Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Hoạt động biên mậu các tỉnh biên giới vùng đông bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.24 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TRẦN THU HÀ

HOẠT ĐỘNG BIÊN MẬU CÁC TỈNH BIÊN
GIỚI VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – NĂM 2009


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...........................................................................i
DANH MỤC BẢNG BIỂU.............................................................................ii
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG BIÊN MẬU VIỆT NAMTRUNG QUỐC................................................................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động biên mậu...........................7
1.1.1. Khái niệm, hình thức của hoạt động biên mậu..............................7
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động biên mậu..............................................7
1.1.1.2. Các hình thức của hoạt động biên mậu.....................................8
1.1.2.Vai trò của hoạt động biên mậu Việt Nam- Trung Quốc.............12
1.1.2.1.Vai trò của hoạt động biên mậu đối với Việt Nam....................12
1.1.2.2.Vai trò của hoạt động biên mậu đối với Trung Quốc...............15
1.2. Những nhân tố thúc đẩy hoạt động biên mậu......................................17
1.2.1. Nhân tố khách quan.....................................................................17
1.2.1.1. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế................................................17
1.2.1.2. Xu hướng khu vực hoá kinh tế..................................................18
1.2.1.3. Điều kiện tự nhiên....................................................................19


1.2.2. Nhân tố chủ quan........................................................................22
1.2.2.1. Chính sách phát triển biên mậu của Trung Quốc....................22
1.2.2.2. Chính sách phát triển biên mậu của Việt Nam........................25
1.3. Kinh nghiệm phát triển hoạt động biên mậu của một số nƣớc trong
quan hệ thƣơng mại với Trung Quốc..........................................................31
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển hoạt động biên mậu giữa Liên Bang Nga
với Trung Quốc.....................................................................................32
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển hoạt động biên mậu giữa Myanma với
Trung Quốc...........................................................................................34
1.3.3. Một số bài học.............................................................................35


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BIÊN MẬU Ở CÁC TỈNH
BIÊN GIỚI VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM............................................37
2.1. Khái quát về tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung
Quốc kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao...............................................37
2.2. Hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc Việt
Nam.................................................................................................................41
2.2.1. Tổng quan về hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng
Đông Bắc Việt Nam..............................................................................41
2.2.1.1. Hệ thống cửa khẩu, chợ và lối mòn tham gia biên mậu...........41
2.2.1.2. Tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của các tỉnh biên giới vùng
Đông Bắc Việt Nam...............................................................................42
2.2.1.3. Hoạt động thanh toán biên mậu...............................................46
2.2.2.Hoạt động biên mậu tại 4 tỉnh biên giới vùng Đông Bắc Việt Nam
và nghiên cứu trường hợp tại Lào Cai...................................................48
2.2.2.1. Thực trạng hoạt động biên mậu tại 4 tỉnh biên giới vùng Đông
Bắc Việt Nam........................................................................................48
2.2.2.2 Nghiên cứu trường hợp hoạt động biên mậu ở Lào Cai..........59
2.3. Đánh giá chung.......................................................................................71

2.3.1. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực biên mậu tại các tỉnh
biên giới vùng Đông Bắc trong thời gian qua......................................71
2.3.2. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân.........................................73
2.3.2.1. Những vấn đề tồn tại................................................................73
2.3.2.2. Nguyên nhân............................................................................74
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG BIÊN MẬU Ở
CÁC TỈNH BIÊN GIỚI VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM.......................76
3.1. Triển vọng hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc
Việt Nam.........................................................................................................76
3.1.1. Bối cảnh phát triển mới và ảnh hưởng của chúng đến hoạt động
biên mậu các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc....................................76


3.1.1.1. Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên của WTO............76
3.1.1.2. Trung Quốc và Việt Nam tham gia hợp tác khu vực................77
3.1.1.3. Trung Quốc và Việt Nam tham gia hợp tác kinh tế vùng.........78
3.1.2. Những dự báo về triển vọng phát triển hoạt động biên mậu ở các
tỉnh biên giới vùng Đông Bắc Việt Nam...............................................79
3.1.2.1. Dự báo về triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam- Trung
Quốc giai đoạn 2009- 2015...................................................................79
3.1.2.2. Dự báo triển vọng phát triển hoạt động biên mậu ở các tỉnh
biên giới vùng Đông Bắc Việt Nam.......................................................81
3.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng
Đông Bắc Việt Nam.......................................................................................82
3.2.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng của Đảng và Chính phủ Việt
Nam về hoạt động biên mậu..................................................................82
3.2.1.1. Quan điểm phát triển biên mậu................................................82
3.2.1.2. Mục tiêu phát triển biên mậu...................................................84
3.2.1.3. Định hướng phát triển biên mậu..............................................85
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng

Đông Bắc Việt Nam..............................................................................89
3.2.2.1. Các giải pháp chung................................................................89
3.2.2.2. Các giải pháp đối với các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc........96
3.2.2.3. Các giải pháp đối với doanh nghiệp trong nước và các doanh
nghiệp khu vực biên giới vùng Đông Bắc Việt Nam............................98
KẾT LUẬN..................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................105


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thương mại quốc tế qua biên giới phía Bắc là một bộ phận cấu thành
rất quan trọng trong hệ thống ngoại thương nước ta. Từ cuối năm 1988, sau
khi có thông báo số 118 - TB/TW ngày 19/11/1988 của Ban bí thư trung ương
Đảng cho phép dân cư hai bên biên giới được qua lại thăm thân và trao đổi
hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ sinh hoạt thì buôn bán qua biên giới trở
thành vấn đề thời sự nóng bỏng.
Những năm sau đó, buôn bán qua biên giới mỗi năm một phát triển với
tốc độ nhanh chóng. Hàng hoá thông thương qua biên giới Việt - Trung ngày
càng có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế nước ta. Hiện nay thật khó tưởng
tượng nhịp sống của nhân dân ta, nhịp sản xuất của các cơ sở sản xuất của
chúng ta mà thiếu hoạt động kinh tế của thị trường phía Bắc nói chung và các
tỉnh biên giới vùng Đông Bắc nói riêng.
Phía Trung Quốc, thương mại quốc tế vùng biên giới với các nước láng
giềng cũng được coi là một bộ phận quan trọng nằm trong chính sách mở cửa
từ cuối những năm 1970. Đối với biên giới Việt - Trung, từ đầu những năm
1980, Chính phủ Trung Quốc trung ương cũng như địa phương đã có những
bước chuẩn bị để buôn bán với Việt Nam. Họ đã củng cố cơ sở hạ tầng,
đường sá, nhà kho và xây dựng các ngân hàng biên giới. Hệ thống chỉ đạo
gồm 3 cấp từ trên xuống: Ban Việt Nam, Ban Biên mậu và Văn phòng Cửa

khẩu. Một số thị trấn quan trọng như Đông Hưng, Bằng Tường...được xây
dựng thành các trung tâm thương mại sản xuất để làm các đầu mối buôn bán
qua biên giới với Việt Nam. Hệ thống này được đặt dưới sự kiểm soát chặt
chẽ bằng luật pháp đến mức hầu như mọi quy định lớn nhỏ đều được thực
hiện.
Đứng trước một đối tượng có tiềm lực kinh tế lớn và tuy trình độ kỹ
thuật sản xuất không hơn ta nhiều nhưng được quản lý chặt chẽ, thương mại

1


quốc tế vùng biên phía Bắc nói chung và các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc
nói riêng hiện đang hàm chứa nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng.
Thực chất của thương mại qua biên giới là gì? Phát triển nó ra sao? Chính
sách mặt hàng xuất nhập khẩu, chính sách thuế, hạn ngạch ra sao? Cần có giải
pháp nào thúc đẩy hoạt động biên mậu Việt Nam - Trung Quốc? Cho đến nay
các vấn đề trên chỉ mới được đề cập đến theo từng khía cạnh trên các bài báo
đơn lẻ mang tính chất phản ánh hiện tượng, vì vậy nhằm có một cách nhìn
tương đối hệ thống, đánh giá toàn diện và đầy đủ hơn về mảng hoạt động
quan trọng này trong quan hệ hai nước, tôi đã chọn đề tài “Hoạt động biên
mậu ở các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc Việt Nam'' để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Là một trong những lĩnh vực thành công trong quan hệ Việt Nam Trung Quốc, hợp tác kinh tế thương mại thời gian qua đã có bước phát triển
mạnh mẽ, liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao, Trung Quốc đã trở thành
một đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Phát huy lợi thế có chung
đường biên giới, trong những năm qua, 7 tỉnh biên giới Việt Nam là Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên và 2
tỉnh biên giới Trung Quốc là Vân Nam và Quảng Tây đã chủ động hợp tác
phát triển kinh tế. Nghiên cứu về thương mại qua biên giới nói chung và hoạt
động buôn bán qua biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc nói riêng đã trở

thành đề tài thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà kinh tế. Có thể kể ra một
số công trình tiêu biểu sau:
Nguyễn Thị Kim Dung, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
(Chủ nhiệm đề tài cấp Bộ 1999) ''Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây
dựng cơ chế chính sách và các biện pháp quản lý kinh tế đặc thù đối với khu
vực cửa khẩu trên bộ phía Bắc Việt Nam''. Tác giả khẳng định rằng, giao lưu
kinh tế qua biên giới là sự thể hiện xu thế hội nhập kinh tế giữa các nước gần
nhau về vị trí địa lý, thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các

2


nước láng giềng. Đồng thời tác giả cho rằng hoạt động giao lưu kinh tế qua
cửa khẩu cũng là một yếu tố cấu thành của các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Việc phát triển giao lưu đó mang lại lợi ích kinh tế đáng kể thông qua đẩy
mạnh các hoạt động thương mại qua biên giới đồng thời cũng để thực hiện
chủ trương cải cách kinh tế của Đảng là khẳng định nguyên tắc độc lập, chủ
quyền, bình đẳng và cùng có lợi trong phát triển kinh tế đối ngoại; đa phương
hoá, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại; khai thác có hiệu quả lợi
thế trong phân công lao động quốc tế.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại
hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ thời kỳ đến 2005” do
tác giả Phạm Thị Cải làm chủ nhiệm cho thấy: Phát triển thương mại hàng
hoá Việt Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ là chủ trương của cả Chính
phủ Trung Quốc và Chính phủ Việt Nam. Chủ trương mở cửa thị trường khu
vực biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc của các Chính phủ đã
được không chỉ các tỉnh có chung biên giới Việt - Trung mà cả các tỉnh khác
của hai nước rất quan tâm. Thực hiện định hướng phát triển kinh tế đối ngoại,
mở cửa biên giới, phát triển thị trường khu vực biên giới trên bộ giữa hai
nước của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc, các doanh nghiệp

của cả hai nước đang từng bước tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá qua biên giới trên bộ với mục tiêu phát triển kinh tế thương mại của các
địa phương có biên giới, đồng thời phát triển kinh tế thương mại của các tỉnh
khác trong cả nước Việt Nam và Trung Quốc cũng như đẩy mạnh thương mại
hàng hoá để phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước.
Tác giả Nguyễn Đăng Ninh trong ''Đổi mới quản lý nhà nước về hoạt
động xuất nhập khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc'',
NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội - 2004, khẳng định, cùng với quá trình cải
cách và mở cửa, trên cơ sở nhận thức vai trò của hoạt động kinh tế biên mậu
mà trọng tâm là việc thúc đẩy giao lưu kinh tế qua các cửa khẩu trên bộ,

3


Chính phủ Việt Nam đã ban hành hàng loạt các chính sách có liên quan để hỗ
trợ cho quá trình này. Các chính sách thúc đẩy biên mậu đã có tác động tích
cực tới sự phát triển kinh tế của các tỉnh biên giới; trong đó các khu kinh tế
cửa khẩu có vai trò nổi bật đối với việc thúc đẩy các hoạt động thương mại,
dịch vụ, du lịch; do đó đã có những đóng góp to lớn vào sự tăng trưởng kinh
tế của các khu vực này.
“Đề án phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ 2006 2010” của Bộ Thương mại nhận định: Trung Quốc là một nước đang phát
triển có dân số lớn nhất thế giới, kinh tế phát triển vào loại nhanh nhất thế
giới. Ngay từ những ngày đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có một chiến
lược khá toàn diện trong việc phát triển biên mậu, cho đến ngày nay đang
tham gia sâu vào thể chế kinh tế thế giới nhưng về cơ bản vẫn duy trì những
chính sách đó. Các chính sách biên mậu của Trung Quốc đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong chính sách thương mại, và là một động lực thúc đẩy
kinh tế vùng biên giới, miền núi phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo;
đồng thời Trung Quốc luôn nắm thế chủ động trong biên mậu với các nước có
chung biên giới. Đối với Việt Nam, mặc dù Nhà nước ta vẫn có những văn

bản điều chỉnh chính sách về biên mậu, nhưng nhìn chung do chưa có một cơ
quan chuyên trách về biên mậu nên những chính sách về biên mậu thường
không đồng bộ. Mặt khác, việc Việt Nam chưa có một chiến lược biên mậu
lâu dài với Trung Quốc sẽ dẫn đến tình trạng quan hệ biên mậu luôn bị động,
không có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của nền kinh tế Trung
Quốc để có thể khai thác tối đa lợi thế so sánh và hạn chế rủi ro.
Tóm lại, qua đánh giá sơ bộ tình hình nghiên cứu có thể thấy rằng, các
công trình nghiên cứu đã thực hiện mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh trong
quan hệ thương mại Việt - Trung. Chưa có công trình nào đi sâu vào việc
đánh giá một cách có hệ thống thực trạng và triển vọng hoạt động biên mậu
của các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc.

4


3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Nghiên cứu hoạt động biên mậu của các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc
Việt Nam, chỉ ra những thành tựu cũng như hạn chế của hoạt động này, trên
cơ sở đó đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động biên mậu các tỉnh này.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở của hoạt động biên mậu các tỉnh biên giới vùng
Đông Bắc Việt Nam (cơ sở lý luận, các điều kiện, đường lối chính sách).
- Đánh giá thực trạng hoạt động biên mậu các tỉnh biên giới vùng Đông
Bắc nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động biên mậu các tỉnh
biên giới vùng Đông Bắc Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng: Hoạt động biên mậu các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc Việt
Nam.

Phạm vi:
- Không gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá qua biên giới trên bộ của các tỉnh biên giới vùng Đông
Bắc Việt Nam (Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh), trong
đó có tập trung nghiên cứu kỹ hơn trường hợp Lào Cai.
- Thời gian: giai đoạn từ 1997-2007
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng là phương pháp được quán triệt trong
toàn bộ quá trình thực hiện đề tài. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu đặc thù cho ngành kinh tế như: so sánh, thống kê, phân tích,
tổng hợp.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

5


- Làm rõ thực trạng hoạt động biên mậu các tỉnh biên giới vùng Đông
Bắc Việt Nam (chỉ ra những thành công cũng như những hạn chế của hoạt
động này).
- Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động biên mậu các tỉnh biên
giới vùng Đông Bắc Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở của hoạt động biên mậu Việt Nam- Trung Quốc .
Chương 2: Thực trạng hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng Đông Bắc Việt
Nam.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động biên mậu ở các tỉnh biên giới vùng
Đông Bắc Việt Nam.


6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG BIÊN MẬU
VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động biên mậu
1.1.1. Khái niệm, hình thức của hoạt động biên mậu
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động biên mậu
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy mậu dịch quốc tế tăng trưởng
liên tục thông qua các định chế của WTO hay các Hiệp định mậu dịch tự do
khu vực và song phương. Một nét đặc thù trong quan hệ thương mại hiện đại
ngày nay là sự đan xen giữa các loại hình quan hệ: một nước mặc dù là thành
viên của tổ chức kinh tế khu vực hay quốc tế đều có thể có quan hệ kinh tế
mang tính song phương (FTA) với các nước khác; và quan hệ biên mậu vẫn
song song tồn tại giữa các nước có chung biên giới. Các nước có nền thương
mại phát triển hàng đầu thế giới vẫn coi trọng biên mậu và dành cho biên mậu
những chính sách đặc biệt, ưu đãi hơn mậu dịch thông thường, bởi vì nó phù
hợp với Điều XXIV Hiệp định GATT/WTO. Hoạt động kinh tế biên mậu là
kết quả tất yếu của sự hợp tác địa lý kinh tế giữa các quốc gia có chung đường
biên giới với nhau. Trong nền kinh tế mở, bất kể quốc gia nào cũng đều quan
tâm đến kinh tế biên mậu, thúc đẩy giao lưu hàng hoá với các quốc gia láng
giềng để phát huy lợi thế so sánh của nước mình.
Thống kê của UNDP cho thấy kim ngạch trao đổi biên mậu của thế giới
chỉ xấp xỉ 1% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thế giới, như vậy việc dành cho
biên mậu những ưu đãi nào đó cũng không ảnh hưởng lớn đến thương mại
từng nước, của toàn cầu, nhưng có tác dụng tích cực trong việc phát triển của
các địa phương có chung biên giới, đặc biệt góp phần phát triển vùng núi,
vùng sâu, vùng xa, xoá đói giảm nghèo đối với các nước đang phát triển [25].
Thực tế quan hệ biên mậu giữa Hoa Kỳ và Canada là giữa các nước phát triển


7


và quan hệ biên mậu giữa Việt Nam và Lào là quan hệ giữa các nước chậm
phát triển là những ví dụ sinh động.
Hoạt động biên mậu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá được diễn
ra tại khu vực biên giới đường bộ của các nước láng giềng (được xác định về
mặt địa lý) mà đối tượng trao đổi là các sản phẩm, hàng hoá (hữu hình).
Đây là phương thức mậu dịch do tập quán truyền thống của lịch sử hình
thành. Nói chung, các nước đều giành cho phương thức mậu dịch này sự đãi
ngộ về thuế Hải quan. Theo sự phát triển của mậu dịch quốc gia, thương mại
hàng hóa với nghĩa hẹp như ở trên được phát triển thành phương thức mậu
dịch theo nghĩa rộng, tức là giao dịch xuất nhập khẩu hàng hoá được tiến hành
tại vùng biên giới giữa hai nước. Nó được liệt vào phạm vi mậu dịch đối
ngoại của quốc gia, thuộc một trong những phương thức mậu dịch xuất nhập
khẩu.
Hoạt động kinh tế biên mậu bao gồm:
- Hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới;
- Buôn bán tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong Khu kinh tế cửa khẩu;
- Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới theo các phương
thức không theo thông lệ quốc tế đã được thoả thuận trong các Hiệp định
thương mại song phương giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước
có chung biên giới.
Như vậy, hoạt động kinh tế biên mậu giữa hai nước không chỉ đơn
thuần là hoạt động buôn bán qua các cửa khẩu biên giới mà nó có phạm vi
rộng hơn, bao trùm các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá được diễn ra trên
toàn bộ khu vực biên giới đường bộ của hai nước. Hơn nữa, việc trao đổi các
sản phẩm vô hình (dịch vụ hoặc các loại hàng hoá có liên quan đến sở hữu trí
tuệ) không thuộc phạm vi của hoạt động này.

1.1.1.2. Các hình thức của hoạt động biên mậu

8


Hoạt động kinh tế biên mậu Việt Nam - Trung Quốc hiện nay tồn tại
dưới 3 hình thức chính: chính ngạch, tiểu ngạch, và trao đổi của cư dân biên
giới, tuy nhiên rất khó phân biệt các hình thức thương mại này. Đó là đặc
điểm bao trùm, riêng có của thương mại biên giới Việt - Trung.
Tất cả hàng hoá buôn bán chính ngạch đều do các doanh nghiệp Nhà
nước thực hiện là chủ yếu, cũng có một số ít công ty trách nhiệm hữu hạn
thực hiện, nhưng các công ty này là những đơn vị của Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh và các thành phố, tỉnh không có biên giới với Trung Quốc. Buôn
bán chính ngạch là lượng hàng hoá xuất nhập khẩu theo hợp đồng thương
mại, thường là quan hệ buôn bán trên quy mô và hạng mục lớn.
Tiểu ngạch là quan hệ buôn bán qua biên giới với quy mô, hạng mục
nhỏ, không được quy định trong các hiệp định và không so sánh với các nước
khác trong mối quan hệ. Hàng hoá tiểu ngạch do các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và cả tư nhân của các tỉnh
biên giới thực hiện, có thể đi qua các cửa khẩu quốc tế, quốc gia và các "cửa
khẩu địa phương" hay còn gọi là đường qua lại giữa các cặp chợ biên giới.
Trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới là do nhân dân hai bên biên giới
thực hiện. Họ chủ yếu mua bán hàng hóa tiêu dùng, những sản phẩm tự sản
xuất. Buôn bán của cư dân biên giới tuy quy mô nhỏ, nhưng lại rất có ý nghĩa
đối với đồng bào các địa phương vùng biên. Trong điều kiện địa hình bị chia
cắt tự nhiên, giao thông đi lại khó khăn, giao lưu hàng hoá giữa miền núi
vùng cao với miền xuôi còn gặp nhiều khó khăn, thì buôn bán trao đổi hàng
hoá với Trung Quốc đang góp phần tích cực cho việc cân đối cung- cầu, đáp
ứng nhanh nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào, cũng như góp phần ổn
định và phát triển kinh tế của các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc.

Khái niệm xuất nhập khẩu tiểu ngạch được đề cập nhiều trong những
năm gần đây, nhất là từ khi quan hệ Việt - Trung được bình thường hoá, trao
đổi hàng hoá qua biên giới phát triển mạnh. Thực tế trong những năm qua đã

9


cho thấy vai trò của xuất nhập khẩu tiểu ngạch và những đóng góp của nó
trong quá trình phát triển thị trường nói chung, nhất là đối với các tỉnh biên
giới được quyền làm xuất nhập khẩu tiểu ngạch thì hoạt động trên lĩnh vực
này rất sôi động và đã đem lại những lợi ích không nhỏ cho địa phương và
cho quốc gia. Hơn nữa, thông qua hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch chúng
ta đã xuất được nhiều hàng hoá, kể cả những mặt hàng lẻ tẻ, khối lượng nhỏ,
chất lượng không cao sang thị trường Trung Quốc, mà nếu xuất sang thị
trường khác sẽ gặp nhiều khó khăn hoặc không thực hiện được như hoa quả
tươi, cua, ốc, ếch... và nhập về được nhiều nguyên liệu, máy móc thiết bị, hoá
chất...phục vụ cho sản xuất mà không phải mất ngoại tệ mạnh. Xuất nhập
khẩu tiểu ngạch còn có những ưu điểm khác nữa là thủ tục ngắn gọn, xuất
nhập nhanh, thời gian thực hiện thương vụ ngắn, thanh toán linh hoạt...
Có thể đưa ra một vài so sánh giữa xuất nhập khẩu tiểu ngạch và chính
ngạch như sau:
Bảng 1.1. So sánh XNK tiểu ngạch và chính ngạch
Tiểu ngạch

Chính ngạch

- Không cần giấy phép Bộ Công - Có giấy phép Bộ Công thương
thương
- Chỉ các đơn vị tỉnh biên giới mới - Cả đơn vị trong, ngoài tỉnh biên giới
được tham gia


có giấy phép đều thực hiện

- Hầu như không có hợp đồng

- Có hợp đồng kinh tế

- Thanh toán trực tiếp qua biên mậu

- Thanh toán qua ngân hàng

-Thời gian từng thương vụ thường -Thời gian từng thương vụ thường dài
nhanh hơn chính ngạch

hơn tiểu ngạch

- Kiểm tra số lượng, chất lượng đơn - Kiểm tra chất lượng hàng hoá chặt
giản, thiếu chặt chẽ

chẽ

- Hàng hoá tiểu ngạch đi qua tất cả - Hàng hoá chính ngạch chỉ đi qua

10


các cửa khẩu, đường mòn hai bên quy cửa khẩu quốc tế, quốc gia hai bên
định

quy định


(Nguồn: Đề án phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ 20062010, Bộ Thương mại, 2006[3])
Theo dõi xuất nhập khẩu qua biên giới Việt - Trung thực tế trong thời
gian qua cho thấy: buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch không khác nhau lắm,
về cơ bản có rất nhiều điểm giống nhau. Chẳng hạn khối lượng lô hàng xuất
nhập khẩu tiểu ngạch nhiều khi cũng lớn không kém gì xuất nhập khẩu chính
ngạch; thanh toán cũng chủ yếu theo phương thức “tiền trao cháo múc’’ bằng
tiền mặt, hàng đổi hàng, còn thanh toán qua ngân hàng bằng L/C rất ít;
phương thức, quy trình kiểm tra, giao nhận hàng hoá cũng như nhau...
Việc phân biệt xuất nhập khẩu chính ngạch và xuất nhập khẩu tiểu
ngạch thực ra là theo giấy phép của từng lô hàng khi qua biên giới. Nếu lô
hàng có giấy phép do Bộ Công thương (trước đây là Bộ thương mại) cấp thì
gọi là xuất nhập khẩu chính ngạch, còn nếu lô hàng có giấy phép do UBND
các tỉnh biên giới cấp (hoặc các ngành chức năng của tỉnh được uỷ quyền cấp) thì
gọi là xuất nhập khẩu tiểu ngạch.
Một vấn đề đáng lưu ý là: việc phân biệt chính ngạch và tiểu ngạch chỉ
có ý nghĩa đối với phía Việt Nam. Bởi vì, trong rất nhiều trường hợp lô hàng
bên Việt Nam là hàng xuất nhập khẩu chính ngạch, nhưng cũng lô hàng đó
đối với phía Trung Quốc lại không phải là chính ngạch (quốc mậu) mà là
hàng tiểu ngạch (biên mậu) do các đơn vị không được phép làm xuất nhập
khẩu trực tiếp thực hiện (các công ty biên mậu). Điều đó lý giải thêm tại sao
xuất nhập khẩu chính ngạch qua biên giới Việt - Trung trong đại đa số trường
hợp chưa hoàn toàn là xuất nhập khẩu chính ngạch theo thông lệ tập quán
quốc tế.

11


Ngoài 3 hình thức chủ yếu trên, do đòi hỏi của thị trường hai bên Việt Trung, trên cơ sở Hiệp định giữa hai chính phủ về quá cảnh hàng hoá và quy
chế của Bộ Công thương (trước đây là Bộ thương mại) về hàng hoá của Cộng

hoà nhân dân Trung Hoa quá cảnh lãnh thổ Việt Nam, các đơn vị kinh doanh
xuất nhập khẩu của trung ương, các tỉnh biên giới, nhất là các đơn vị của tỉnh
Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai đã thực hiện thêm chức năng xuất nhập khẩu
uỷ thác, quá cảnh, chuyển khẩu hàng hoá qua biên giới để hưởng hoa hồng.
Tuy hình thức này mới đạt giá trị thấp nhưng nó là hình thức có nhiều lợi thế
và rất hiệu quả. Các tỉnh phía Tây Nam của Trung Quốc như Tứ Xuyên, Quý
Châu, Tây Tạng... nhất là Vân Nam có nhu cầu lớn về khôi phục đường sắt,
đường bộ từ Vân Nam đến Việt Nam, về khai thác vận chuyển đường sông
giữa hai bên và hàng hóa xuất nhập khẩu của Vân Nam qua cảng Hải Phòng.
1.1.2. Vai trò của hoạt động biên mậu Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có chung đường biên giới kéo
dài: Việt Nam có 1.353 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, trải dài
từ Đông sang Tây qua 7 tỉnh phía Bắc gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên. Đây là khu vực có địa hình
phức tạp, có tổng diện tích là 55.684km2 với 80% là vùng núi cao, rừng rậm,
dân số của cả 7 tỉnh là 4,07 triệu người, chiếm 2% dân số trên toàn quốc. Về
phía Trung Quốc có hai tỉnh giáp với Việt Nam là Quảng Tây và Vân Nam.
Dân số hai tỉnh là 89,05 triệu người, chiếm 7% dân số toàn Trung Quốc [6,
tr.3]. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu văn
hoá, thương mại đã trở thành quan hệ truyền thống và khá bền vững. Do gần
gũi về địa lý và có nhiều nét tương đồng trong phong tục tập quán, các hoạt
động giao lưu về kinh tế, thương mại và văn hoá được hình thành từ lâu như
một tất yếu khách quan không thể thiếu trong lịch sử phát triển của cả hai
nước mặc dù ở những giai đoạn phát triển khác nhau thì mức độ và đặc điểm
của chúng có những điểm khác nhau.

12


1.1.2.1. Vai trò của hoạt động biên mậu đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, hoạt động kinh tế biên mậu không chỉ có tác động
lớn đối với các tỉnh biên giới mà còn đối với các tỉnh khác trong nội địa. Do
điều kiện, đặc thù khác nhau của mỗi địa phương nên tác động của các chính
sách biên mậu đối với các tỉnh cũng khác nhau nhưng nhìn chung kết quả, tác
dụng của các chính sách này đối với các tỉnh biên giới, các khu kinh tế cửa
khẩu được biểu hiện trên một số mặt chủ yếu sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh biên
giới: Áp dụng các chính sách biên mậu, đặc biệt là Quyết định số
53/2001/QĐ-TTg, các khu kinh tế cửa khẩu đã có sự phát triển tương đối
mạnh, góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu nói riêng cũng như cả nước nói chung.
Tác dụng của các chính sách này tới quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu thể hiện rõ nét ở các khu kinh tế cửa khẩu
như:
+ Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái - Quảng Ninh: kể từ khi thực hiện
Quyết định số 675/QĐ-TTg ngày 18/9/1996 của Thủ tướng Chính phủ cho đến
nay, Móng Cái đang trở thành một khu kinh tế phát triển, là một trong hai trung
tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ninh, có cơ cấu kinh tế với 70% GDP là dịch vụ và
thương mại [5, tr11].
+ Khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn: kể từ khi thực hiện Quyết định số
748/QĐ-TTg ngày 11/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ cho đến nay đã tạo
bước chuyển biến đáng kể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội, an ninh,
quốc phòng, làm thay đổi cơ bản bộ mặt khu kinh tế cửa khẩu.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu đã
tạo ra sự liên kết hợp tác không chỉ giữa các doanh nghiệp với nhau mà còn là
sự phối hợp của các cấp chính quyền các tỉnh biên giới với các tỉnh nằm sâu
trong nội địa trong việc quản lý nhà nước để hỗ trợ cho quá trình phát triển này.

13



Việc phát triển các khu kinh tế cửa khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế- xã hội tại các vùng sâu, vùng xa giáp biên giới, trở thành các điểm
sáng trên tuyến biên giới, có tác dụng lan toả và làm tăng vị thế của các tỉnh có khu
kinh tế cửa khẩu.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh có khu kinh tế cửa
khẩu thường trước hết phụ thuộc vào việc phát huy ưu thế đối với việc phát
triển thương mại và du lịch. Quy mô và tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ
và thương mại quyết định tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh đó.
Nhờ các chính sách thông thoáng về xuất nhập cảnh nên số lượng
người xuất nhập cảnh qua các cửa khẩu đường bộ tăng mạnh. Đồng thời với
những ưu đãi về các loại hình kinh doanh trong khu kinh tế cửa khẩu như các
ưu đãi về thương mại, du lịch, đất đai, thuế đã tạo điều kiện cho việc phát
triển, mở rộng các hoạt động thương mại tại khu kinh tế cửa khẩu, qua đó
thúc đẩy nhanh sự gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa
khẩu.
- Thu hút đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu tăng lên đáng kể: các ưu
đãi về đầu tư tại Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg đã có tác dụng thu hút đầu
tư vào các khu kinh tế cửa khẩu, thúc đẩy sản xuất tạo điều kiện tăng nguồn thu
ngân sách trên địa bàn.
“Kể từ năm 1998, nguồn vốn đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu liên
tục tăng lên. Trong số đó, vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước chiếm
khoảng 50% và bước đầu đã có một số dự án đầu tư nước ngoài vào khu vực
này như ở Móng Cái - Quảng Ninh, Tân Thanh - Lạng Sơn, Thanh Thuỷ - Hà
Giang”[5, tr12].
Nhờ thu hút được đầu tư nên kinh tế địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu
có sự tăng trưởng khá tạo điều kiện để tăng nguồn thu ngân sách. Để hỗ trợ
cho việc phát huy ưu thế của khu kinh tế cửa khẩu, Quyết định số
53/2001/QĐ-TTg cho phép đầu tư trở lại từ nguồn vốn ngân sách để xây dựng


14


cơ sở hạ tầng. Với nguồn vốn này, các tỉnh đã chủ động sử dụng một cách
hợp lý, và tiến hành xây dựng các dự án để đầu tư, trước hết ưu tiên đối với
các công trình nằm trong địa bàn khu kinh tế cửa khẩu, sau đó là một số công
trình ngoài khu kinh tế cửa khẩu nhưng có liên quan hỗ trợ cho việc phát huy
ưu thế của khu kinh tế cửa khẩu.
- Hình thành các điểm tập trung dân cư mới như thị tứ, thị trấn, thị xã
và các thành phố dọc tuyến biên giới: do thu hút đầu tư vào phát triển các
ngành thương mại, dịch vụ du lịch cũng như hệ thống các cơ sở hạ tầng và sự
chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu
nên bước đầu đã hình thành được một số điểm tập trung dân cư dọc theo biên
giới với các mức độ và quy mô khác nhau như thị tứ, thị trấn, thị xã và thành
phố. Những điểm tập trung dân cư đô thị này không chỉ tạo điều kiện cho việc
phát triển giao lưu kinh tế mà còn nâng cao trình độ, tập quán nếp sống đô thị
cho đồng bào các dân tộc, góp phần cải thiện hình ảnh của Việt Nam và nâng
cao vị thế của đất nước trong qúa trình hội nhập.
- Đời sống cư dân khu vực cửa khẩu cũng như khu vực biên giới được
cải thiện đáng kể, góp phần bảo vệ an ninh xã hội và an toàn biên giới, cải
thiện quan hệ giữa hai nước: Sự phát triển của thương mại, du lịch và sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần cải
thiện đời sống dân cư khu vực biên giới. Đây là yếu tố cơ bản đối với việc
bảo đảm cải thiện quan hệ kinh tế - xã hội dọc tuyến biên giới, yếu tố quyết
định góp phần bảo vệ an ninh xã hội và an toàn biên giới.
1.1.2.2. Vai trò của hoạt động biên mậu đối với Trung Quốc
- Hoạt động kinh tế biên mậu đóng một vai trò quan trọng trong việc
phát triển kinh tế của các tỉnh vùng biên, đặc biệt là khu vực biên giới:
Do giới hạn bởi vị trí địa lý, các nguyên nhân lịch sử và điều kiện tự
nhiên, những khu vực biên giới rộng lớn của Trung Quốc chỉ có mức tăng

trưởng kinh tế chậm chạp cho đến những năm giữa thập kỷ 1980 với tình

15


trạng người dân sống trong nghèo khổ. Trong tất cả những khu vực khó khăn
nhận được sự ưu tiên hỗ trợ cao của Chính phủ Trung Quốc, gần một nửa số
đó là những khu vực thuộc vùng biên giới.
Sự giao lưu kinh tế giữa khu vực biên giới Trung Quốc với các quốc
gia có chung đường biên dưới hình thức trao đổi hàng hoá của dân cư vùng
biên, hoạt động kinh tế biên mậu với số lượng nhỏ và hợp tác kinh tế đã đẩy
mạnh sự tăng trưởng kinh tế của vùng và đã đạt được mục tiêu bổ sung nguồn
lực cho hai vùng. Trong khi đó, hình thức kinh doanh này đã hỗ trợ cho việc
phát triển các ngành nông nghiệp, chế biến, du lịch và dịch vụ của vùng. Cơ
cấu kinh tế được điều chỉnh, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế tổng
thể của cả vùng.
Theo số liệu thống kê, đối với tỉnh Hắc Long Giang, hoạt động kinh tế
biên mậu chiếm 30% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh này.
Cũng như vậy, đối với vùng tự trị Xinjiang Uygur, tỷ lệ này đạt 50 - 60%, với
vùng tự trị Nội Mông là xấp xỉ 60%, với tỉnh Vân Nam là 20% [15, tr98].
Hoạt động kinh tế biên mậu là một phần rất quan trọng để thúc đẩy kinh tế
của các tỉnh biên giới và trở thành một động lực cho sự phát triển kinh tế.
Thực tế cho thấy hoạt động kinh tế biên mậu là phương cách thiết thực để hỗ
trợ cho kinh tế vùng biên, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội
phồn vinh và cũng phù hợp với điều kiện thực tế của Trung Quốc.
- Hoạt động kinh tế biên mậu góp phần thắt chặt sự đoàn kết giữa các
dân tộc thiểu số, củng cố sự ổn định xã hội và đảm bảo an toàn cho vùng biên
Phần lớn khu vực biên giới của Trung Quốc là nơi sinh sống của các
dân tộc thiểu số. Hoạt động kinh tế biên mậu không chỉ góp phần phát triển
mạnh mẽ kinh tế địa phương mà còn mang lại nhiều cơ hội việc làm cho dân

cư địa phương, từ đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được sinh sống
bình yên. Số lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế biên mậu của tỉnh
Vân Nam đạt 180.000 người [15, tr99]. Nhờ vào hoạt động kinh tế biên mậu,

16


nguồn thu của chính quyền địa phương và dân cư đã được nâng lên, điều kiện
sống và làm việc của khu vực biên giới đã được cải thiện. Chính sách của
Chính phủ đối với các dân tộc thiểu số đã được thực hiện một cách cụ thể, góp
phần vào việc ổn định xã hội ở các khu vực vùng biên.
- Hoạt động kinh tế biên mậu góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
với các quốc gia láng giềng và mang lại hoà bình và ổn định cho đất nước
Nói chung, các dân tộc sinh sống ở hai bên biên giới có phong tục tập
quán giống nhau, có ngôn ngữ giống nhau và sự phát triển kinh tế của họ cũng
ít có khác biệt. Giao lưu kinh tế của hai bên được tăng cường hơn thông qua
hoạt động kinh tế biên mậu, hợp tác kinh tế và kỹ thuật cũng như các hoạt
động thay thế sản xuất nông nghiệp. Với sự tương đồng về nguồn lực và sản
phẩm cũng như khả năng cung cấp để đáp ứng nhu cầu của nhau đã thúc đẩy
sự phát triển kinh tế của cả hai nước. Hoạt động kinh tế biên mậu đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc đạt được sự phồn thịnh chung, xây dựng quan
hệ tốt đẹp giữa các nước và mang lại hoà bình và ổn định cho đất nước.
- Hoạt động kinh tế biên mậu mở đường cho sự hợp tác kinh tế tiểu
vùng nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi của nó
Hiện nay, Trung Quốc đang tích cực xúc tiến và tham gia vào các tổ
chức hoặc diễn đàn hợp tác kinh tế tiểu vùng như Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, Hợp tác Kinh tế Tiểu
vùng Sông Mêkông - Lantsang, Hợp tác Kinh tế sông Tumen. Sự tham gia
hoạt động kinh tế biên mậu cùng với việc mở cửa các cảng, thiết lập khu vực
thương mại và hợp tác kinh tế sẽ giúp phát triển hơn nữa thị trường với các

quốc gia có chung đường biên. Điều này sẽ tạo ra những điều kiện vật chất
chắc chắn cho việc phát triển hợp tác kinh tế tiểu vùng cũng như hỗ trợ hoạt
động thương mại và đầu tư. Các tỉnh biên giới, đặc biệt là các khu vực vùng
biên sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ
của các tổ chức kinh tế khu vực này.

17


1.2. Những nhân tố thúc đẩy hoạt động biên mậu
1.2.1. Nhân tố khách quan
1.2.1.1. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế
Trong những năm gần đây, xu hướng tự do hoá thương mại đa phương
trong khuôn khổ WTO được coi là một trong những biểu hiện quan trọng của
tiến trình toàn cầu hoá kinh tế - thương mại quốc tế, xu hướng này đã diễn ra theo
chiều hướng sau:
Thứ nhất, phạm vi của tiến trình tự do hoá thương mại đa phương ngày
càng được mở rộng, không còn dừng ở các vấn đề mang tính chất thương mại
thuần tuý.
Thứ hai, nội dung của quá trình tự do hoá thương mại ngày càng được
phát triển theo bề sâu, các cam kết quốc tế ngày càng tác động sâu đến chính sách
trong nước.
Thứ ba, trào lưu các nước đang phát triển muốn liên kết, khẳng định
tiếng nói của mình được thể hiện ngày càng rõ rệt.
Thứ tư, vị trí của Trung Quốc vừa có lợi cho các nước đang phát triển
vừa làm gia tăng cạnh tranh giữa các nước trong thu hút vốn đầu tư, thương
mại, đặc biệt là các nước trong khu vực có vị trí và cơ cấu sản xuất gần với
Trung Quốc.
Thứ năm, việc xuất hiện “tiêu chuẩn kép” giữa các nước thành viên
WTO và các nước trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức này, làm cho

các nước xin gia nhập thường phải thực hiện các yêu cầu và các chuẩn mực áp
dụng ở mức cao hơn và cao hơn nhiều so với các nước đã là thành viên WTO.
Thứ sáu, việc mở rộng phạm vi và tăng độ sâu của tiến trình đa phương
cũng như vai trò ngày càng tăng của các nước đang phát triển làm cho tiến
trình trong đàm phán thương mại đa phương có dấu hiệu giảm tốc độ, góp
phần làm gia tăng xu hướng đẩy mạnh quá trình tự do hoá thương mại theo khu vực
hoặc theo con đường song phương.

18


Nhận thức được cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập kinh tế
toàn cầu, Việt Nam và Trung Quốc đều nỗ lực cải cách, mở cửa, từng bước
hoàn thiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thông lệ quốc tế,
tạo ra sự phát triển ngoạn mục: dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong nhiều năm, đạt được những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực. Sự kiện này đã đưa lại những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước.
1.2.1.2. Xu hướng khu vực hoá kinh tế
Quá trình tự do hoá thông qua các Hiệp định mậu dịch tự do và quá
trình nhất thể hoá về kinh tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Biểu hiện của
xu hướng này là sự hình thành các Khu thương mại tự do (FTAs) và các thoả
thuận thương mại khu vực (RTAs) gia tăng nhanh chóng: FTAs và RTAs có
mức độ ưu đãi và tự do hoá thương mại cao hơn quy chế tối huệ quốc (MFN)
kéo theo những thay đổi lớn trong cục diện thương mại giữa các nước trong
khu vực và trên thế giới. Hiện nay, làn sóng tự do hoá thương mại diễn ra sôi
động ở khu vực Đông Á. Chẳng hạn như: Khu vực thương mại tự do ASEAN/
AFTA, Khu vực ASEAN + 3, Trung Quốc ký hiệp định khung về khu vực
thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA); Ấn Độ ký hiệp định khung
về hợp tác kinh tế toàn diện với ASEAN và Nhật Bản ký thoả thuận khung về

đối tác kinh tế toàn diện với ASEAN... Đặc biệt, so với thập kỷ 1990, xu
hướng khu vực hoá gần đây đã có nhiều khác biệt, cụ thể là:
- Trào lưu của các Hiệp định mậu dịch tự do song phương giữa các
nước có hoặc không cùng một khu vực địa lý. Ví dụ: ACFTA, Mỹ Singapore
- Nội dung của các Hiệp định mậu dịch tự do gần đây hết sức khác biệt
về phạm vi, mức độ cam kết, không theo chuẩn mực thống nhất, thường thể
hiện cam kết tự do hoá mạnh về phạm vi và mức độ tự do hoá, thể hiện mong
muốn thực dụng, có lợi nhất cho lợi ích quốc gia của các nước tham gia.

19


- Việc ký kết các Hiệp định mậu dịch tự do thường tập trung vào một
khu vực địa lý, do một số nước khởi xướng, gây hiệu ứng Đô-mi-nô.
Trào lưu trên về bản chất xuất phát từ các lợi ích kinh tế những cũng có
mầu sắc chính trị rõ ràng.
Việt Nam và Trung Quốc nằm trong khu vực châu Á, đây là khu vực
được các nước trên thế giới đánh giá là năng động nhất. Do vậy, hai bên đã
không ngừng vun đắp quan hệ láng giềng thân thiện, tích cực tham gia liên
kết khu vực (APEC, ASEM, ACFTA) và liên kết vùng (GMS) nhằm đẩy
nhanh tiến trình tự do hoá thương mại, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế
theo nhiều hình thức, nhiều cấp độ, tạo điều kiện cho hai nước phát huy lợi
thế so sánh, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phù hợp với quốc tế hoá.
1.2.1.3. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Việt Nam và Trung Quốc có chung đường biên giới kéo dài khoảng
1353 km bao gồm 7 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam tiếp giáp với hai tỉnh
Vân Nam và Quảng Tây Trung Quốc. Đặc biệt, Việt Nam có vị trí địa lý quan
trọng ở Đông Nam Á, nằm ở điểm trung gian nối Trung Quốc với ASEAN
trên các tuyến đường xuyên Á, hành lang Đông - Tây, cũng như trong khuôn

khổ hợp tác Tiểu vùng Mê Kông mở rộng. Việt Nam là cửa ngõ để Trung
Quốc vào ASEAN, là cầu nối giữa Trung Quốc và ASEAN trong khu mậu
dịch tự do ACFTA. Miền Tây Nam Trung Quốc qua Việt Nam để đến một số
nước ASEAN gần hơn nhiều so với đi trong lục địa Trung Quốc. Vân Nam và
Quảng Tây lại là cửa ngõ thương mại chính giữa Trung Quốc và Việt Nam,
giữa Trung Quốc với ASEAN thông qua Việt Nam. Đây thực sự là thế mạnh
của Việt Nam trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Với vị trí địa lý nêu
trên, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển việc
mua bán, trao đổi hàng hoá và phát triển các hoạt động hợp tác về kinh tế- xã
hội khác.

20


Việt Nam với bờ biển dài 3.260 km, có nhiều đảo và quần đảo, lại nằm
trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng nên rất thuận lợi cho việc xây
dựng các hải cảng lớn, mở rộng giao lưu buôn bán với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Đây chính là điểm thu hút sự quan tâm của Trung Quốc,
đặc biệt là các tỉnh miền Nam Trung Quốc. Hàng hoá các tỉnh miền Nam
Trung Quốc có thể quá cảnh qua miền Bắc Việt Nam để xuất khẩu - nhập
khẩu với các nước khác trên thế giới. Chính vì vậy, hiện nay hai nước Việt
Nam và Trung Quốc đang chủ trương tiến hành xây dựng Hành lang kinh tế
Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Hành lang kinh tế
Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Vành đai kinh
tế Vịnh Bắc Bộ. Đây cũng là lợi thế trong việc phát triển quan hệ thương mại
hàng hoá giữa hai nước với nhau.
- Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới ẩm nước ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió
mùa châu Á. Sự đa dạng của địa hình, với nhiều vùng tiểu khí hậu, cho phép
Việt Nam đa dạng hoá cây trồng và các nông sản nhiệt đới như : cây công

nghiệp (cao su), cây nông nghiệp (cây ăn quả, ngũ cốc các loại, chè, cà phê,
hồ tiêu, hạt điều…). Đây là những mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu lớn ở thị
trường Trung Quốc. Ngoài ra, một số loại quả của Việt Nam (xoài, nhãn,
thanh long, vải…) rất được người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng.
Khí hậu của Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, miền Trung có khí
hậu ôn đới, miền Nam có khí hậu tiểu nhiệt đới. Khí hậu trên đã tạo điều kiện
thuận lợi cho Trung Quốc phát triển các loại cây trồng như : cây ăn quả, rau,
củ...Hàng năm Trung Quốc đã thu hoạch được một khối lượng quả lớn,
khoảng 62 triệu tấn/năm, các loại quả chủ yếu là táo, bưởi, chuối, nho…
Ngoài ra, Trung Quốc còn đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu rau tươi, các
mặt hàng chủ yếu là nấm, hành, tỏi, củ cải và một số loại rau tươi, quýt, táo,
hạnh đào nhân, hạt dẻ…[01, tr.19]. Hiện nay, những mặt hàng rau, củ, quả

21


×