :
Nhà nước hay chính quyền của mỗi cấp phải có
nguồn ngân sách để thực hiện chức năng nhiệm vụ
của Nhà nước.
Trong đó, chính quyền đòa phương ( Thành phố Tỉnh – Quận – Huyện ) là trung gian nhằm cụ thể và
tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Nhà
nước, còn cấp Phường ( Xã – Thò Trấn ) là cấp cơ sở
đảm bảo cho hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và
thực hiện ở đòa phương.
Để thực hiện chức năng quản lý ngân sách ở
Quận Cái Răng, cơ quan Tài Chính – Kế Hoạch trực
thuộc UBND Quận được cơ cấu 10 CBCC, theo phân công,
tổ chức cụ thể, nhiệm vụ của Phòng Tài Chính – Kế

Hoạch thực hiện vai trò tham mưu HĐND, UBND Quận,
thực hiện nhiệm vụ tổng hợp cân đối thu – chi ngân
sách, tổng hợp dự toán năm của ngân sách Quận,
quản lý cấp phát ngân sách Quận. Mặt khác tham
mưu cho UBND Quận thực hiện chức năng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội của đòa phương.
Nhiều năm gần đây, bộ máy Tài Chính – Kế –
Hoạch Quận được ổn đònh và từng bước nâng cao về
chuyên môn, nghiệp vụ được đáp ứng ngang tầm với
yêu cầu nhiệm vụ mới đề ra, nên hàng năm đơn vò
luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được giao.
2/ Nhiệm vụ quản lý ngân sách của Phòng
Tài Chính – Kế Hoạch Quận Cái Răng :
Hàng năm theo sự hướng dẫn của cơ quan Tài
Chính cấp trên, căn cứ chỉ tiêu nhiệm vụ ngân sách
năm được gia, trên cơ sở khoản thu - đònh mức chi của
Quận, tiến hành xây dựng kế hoạch thu – chi ngân
sách Quận, tham mưu UBND Quận tổng hợp lập dự
toán thu – chi ngân sách Quận và trình ra Hội đồng

18


nhân dân Quận quyết đònh, gởi về Sở Tài Chính
Thành phố vào đầu tháng 9 hàng năm.
Sở Tài Chính tham mưu UBND thành Phố sẽ tiến
hành thảo luận với từng đòa phương để ghi nhận số
liệu, đến khi có quyết đònh giao chỉ tiêu kế hoạch
nhiệm vụ thu – chi ngân sách năm chính thức cho Quận.
Căn cứ vào quyết đònh của Thành phố giao chỉ

tiêu ngân sách cho Quận, trong năm kế hoạch, phòng
Tài Chính – Kế Hoạch phối hợp với ngành Thuế, Kho Bạc
cùng cấp tham mưu UBND Quận bổ sung điều chỉnh số
liệu dự toán ngân sách Quận và trình Hội đồng nhân
dân Quận phê duyệt. Trên cơ sở đó Quận ra quyết
đònh giao chỉ tiêu kế hoạch thu – chi ngân sách năm
cho các cơ quan Ban ngành thuộc ngân sách Quận và
Quận công khai thông báo dự toán thu – chi ngân sách
cho các cơ quan Ban ngành thuộc Quận quản lý để tổ
chức thực hiện.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Phòng Tài Chính
– Kế Hoạch luôn kết hợp với Chi Cục Thuế Quận quản
lý khai thác mọi nguồn thu trên đòa bàn nhằm đảm
bảo thu đúng, tránh thất thoát nguồn thu, góp phấn
đáp ứng nhu cầu chi cần thiết của Quận và hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Qua thực trạng một số mặt :
* Ưu điểm : Hàng năm, UBND Thành Phố đều có
đònh hướng về tài chính, ngân sách của Quận, được
ngành hướng dẫn cụ thể về mặt nghiệp vụ , tính toán
các khoản thu – chi ngân sách Nhà nước, đối với
từng lónh vực, từng hạn mục …., tạo điều kiện thuận
lợi cho đòa phương thực hiện công tác lập dự toán
ngân sách Nhà nước, nhất là cơ quan hành chính và
sự nghiệp đều đảm bảo tiêu chuẩn, chế độ, đònh
mức chi ngân sách.
* Nhìn chung, dự toán ngân sách Quận được triển
khai, xây dựng từng các đơn vò cơ sở được cơ quan Tài
Chính xem xét tổng hợp, gởi lên cấp trên. Cho nên,
đối với Quận Cái Răng việc lập dự toán thu – chi

ngân sách nhà nước năm là có cơ sở vững chắc
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ kinh tế – xã hội của
đòa phương.
* Hạn chế : Bên cạnh đó, vẫn còn bộc lộ một
số yếu điểm cần phải khắc phục

19


-Vẫn còn nhiều đơn vò lập dự toán chưa tính toán
chặt chẽ hoặc chưa tính được nhu cầu phát sinh trong
năm kế hoạch, do đó gây nhiều khó khăn cho ngân
sách Quận phải cấp kinh phí trợ cấp bổ sung ngoài kế
hoạch như : mua sắm, sửa chữa, chi khác vv…. , đây là
thực trạng tồn tại nhiều năm chưa khắc phục.
3/ Thực trạng về quan hệ chấp hành ngân
sách Nhà nước :
Khi nắm ngân sách bắt đầu, trên ngân sách
được HĐND phê duyệt và UBND tiến hành phân bổ
chỉ tiêu thu – chi ngân sách cho các đơn vò, ban ngành
thuộc cấp Quận quản lý, thì việc thực hiện ngân
sách được triển khai . Nội dung của quá trình này là
tổ chức thu ngân sách Nhà nước và bố trí cấp phát
kinh phí của ngân sách cho các nhu cầu đã được ký
duyệt.
Trong quá trình thực hiện, cơ quan tài chính cấp
phát kinh phí trong kế hoạch ( được chia ra từng q,
tháng ) theo trình tự ưu tiên của nhiệm vụ chi thường
xuyên . Đối với những khoản chi phát sinh ngoài kế
hoạch, ngoài thẩm quyền giải quyết hoặc những chế

độ thu – chi không phù hợp với thực tế tại đòa phương
thì cơ quan tài chính đề xuất xin ý kiến UBND Quận để
giải quyết .
Tất cả các nghiệp vụ thu – chi ngân sách đều
được thực hiện thông qua kiểm soát của Kho Bạc nhà
nước và chứng từ được lưu chuyển, đối chiếu hàng
ngày với cơ quan tài chính . Từ thực trạng này nổi lên
một số điểm nổi bật.
* Ưu điểm :
+ Thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của
Quận Ủy, HĐN, UBND Quận trong việc quản lý ngân
sách trên đòa bàn Quận, xem đây là nhiệm vụ quan
trong để ổn đònh cân đối, phát triển kinh tế xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng của đòa phương.
+ Công tác xây dựng kế hoạch ngân sách năm
được chủ động và nâng cao, sát hợp hơn với tình hình
cụ thể của đòa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
+ Tập trung khai thác tốt mọi nguồn thu nộp vào
ngân sách đảm bảo kòp thời, đúng chế độ qui đònh

20


của nhà nước, hạn chế các tình trạng gian lận thương
mại, trốn thuế, chậm nộp thuế hoặc tiêu cực trong
lónh vực thuế của Nhà nước.
+ Thông qua Kho Bạc nhà nước đã góp phần
nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát trong
quá trình thu – chi ngân sách nhà nước, ngăn chặn và

xóa bỏ tình trạng thu – chi ngoài ngân sách, thực hiện
sai trong điều tiết các cấp ngân sách, sử dụng nguồn
vốn, các khoản chi phí của Nhà nước không đúng
mục đích vv….
Nhìn chung, hàng năm việc chấp hành ngân sách
đều thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
đảm bảo kế hoạch cân đối ngân sác nhà nước tạo
thêm tích lũy ngân sách để dự trữ, đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng góp phần đáng kể trong công tác phát
triển kinh tế – xã hội của Quận nhà.
* Hạn chế : Những năm gần đây, trong lónh vực
thuế có nhiều thay đổi trong từng lọai thuế như : Thuế
sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất …… Do đó
nguồn thu để hình thành hệ thống thu chưa ổn đònh,
chưa hoàn chỉnh .
Mặt khác, sự phát triển đa dạng các hình thức
hoạt động kinh doanh trên thò trường không gắn liền
với sự nhận thức về nghóa vụ nộp thuế đối với Nhà
nước, có nghóa là còn nhiều doanh nghiệp và cá
nhân thiếu tự giác nộp thuế theo qui đònh, tìm cách
trốn lậu thuế, hoặc day dưa chậm nộp thuế .
- Đối với công tác quản lý thu thuế khu vực
ngoài quốc doanh, tuy kết quả thu từ khu vực này
hàng năm đều đạt, vượt mức kế hoạch và tăng hơn
so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thất thu cả về
bộ và doanh số ( theo báo cáo đánh giá tổng kết
công tác thu thuế năm 2003 ) của Chi Cục Thuế Quận
Cái Răng.
+ Trong 2 năm 2002 – 2003 công tác lập và duyệt
bộ thuế của Chi Cục Thuế chưa chính xác, thật sự

thiếu công bằng hợp lý trong điều chỉnh tính thuế,
còn để hộ kinh doanh cho Phường thu dưới dạng phí lệ
phí, vừa gây thắc mắc trong nhân dân, vừa gây thất
thu cho ngân sách Nhà nước.
Mặt khác công tác quản lý đối tượng kê khai hộ
đăng ký kinh doanh và hộ đăng ký nộp thuế thực tế

21


những năm qua, kiển tra đối chiếu số chênh lệch rất
lớn. Đồng thời việc ghi chép trên sổ sách kế toán
hầu hết các hộ mang tính đối phó, không trung thực.
+ Ngoài ra, công tác quản lý đối tượng nộp thuế
còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ đối với các hình thức
hoạt động xây dựng, xây lắp, kinh doanh vật liệu xây
dựng, kim khí điện máy, dòch vụ nhà trọ, karaokê ….
- Thực hiện vai trò kiểm soát khi qua Kho Bạc đối
với các khoản chi thanh toán hạn mục công trình xây
dựng, chi mua sắm tài sản tại đòa phương còn nhiều
hạn chế .
- Những năm qua do đặc điểm nguồn thu của
Quận chủ yếu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp và
thuế ngoài quốc doanh, trong đó thuế sử dụng đất
nông nghiệp mang tính thu thời vụ nên cân đối ngân
sách không mang tính thường xuyên trong tháng. Để
chủ động giải quyết kòp thời các khoản chi cần thiết
cơ quan tài chính đề xuất tạm ứng, vay quỹ dự trữ tài
chính của Thành phố.
- Về phương thức cấp phát của ngân sách hiện

nay rất phức tạp như ghi thu, ghi chi, gián thu, bù chi cấp
phát lệnh chi tiền, cấp phát hạn mức kinh phí, cấp
phát kinh phí ủy quyền …. Nhưng nhìn chung còn rườm
rà, nhiều bước nhiều khâu, khó quản lý, hiệu quả
thấp.
4/ Thực trạng công tác quản lý , quyết toán
ngân sách Nhà nước :
Giai đoạn quyết toán ngân sách nhà nước là
phản ánh, đánh giá và kiển tra lại quá trình lập và
chấp hành ngân sách nhà nước khi kết thúc q, năm
tài chính cùng với việc khóa sổ kế toán cuối năm
của cơ quan ban ngành thuộc ngân sách Quận và lập
tổng quyết toán ngân sách nhà nước ( theo các
thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc hướng
dẫn khóa sổ cuối năm và lập quyết toán ngân
sách nhà nước theo mẫu biểu và thời gian qui đònh )
Sau khi các cơ quan, đơn vi cấp dưới gởi báo cáo
quyết toán tài chính của đơn vò, cơ quan tài chính Quận
kiểm tra xét duyệt quyết toán và tổng hợp thành
báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước trên đòa

22


bàn Quận, báo cáo thông qua UBND Quận xem xét để
trình ra HĐND Quận phê chuẩn. Đồng thời gởi báo cáo
quyết toán về cơ quan tài chính cấp trên trong thời
gian quy đònh.
Thực trạng công tác quyết toán ngân sách Nhà
nước của Quận thời gian qua thể hiện các điểm sau :

+ Ưu điểm :
Nhìn chung số liệu phản ánh trên báo cáo tổng
quyết toán ngân sách đòa phương là số thực thu – thực
chi của các ngành, các đơn vò, ngân sách cấp dưới
tổng hợp lên và được cơ quan tài chính Quận thẩm
đònh kiểm tra quyết toán hàng q, quyết toán năm.
Vấn đề này đã đảm bảo giá trò pháp lý và có ý
nghóa thiết thực đối với công tác quản lý .
Riêng đối với ngành y tế, giáo dục ngân sách
Phường đều tổ chức hàng năm xét duyệt quyết toán
để đánh giá quá trình thực hiện quản lý ngân sách
của đơn vò, tạo điều kiện hướng dẫn nâng cao công
tác quản lý ngày càng đạt hiệu quả cao.
+ Hạn chế : Hàng năm, việc thẩm tra tổng quyết
toán ngân sách cấp dưới và của từng đơn vò vẫn
còn mang tính chất rút kinh nghiệm chung, chưa có biện
pháp cụ thể đối với từng trường hợp chi tiêu lãng
phí, không đúng mục đích, đònh mức chi … nói chung
việc đánh giá phân tích tình hình chấp hành dự toán,
nguyên nhân tăng, giảm mất cân đối ngân sách và
kiến nghò bổ sung và biện pháp quản lý còn mang
tính chung chung chưa cụ thể .
* Tóm lại : Qua những thực trạng quá trình công
tác quản lý ngân sách Nhà nước trên đòa bàn Quận
Cái Răng thời gian qua đã đạt được những thành tích
đáng kể, đáp ứng yêu cầu kinh tế – xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng tại đòa phương, tạo sự chuyển
biến mới trên nhiều lónh vực, phấn đấu từng bước
đưa sự nghiệp xây dựng và phát triển Quận Cái Răng
đổi mới theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Tuy nhiên, hiện nay Ngân sách của Quận phân
cấp nguồn thu chưa đảm bảo cân đối giữa yêu cầu
chi, nhất là chi cho đầu tư phát triển. Hàng năm ngân
sách Thành phố còn phải phân bổ trợ cấp, do đó
ảnh hưởng đến sự chủ động điều hành của Quận.
Công tác quản lý tài sản công, quản lý chi đầu tư

23


xây dựng, mua sắm tài sản hiệu quả kém. Từ những
hạn chế về mặt khách quan cho ta thấy hậu quả của
cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn tồn tại chưa thể
khắc phục được ngay. Hệ thống luật ngân sách đang
trong quá trình thực hiện còn phải bổ sung điều chỉnh
cho phù hợp với thực tế .
5/ Tình hình thực hiện thu – chi ngân sách nhà
nước của quận cái răng thành phố cần thơ:
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THU – CHI NGÂN SÁCH HUYỆN
CHÂU THÀNH TRONG NHỮNG NĂM 2002 – 2003
Đơn vò tính :
Đồng
KHOẢN

TH

A.Tổng thu NS QUẬN
a. Thu CĐNS Quận Cái Răng

HIỆN


ỰC
Năm 2002 Năm 2003
31.592.482. 55.287.469.
889
928
5.276.969.94 12.536.070.6
2
96
200.703.344 5.965.645.71
8

b.Các khoản thu huy động
đóng góp để lại quản lý
qua NSNN
c. Thu bổ sung từ ngân sách 26.114.809.6 36.785.753.5
cấp trên
03
14
B. Tổng chi ngân sách
24.941.518. 39.069.762.
Quận
630
203
a.Chi đầu tư phát triển
10.210.894.1 20.909.088.1
60
87
b. Chi CĐNS thường xuyên
12.094.546.4 13.527.756.4

76
52
c. Khoản thu bằng nguồn
200.703.344 1.313.541.00
thu để lại quản lý qua
0
CĐNS
d. Chi ngân sách cấp dưới
2.435.374.65 3.319.376.56
0
4
Nguồn: Chi cục thuế H. Cái
Răng
24


Nhận xét đánh giá tình hình thu – chi ngân sách
nhà nước trong những năm qua:
Qua hai năm (2002-2003) thực hiện quản lý ngân
sách Quạân Cái Răng theo chức năng, nhiệm vụ đã
phân cấp. Được sự hướng dẫn nghiệp vụ của Sở tài
chính TP Cần Thơ và sự chỉ đạo kòp thời của Quận ủy,
HĐND, UBND Quận Cái Răng, cùng với sự nổ lực, nhiệt
tình của tập thể cán bộ công nhân viên đơn vò
phòng Tài chính đã làm tốt vai trò tham mưu cho UBND
Quận Cái Răng thực hiện tốt công tác quản lý và
điều hành ngân sách nhà nước Quận Cái Răng, luôn
được cân đối ổn đònh, nguồn thu được tập trung, đáp
ứng kòp thời các nhu cầu chi cần thiết cho các hoạt
động của Nhà nước trên đòa bàn Quận, góp phần

hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế, chính trò, văn hóa,
xã hội của đòa phương trong từng năm.
Nhìn chung, công tác lập dự toán, công khai dự
toán ngân sách Quận cũng như việc chấp hành ngân
sách và quyết toán ngân sách của Quận luôn được
kòp thời, đảm bảo đúng thời gian và nguyên tắc chế
độ tài chính theo qui đònh của Nhà nước.
Theo số liệu báo cáo quyết toán năm về cơ bản
trong năm (2002-2003) công tác ngân sách đều đạt
vượt chỉ tiêu kế hoạch và tăng hơn so với cùng kỳ
năm trước, tỷ trọng cơ cấu nguồn thu hợp lý. Trên cơ
sở đó Quận đã xây dựng kế hoạch thu ngân sách cho
năm sau được sát hợp với thực tế hơn. Cụ thể dự toán
ngân sách năm 2004 cho thấy tốc độ tăng thu của
Quận được tập trung nhưng chưa khai thác hết như :
Thuế sát sinh, Phí lệ phí, lao động công ích, thuế doanh
thu đối với các đơn vò, cá nhân, thầu xây dựng, xây
lắp …. , chưa phản ánh thu đầy đủ vào ngân sách .
Về tình hình chi ngân sách của Quận trong những
năm (2002 – 2003) nhu cầu chi ngày càng cao, tỷ trọng
cơ cấu nguồn chi và tốc độ tăng chi ngân sách hợp
lý theo kế hoạch cân đối ngân sách của Quận, nhất
là chi cho đầu tư phát triển, sự nghiệp kinh tế và xây
dựng cơ sở hạ tầng của Quận quản lý. Trong đó chi
bổ sung ngân sách cấp dưới dự toán năm 2004 thực
hiện theo chính sách giảm miễn thuế của chính phủ,

25



×