Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TÌNH CẢNH LẺ LOI NGƯỜI CHINH PHỤ_CÓ LỜI GIẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.99 KB, 11 trang )

TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
(Trích Chinh phụ ngâm- Đặng Trần Côn)

I. Mục tiêu cần đạt
1. Kiến thức
Tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến, đòi quyền được
hưởng hạnh phúc lứa đôi thể hiện qua việc miêu tả
thế giới nội tâm đầy những mong nhớ, cô đơn, khao
khát, … của người chinh phu.ï
2. Kĩ năng: Đọc – hiểu, tiếp cận thể loại ngâm khúc.
3. Thái độ: Cảm nhận được tâm trạng cô đơn, sầu muộn
của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi khi chồng đi chinh
chiến, thấy được tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến
và đề cao hạnh phúc lứa đôi.
II. Chuẩn bị
1. Giáo viên: SGK, SGV, thiết kế bài học.
2. Học sinh: tập bài học, SGK.
III. Phương pháp: Đọc diễn cảm, nêu vấn đề, phát vấn, thuyết giảng…
IV. Tiến trình dạy học
1.Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ.
* Hoạt động 1: (2p) Giới thiệu bài:
Nhắc đến Đặng Trần Côn, người ta nghó ngay đến tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông là “Chinh Phụ ngâm”. Tác phẩm này được viết
bằng chữ Hán và được bà Đoàn Thò Điểm dòch sang bản
chữ Nôm. Đây là tác phẩm thể hiện rõ nỗi đau khổ của người chinh phụ phải
sống trong cảnh cơ đơn, chia lìa đơi lứa, đồng thời bộc lộ niềm khao khát hạnh phúc
lứa đơi.
HOẠT ĐỘNG GV & HS
- Bàn về đức tính hiếu học của ĐTC có một giai
thoại như sau: Tương truyền lúc ấy, chúa Trịnh


Giang cấm nhân dân Thăng Long ban đêm
khơng được đốt lửa, để đèn sáng, cho nên ơng
phải đào hầm dưới đất, thắp đèn mà học.

*Chuyển ý: “Chinh phụ ngâm” vừa ra đời đã

NỘI DUNG CHÍNH
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
- Đặng Trần Cơn (? - ?).
- Q qn: làng Nhân Mục, Hà Nội.
- Sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ
XVIII.
- Là một người thơng minh, tài hoa
và hiếu học.
- Về sáng tác: ngồi tác phẩm chính
Chinh phụ ngâm, ơng còn làm thơ và
phú bằng chữ Hán.
2. Dòch giả:


nổi tiếng, được nhiều người ưa thích, dịch sang
chữ Nôm → ĐTĐ là chính xác và hay nhất
- Năm 37 tuồi mới lấy chồng, nhưng vừa cưới
xong ông phải đi xứ ở Trung Quốc. Trong thời
gian ông đi xứ, bà phải sống cuộc sống không
khác người chinh phụ là mấy, có lẽ vì vậy bà đã
tìm thấy sự đồng cảm với người chinh phụ trong
tác phẩm “Chinh phụ ngâm”
*Lưu ý: Trong số đó bản dịch được khắc in và

lưu truyền rộng rãi nhất gọi là bản dịch hiện
hành, chúng ta đang tìm hiểu bản dịch hiện
hành, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa rõ dịch
giả là ai, có người cho rằng đó là Đoàn Thị
Điểm nhưng lại có thuyết nói là Phan Huy Ích
→ không ai có thể phủ định tác phẩm đã thực sự
chạm đến trái tim người đọc.

- Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
- Hiệu: Hồng Hà nữ sĩ.
- Quê: Kinh Bắc (Hưng Yên).
- Bà thông minh từ nhỏ, đoan trang,
văn hoa, lễ độ
- Bà lập gia đình khá muộn.
2. Taùc phaåm “Chinh phụ
ngaâm”
- Thể loại:
+ Nguyên tác: trường đoản cú (476
câu)
+ Bản dịch: thể song thất lục bát
(405 câu)
- Hoàn cảnh sáng tác: Đầu đời Lê
Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa
nông dân nổ ra quanh kinh thành
Thăng Long. Triều đình cất quân
đánh dẹp → Đặng Trần Côn cảm
thời thế đã sáng tác “Chinh phụ
ngâm”

- Trích từ CPN, thuộc phần 2: Khi người chinh 3. Đoạn trích

phụ trở về phòng khuê).
- Vị trí: câu 193 – 216.
- Bố cục: 2 phần
+8 câu đầu: Nỗi cô đơn, lẻ loi của
người chinh phụ
+8 câu tiếp: Nỗi sầu muộn triền
miên
+8 câu cuối: Nỗi nhớ thương, đau
đáu
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
? Người chinh phụ hiện lên qua những hành 1. Nỗi cô đơn, lẻ loi của người
động nào? Những hành động này diễn tả tâm chinh phụ (8 câu đầu ):
trạng gì của người chinh phụ?
- Hành động: Dạo, ngồi, rủ thác đòi
phen - hành động vô nghĩa, không
*GV giảng: đối với con người, nhất là khi yêu, mục đích, lặp đi lặp lại → gợi tả tâm
lúc mong nhớ người mình yêu thì nỗi nhớ sẽ trạng nhớ nhung, bồn chồn không
bộc lộ rất rõ qua hành động:
yên.
“Nhớ ai, bồi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
Hay: Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ


Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?
Có lẽ sau khi tiễn chồng ra trận, nàng trở về căn
phòng của hai vợ chồng, nay chỉ còn mình nàng,
không tránh khỏi tâm trí dâng tràng nỗi nhớ
nhung người chồng đang chinh chiến ở biên ải
xa dẫn đến hàng loạt hành động không tự chủ

được, thẩn thơ như người mất hồn.
? Theo em yếu tố ngoại cảnh nào khiến cho
tâm trạng của người chinh phụ thêm nặng
- Ngoại cảnh: Đèn, chim Thước:
trĩu? Tại sao?
Trông ngóng tin tức người chồng
- Chim thước: trông chờ chim thước báo tin, phương xa → nỗi buồn tăng lên gấp
chẳng có tin tức gì, một chút dấu hiệu, một chút bội
hi vọng nhỏ nhoi cũng không có
+ Nhân hóa
+ Câu hỏi tu từ “đèn biết chăng?”
? Tác giả đã sử dụng những thủ pháp nghệ
+ Điệp ngữ vòng “đèn biết chăng
thuật nào để diễn tả tâm trạng trĩu nặng của
– đèn có biết”:
người chinh phụ?
+ Ẩn dụ “hoa đèn”
- Lúc này quay vào trong đối diện với căng
→ Không gian vắng lặng, cô đơn,
phòng vắng, chỉ có mỗi ngọn đèn leo loét bầu
lẻ loi, nỗi đau kéo dài
bạn, không hỏi đèn thì biết hỏi ai. Nhưng dù sao
ngọn đèn kia chũng chỉ là vật vô tri vô giác, hỏi
cũng như không. Chính vì vậy ngay câu thơ sau
nàng đã tự trả lời bằng câu phủ định: "Đèn có
biết dường bằng chẳng biết" →càng làm cho
KG trở nên vắng lặng, khắc sâu nỗi cô đơn lẻ loi
- Điệp ngữ vòng: “đèn biết chăng – đèn có
biết” - khiến cảm giác cô đơn ấy như kéo dài ra
đến nỗi không thể nào kìm nén được nàng buộc

phải thốt lên những lời than vãn đau đớn: "Lòng
thiếp riêng bi thiết mà thôi/Buồn rầu nói chẳng
nên lời/Hoa đèn kia với bóng người khá
thương”
- “Hoa đèn”: ngọn bấc đã cháy hết, chỉ còn tàn
đỏ → liên tưởng đến sự tàn lụi, héo hon của
2. Nỗi sầu muộn triền miên (8
kiếp người. Thể hiện thái độ xót xa cho tình
câu tiếp):
cảnh lẻ loi, cuộc hôn nhân dở dang của của
- Cảnh vật thiên nhiên: Tiếng gà, cây
người chinh phụ.
Hòe
+ Từ láy eo óc, phất phơ → nhớ
nhung thao thức, trĩu nặng sầu đau
? Ở 8 câu thơ tiếp theo tác giả đã sử dụng
những thủ pháp nghệ thuật nào để diễn tả


tâm trạng sầu muộn triền miên của người
CP?
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
- Từ láy “eo óc”: âm thanh, từ xa vọng lại,
nghe văng vẳng không rõ, đây phải là KG im
lìm, vắng vẻ, tịch mịch. Một đêm chỉ có 5 canh,
mà nàng thức hết 5 canh → nhớ nhung chồng
khiến nàng thao thức không ngủ được
- Từ láy “phất phơ”: Nếu như cây hòe trong
“Cảnh ngày hè”: “Hòe lục đùn đùn tán rợp
giương”, động từ mạnh làm cho cây hòe của NT

căng tràn sức sống, thì cây hòe của Đặng Trần
Côn phất phơ, rủ bóng giống như hàng tóc của
người con gái cúi đầu vì buồn rầu, nhớ người
thương
?Câu hỏi nhóm đôi: so sánh bản dịch với
nguyên tác tìm điểm khác biệt?
“Khắc giờ đằng đẵng “Sầu tựa hải
như
niên Khắc như niên”
Mối sầu dằng dặc tự
miền biển xa”

- So sánh + từ láy “đằng đẵng”,
“dằng dặc”: diễn tả bước đi của thời
gian - chậm chạp → sự chờ đợi mệt
mỏi, chán chường, vô vọng

→Vừa dịch sát nghĩa vừa sáng tạo thêm làm nỗi
nhớ của người chinh phụ trở nên cụ thể. Tâm
trạng sầu muộn khi chờ đợi trào dâng như biển
lớn, từ ngày xa cách người thương mỗi giờ mỗi
khắc dài như một năm.
Bản dịch không chỉ diễn tả bước đi của thời gian
vô cùng chậm chạp, mà còn tạo ra âm điệu ngân
xa, như tiếng thở dài, mỏi mòn, chán chường,
vô vọng. Vì phải sống trong cảnh chồng biền
biệt nơi chiến trận, không có tin tức, không rõ
ngày về
?Tuy nhiên nàng cũng rất cố gắng, cố gắng
vượt thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt ấy. Bằng

- Điệp từ “gượng”→ gượng gạo,
cách nào? Thủ pháp nghệ thuật?
- Mùi hương đưa nàng trở về quá khứ, tâm hồn miễn cưỡng
Hành Mục đích
Kết quả
nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp đã quá xa vời.
- “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?”. động
Cho
tâm Hồn đà mê


Khoảng thời gian chờ chồng đi chinh chiến trở
về đã hủy hoại tuổi thanh xuân của nàng. Nàng
khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho hạnh phúc, tình
yêu

tuổi
trẻ
dở
dang
- Nhưng ghi gảy đàn, nàng lại nơm nớp lo sợ
dây đàn đứt → Tác giả sử dụng loạt hình ảnh
mang tính ước lệ tượng trưng nhằm nói lên nỗi
lo khôn nguôi của người chinh phụ về tình cảm
vợ chồng, về người chinh phu đang cách xa
ngàn dặm.
+ Sắt cầm: đàn sắt và đàn cầm hòa âm với
nhau, tượng trưng cho cảnh vợ chồng hòa
thuận.
+ Dây uyên: Uyên ương là biểu tượng cho lứa

đôi
gắn
bó,
hòa
hợp.
+ Phím loan: Chim loan phượng cũng là biểu
tượng cho tình yêu đôi lứa.

Đốt
hương
Soi
gương
Gảy
đàn

hồn
thư mải.
thái.
Để
trang Lệ lại châu
điểm,
chan.
Tạo
âm Kinh đứt –
thanh tươi ngại chùng
vui, giải tỏa
bớt nỗi nhớ
mong.
→ Hình ảnh mang tính ước lệ tượng
trưng nhằm nói lên nỗi lo khôn

nguôi của người chinh phụ về người
chinh phu đang cách xa ngàn dặm.
=> Tâm trạng bế tắc của người chinh
phụ.
→Tiểu kết: 16 câu thơ đầu
thể hiện tình cảnh lẻ loi, nỗi
cô đơn sầu muộn của người
chinh phụ.
2. Gửi niềm thương nhớ khôn
nguôi đến người chồng nơi biên ải
xa.
a. 6 câu thơ đầu:
- Hình ảnh thiên nhiên:
+ Gió đông: gió mùa xuân, gió báo
tin vui, thể hiện sự sum họp, đoàn
viên.
+ Non Yên: núi Yên Nhiên, nơi
phương bắc xa xăm – nơi người
chồng đang chinh chiến.
- Biện pháp nghệ thuật:
+ Hình ảnh ước lệ: non Yên.
+ Phủ định: chẳng.
+ Điệp ngữ vòng: non Yên, trời.
+ Từ láy: thăm thẳm, đau đáu.
=> Không gian vô tận, mênh mông,
không giới hạn, không chỉ là không
gian vô tận ngăn cách hai vợ chồng,
mà còn là nỗi nhớ không nguôi,
không tính đếm được của người
chinh phụ, là tình yêu thương của

người vợ nơi quê nhà.
b. 2 câu thơ cuối:


- Hai câu thơ:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Cảnh buồn người có vui đâu bao
giờ?
=> Câu thơ mang tính khái quát, triết
lí sâu sắc.
=> Nỗi nhớ lan tràn sang cảnh vật.
- Lời thơ chuyển sang độc thoại nội
tâm, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng người
chinh phụ với hình ảnh người chinh
phu tràn ngập trong tâm tưởng.
→Tiểu kết: 8 câu thơ cuối
như lời gửi gắm nỗi niềm
thương nhớ khôn nguôi đến
người chồng nơi biên ải xa
xôi.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
- Nỗi cô đơn sầu muộn của người
chinh phụ.
- Sự khao khát hạnh phúc lứa đôi.
2. Nghệ thuật:
- Miêu tả tâm lí nhân vật (tả cảnh
ngụ tình, độc thoại nội tâm).
- Một số biện pháp nghệ thuật: điệp
ngữ, điệp từ, so sánh, từ láy, động từ,

câu hỏi tu từ…

v Câu hỏi: Phân tích tâm trạng của người chinh phụ ở 8 câu thơ đầu
I. Mở bài
- Tác giả
- Tác phẩm
- Nội dung chính đoạn thơ/ bài thơ
II. Thân bài
- LĐ 1: Tâm trạng nhớ thương da diết, bồn chồn không yên
“...Dẫn thơ…”
+ Được diễn tả qua hành động “đi, ngồi, rủ thác” → vô nghĩa, lặp
lại: điều đó cũng dễ hiệu, vì trong tình yêu con người thường thể
hiện nỗi nhớ thương qua hành động: “ca dao”
- LĐ 2: Cô đơn, lẻ loi


+ Ngoài rèm “chim thước” - giải thích → trông ngóng, hi vọng
+ Trong rèm “đèn” → nhân hóa ngọn đèn trở thành người bạn, nói
lên khát khao muốn có người sẻ chia, bên cạnh đó còn sử dụng
nghệ thuật điệp ngữ vòng làm cho tâm trạng của nàng như kéo dài
thêm ra, không kìm nén được mà thốt lên thành những lời than vãn
+ Trong đó hình ảnh ẩn dụ “hoa đèn” → liên tưởng….
*Nghệ thuật: Bằng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, điệp ngữ,
điệp từ, so sánh, từ láy, động từ, câu hỏi tu từ…ĐTC đã lột tả chân
thực tâm trạng cũng như thân phận đáng thương của người vợ lính lúc
bấy giờ
III. Kết bài
- Ông đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh người chinh phụ.
- Dưới ngòi bút tài năng của ĐTC hình ảnh người chinh phụ vừa có
giá trị hiện thực, là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

Vừa có giá trị nhân đạo, là tiếng nói đòi quyền sống, quyền được
hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.
v Đề bài: Cảm nhận về tâm trạng người chinh phụ trong 8 câu thơ
đầu của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
I. Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người
chinh phụ trích trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng
thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế
một giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. đặc biệt chính là tâm trạng hiu
quạnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu tiên
2.Thân bài
– Ý nghĩa hai câu thơ đầu
+Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tâm trạng của người chinh phụ đã được
khắc họa qua các hình động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng
bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
+Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng
phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”,
“rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính


của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết
chồng của người chinh phụ.
+Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên vắng hành động lặp đi lặp lại
“gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn nói lên cái chờ đợi cái trống
vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữa xa chồng.
+Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng ngày
người chồng trở về

+“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô
thức thề hiện một trạng thái tâm lí buồn bã, chán chường.
+Cảm giác bất an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi
nhớ tha thiết, cảm xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên
buồn bã, ngóng trông nhiều hơn
– Phân tích hai câu thơ tiếp
+ Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm
lành sẽ có người đi xa trở về.
+Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim thước để baso tin nỗi nhớ đầy
rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng không
có càng làm người nỗi buồn người chinh phụ càng tăng lên bội phần.
+Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm
bạn với nàng.
=> Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải thốt lên
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi
lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của
nàng dành cho chồng không?
– phân tích hai câu thơ tiếp
+“ Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
+Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng -đèn có biết” càng làm cho
nỗi cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra.
+Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự
của nhân vật trữ tình , ngọn đèn là vật vô tri nó chăng thể hiểu được nỗi


lòng của người phụ nữ, nó chỉ có tasc dụng là giải toải tâm trạng cho
người chinh phụ mà thôi.
+Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu
phiền mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô

đơn, rầu rĩ
– phân tích hai câu thơ kết:
+“ Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
+Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ
đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như
hoa.
+Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự
với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô
đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi
3. Kết bài
– ý nghĩ của 8 câu thơ đầu
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”
đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung
cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến
tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương,
các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải
của những người ở lại chờ tin người đi xa
v Bài tham khảo
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong “Chinh phụ
ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn
hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực vô cùng sâu
sắc. đặc biệt chính là tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người chinh phụ
trong 8 câu thơ đầu tiên
Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tâm trạng của người chinh phụ đã được
khắc họa qua các hình động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,


Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng
phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”,
“rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính
của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết
chồng của người chinh phụ. Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên
vắng hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn
nói lên cái chờ đợi cái trống vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữa xa
chồng. Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng
ngày người chồng trở về.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô
thức thề hiện một trạng thái tâm lí buồn bã, chán chường. Cảm giác bất
an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ tha thiết, cảm
xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng trông
nhiều hơn, nhưng:
“ Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm
lành sẽ có người đi xa trở về. Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim
thước để baso tin nỗi nhớ đầy rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù
chỉ là nhỏ nhoi nhưng không có càng làm người nỗi buồn người chinh
phụ càng tăng lên bội phần. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì
chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải thốt lên
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi
lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của
nàng dành cho chồng, hai câu thơ tiếp theo lại càng diễn tả thêm sự ưu
phiền của người chinh phụ:
“ Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng -đèn có biết” càng làm cho nỗi

cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra. Hình ảnh ngọn đèn
được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự của nhân vật trữ tình ,
ngọn đèn là vật vô tri nó chăng thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ,
nó chỉ có tasc dụng là giải toải tâm trạng cho người chinh phụ mà thôi.


Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu phiền
mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô đơn, rầu

“ Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ
đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như
hoa.
Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự
với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô
đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”
đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung
cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến
tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương,
các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải
của những người ở lại chờ tin người đi xa



×