Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

VĂN hóa PHẬT GIÁO TRONG đời SỐNG của NGƯỜI VIỆT ở lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.83 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----oOo-----

NGUYỄN VĂN THOÀN

VĂN HÓA PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở LÀO
Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62.31.70.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG-HCM.

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TRẦN HỒNG LIÊN


Phản biện độc lập:
1.
2.
Phản biện:
1.
2.
3.

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp cơ sở đào tạo tại Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG-HCM.



1
DẪN NHẬP
1. Lý do nghiên cứu
Lào là quốc gia láng giềng thân thiện có mối quan hệ truyền thống đặc
biệt lâu đời với Việt Nam. Việt Nam luôn coi trọng hợp tác với Lào trong công
cuộc phát triển đất nước và luôn làm hết sức mình để thúc đẩy mạnh mẽ mối quan
hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước, nhất là sau tuyên bố của Kuala Lumpur về
việc hình thành cộng đồng ASEAN 2015 và tầm nhìn ASEAN đến 2025. Một
trong những nhân tố quan trọng góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó keo sơn
và là cầu nối hữu nghị cho mối quan hệ giữa hai quốc gia, không thể không đề
cập đến bà con Việt kiều. Vì vậy, việc nghiên cứu người Việt đang sinh sống trong
các nước thành viên trong cộng đồng ASEAN, trong đó có Lào, là cần thiết.
Lào là một trong những quốc gia trên thế giới có số lượng lớn người Việt
Nam sinh sống. Cho đến nay, ở hầu khắp mọi miền đất nước Lào đều có người
Việt sinh sống. Hiện nay, người Việt Nam ở Lào có khoảng 10 vạn người (Tổng
Hội người Việt Nam tại CHDCND Lào, 2015, tr.1). Sự hiện diện của cộng đồng
người Việt ở Lào từ trước đến nay đã có nhiều đóng góp quan trọng trên nhiều
lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa, giáo dục đối với sự nghiệp phát triển
xã hội Lào, đã góp phần làm nên một trong những đặc trưng của quan hệ đặc biệt
giữa hai nhà nước Việt Nam - Lào.
Từ buổi đầu du nhập, đạo Phật của người Việt ở Lào là chỗ dựa tinh thần
cho người Việt trong cuộc sống mưu sinh ở Lào. Ngôi chùa Việt ở Lào không chỉ
là nơi đem lại sự bình an cho người sống, mà còn là nơi yên nghỉ của bao thế hệ
người Việt ở Lào. Nhà sư vừa là người bạn an ủi mỗi khi gặp trắc trở trong cuộc
sống, vừa là người tiếp dẫn khi nhắm mắt xuôi tay, từ giã cõi trần. Đạo Phật của
người Việt ở Lào là nhịp cầu để hướng người Việt ở đây về với cội nguồn dân tộc.
Ngôi chùa là nơi hội tụ hồn thiêng dân tộc, không giống như chùa Lào, chùa Việt
ở Lào không chỉ thờ Phật mà còn thờ các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì dân
tộc. Có thể thấy, trong hầu hết các lĩnh vực đời sống văn hóa – xã hội, đạo Phật

đều nhập thế và đồng hành cùng người dân Việt ở Lào. Do đó, sẽ thật thiếu sót,
không toàn diện khi nghiên cứu về cộng đồng người Việt ở Lào nếu không đề cập
đến đời sống tôn giáo của họ. Từ thực tế đó, chúng tôi quyết định thực hiện luận
án mang tên Văn hóa Phật giáo trong đời sống của người Việt ở Lào, nhằm bổ
sung thêm nguồn tư liệu cho công tác nghiên cứu về văn hóa cộng đồng người
Việt Nam ở Lào.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
So với các quốc gia láng giềng như Thái Lan, Campuchia, cộng đồng
người Việt ở Lào chưa được nhiều học giả Việt Nam, Lào và các học giả quốc tế
quan tâm nghiên cứu như cộng đồng người Việt ở Thái Lan và Campuchia. Cho
đến nay, mới chỉ có vài công trình nghiên cứu khoa học đã công bố về quá trình di
cư, chuyển đổi lối sống, địa vị chính trị và đời sống kinh tế của cộng đồng người


2
Việt tại Lào. Đối với lĩnh vực văn hóa học và tôn giáo học, theo sự hiểu biết của
chúng tôi vẫn chưa có một công trình nào tập trung đi sâu nghiên cứu chuyên biệt
về quá trình bảo lưu, hội nhập và biến đổi văn hóa tinh thần, đặc biệt là đối với
văn hóa Phật giáo Bắc tông của người Việt ở Lào. Trong quá trình tiếp cận nguồn
tư liệu đề tài, chúng tôi nhận thấy có ba khuynh hướng nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án như sau:
2.1. Các công trình liên quan đến cộng đồng người Việt ở Lào
Một số công trình, bài viết tiêu biểu như: The Vietnamese community in
Laos: Research in progress của Ng Shui Meng (1986), Người Việt Nam ở nước
ngoài của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn (1997), Quan hệ hợp tác Việt Nam – Lào:
Thực trạng và hướng phát triển trong những năm tới của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam do Phạm Đức Thành (2004) chủ nhiệm, Việt kiều Lào – Thái với quê
hương của Trần Đình Lưu (2005), Người Việt ở Thái Lan – Campuchia – Lào của
Nguyễn Quốc Lộc (2006), Người Việt ở Thái Lan – Campuchia – Lào của
Nguyễn Quốc Lộc (2006), Đời sống văn hóa của người Việt định cư ở thành phố

Vientiane (Lào) của Lê Thị Hồng Diệp (2007), Di cư và chuyển đổi lối sống
trường hợp cộng đồng người Việt ở Lào do Nguyễn Duy Thiệu (2008) chủ biên,
Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam – Lào do Phạm Đức
Thành (2008) chủ biên. Việt kiều ở Lào, Thái Lan với các phong trào cứu quốc
thế kỷ XX của Nguyễn Văn Vinh (2010), Một số lễ hội tiêu biểu của người Việt ở
Lào của Nguyễn Văn Thoàn (2018), Vai trò và những đóng góp của cộng đồng
người gốc Việt ở Campuchia, Lào, Thái Lan trong giai đoạn hiện nay của Phan
Thị Hồng Xuân (2018).
Trên đây là các công trình, bài viết nghiên cứu về nguyên nhân người Việt
di cư đến Lào, cũng như số lượng và địa bàn cư trú chính của cộng đồng người
Việt ở Lào. Đồng thời, các tác giả cũng cho thấy cộng đồng người Việt ở Lào là
cộng đồng ngoại kiều lớn nhất, có vai trò và vị trí quan trọng đối với nhiều lĩnh
vực ở Lào, đặc biệt là cầu nối xây dựng mối quan hệ hữu nghị toàn diện giữa hai
dân tộc, hai nhà nước Việt Nam và Lào trong quá khứ đấu tranh chống ngoại xâm,
cũng như hiện tại xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, có một bài
công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa tinh thần, tín ngưỡng tôn giáo và sự
chuyển đổi lối sống trong điều kiện văn hóa – xã hội mới ở Lào.
2.2. Các công trình nghiên cứu Phật giáo của người Việt ở Lào
Một số bài viết, công trình tiêu biểu như: Văn hóa Phật giáo Việt Nam
trên đất Lào của Lê Thị Hồng Diệp (2006), Chùa của người Việt ở Lào của
Nguyễn Lệ Thi (2007), Các tôn giáo ở Lào (tiếng Lào) của Viện Khoa học Xã hội
Quốc gia Lào (2012), Quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam
ở Lào của Nguyễn Văn Thoàn (2016), Tính dung hợp của Phật giáo Việt Nam ở
Lào của Nguyễn Văn Thoàn (2017), Giao lưu văn hóa Phật giáo Việt – Lào
(Nghiên cứu trường hợp chùa Phật Tích ở Vientiane) của Trần Hồng Liên và


3
Nguyễn Văn Thoàn (2017).
Các bài viết nêu trên, các tác giả đã trình bày, phân tích một số bình diện

văn hóa Phật giáo của người Việt và ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn
hóa của cộng đồng người Việt ở Lào. Ngoài ra, một số bài viết cũng đã nêu lên
một số vấn đề giao lưu tiếp biến văn hóa giữa Phật giáo Bắc tông Việt Nam với
Phật giáo Nam tông Lào trong quá trình cộng sinh ở Lào. Nhìn chung, các bài viết
này có những phát hiện mới, nhưng chưa phải là một công trình hoàn thiện về văn
hóa và ảnh hưởng của Phật giáo Bắc tông đối với đời sống của người Việt ở Lào.
2.3. Các công trình nghiên cứu Phật giáo liên quan đến đề tài
Bên cạnh những công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến cộng đồng
người Việt ở Lào nói chung và văn hóa Phật giáo Bắc tông của người Việt ở Lào
nói riêng, còn có những công trình, bài viết cung cấp nguồn thông tin làm cơ sở lý
luận và thực tiễn cho luận án, tiêu biểu như: Vai trò của Phật giáo trong đời sống
chính trị - văn hóa và xã hội Lào (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIX) của Nguyễn Lệ
Thi (1992), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ – Việt Nam (tái bản
lần thứ I) của Trần Hồng Liên (2000), The History ở Buddhism in Laos của Maha
Khamyad Rasdavong (2006), Phật giáo Lào dưới góc nhìn văn hóa của Nguyễn
Văn Thoàn (2006), Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (2012), Giao
lưu tiếp biến với văn hóa Phật giáo của Phan Thu Hiền (2013), Phật giáo trong
dòng lịch sử, văn hóa Lào của Trần Quang Thuận (2015), Chùa Việt tại Thái Lan:
Biểu tượng văn hóa và cầu nối cho mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan (Trường
hợp chùa Việt Tông ở tỉnh Udon Thani – Đông Bắc Thái Lan) của Phan Thị Hồng
Xuân (2016), Văn hóa Phật giáo Việt Nam thống nhất trong đa dạng Ngôn ngữ,
Pháp phục, Kiến trúc, Di sản của Thích Thọ Lạc (2016) chủ biên.
Các công trình, bài viết này đã cung cấp nhiều thông tin khoa học, độ tin
cậy cao về văn hóa Phật giáo Nam tông Lào và văn hóa Phật giáo Bắc tông Việt
Nam, làm cơ sở lý luận, so sánh trong quá trình thực hiện luận án. Từ kết quả của
những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước về cộng đồng người Việt ở
Lào và văn hóa Phật giáo, luận án sẽ xây dựng nên bức tranh về những đặc điểm
văn hóa và vai trò của Phật giáo Bắc tông trong đời sống của người Việt ở Lào đối
với sự hòa nhập xã hội Lào và cố kết trong nội bộ của cộng đồng này.
3. Mục đích, Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

Tiếp cận từ chuyên ngành Văn hóa học, luận án có mục tiêu như sau:
- Chỉ ra vai trò và những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn
hóa của người Việt ở Lào, từ cuộc sống vật chất cho đến đời sống tâm linh của
cộng đồng này.
- Tìm hiểu quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Lào và quá trình
du nhập, phát triển Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở Lào.
- Phân tích những đặc trưng văn hóa của Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở
Lào qua quá trình giao lưu, tương tác và tiếp nhận những yếu tố văn hóa bản địa,


4
văn hóa Phật giáo Nam tông của người Lào.
- Tìm hiểu vai trò của Phật giáo Bắc tông Việt Nam trong đời sống của
cộng đồng người Việt ở Lào đối với tinh thần hòa nhập vào đời sống văn hóa – xã
hội Lào và sự cố kết trong nội bộ cộng đồng người Việt sinh sống tại Lào.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn hóa Phật giáo Bắc tông và cộng
đồng người Việt ở Lào hiện nay. Như vậy, đối tượng chính là Phật giáo Bắt tông
của người Việt ở Lào. Đối tượng nghiên cứu thứ hai, đó là người Việt (người
Kinh) đang sinh sống ở Lào, có tín ngưỡng hoặc có cảm tình với Phật giáo. Vì
vậy, trong luận án này sử dụng cụm từ người Việt hay người Việt Nam ở Lào đều
chỉ đối tượng nghiên cứu là người Kinh. Đối với những người Việt là cán bộ,
công chức đang công tác, học sinh, sinh viên đang học tập ở Lào; những người
Việt tin theo Phật giáo Nam tông Lào hay các tôn giáo khác thì không thuộc đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian, luận án tập trung vào cộng đồng người Việt ở bốn tỉnh,
thành của Lào bao gồm cố đô Luang Phabang (Bắc Lào), thủ đô Vientiane (Bắc
Trung Lào), tỉnh Savannakhet (Nam Trung Lào) và tỉnh Champasak (Nam Lào).
Bởi đây là nơi có lịch sử cư trú lâu đời của nhiều thế hệ lưu dân Việt tại Lào và có
ngôi chùa Việt.

- Về thời gian, để có cái nhìn bao quát, luận án sẽ tìm hiểu và nghiên cứu
quá trình di cư và định cư người Việt tại Lào từ buổi đầu qua từng giai đoạn lịch
sử quan trọng của cả hai quốc gia Việt Nam và Lào. Đối với lĩnh vực văn hóa và
vai trò của Phật giáo Bắc tông trong đời sống của người Việt ở Lào, luận án chủ
yếu tập trung nghiên cứu giai đoạn hiện nay.
4. Câu hỏi, Giả thuyết và Phương pháp nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu: Để giải quyết mục tiêu của luận án, chúng tôi đặt ra
một số câu hỏi như sau:
- Với điều kiện văn hóa – xã hội đặc thù ở Lào, Phật giáo Bắc tông có vai
trò, chức năng gì đối với đời sống văn hóa tâm linh và cuộc sống vật chất của
cộng đồng người Việt ở Lào?
- Trong môi trường địa văn hóa ở Lào, Phật giáo Nam tông là quốc giáo ở
Lào, có ảnh hưởng trùm khắp đến các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa và
xã hội Lào, vì vậy có ảnh hưởng mang tính quyết định hay không đến đời sống
văn hóa của cộng đồng người Việt ở Lào?
Giả thuyết nghiên cứu: Nhằm định hướng cho quá trình thực hiện luận
án, chúng tôi tập trung vào một số giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Văn hóa Phật giáo Bắc tông đã tác động, ảnh hưởng đáng kể đến mọi
mặt của đời sống văn hóa – xã hội của người Việt ở Lào, biểu hiện trên lĩnh vực
văn hóa vật thể và phi vật thể.
- Phật giáo Nam tông, với tư cách là quốc giáo ở Lào, nên có ảnh hưởng


5
quan trọng trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Lào, vì
vậy cũng có ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của cộng đồng người Việt ở Lào,
nhưng không mang tính quyết định.
Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu định tính (điền dã, quan sát –
tham dự và phỏng vấn sâu), bổ sung thêm nguồn tài liệu cấp một cho luận án.

Qua các đợt đi thực tế, chúng tôi trực tiếp tham gia, quan sát, khảo sát các cơ sở
Phật giáo Bắc tông của người Việt. Qua đó, tìm hiểu những đặc trưng văn hóa
Phật giáo Bắc tông cũng như văn hóa tinh thần của người Việt được bảo lưu và
biến đổi trong đời sống văn hóa của cộng đồng người Việt ở Lào. Phương pháp
nghiên cứu định lượng, cung cấp con số cụ thể để kiểm tra độ tin cậy, khách quan
với những thông tin thu thập được từ nghiên cứu định tính. Phương pháp so sánh,
nhằm so sánh, đối chiếu, tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa các nền
văn hóa của hai tộc người Việt – Lào khác nhau. Hướng tiếp cận liên ngành, để
có thể hiểu đầy đủ hơn về đối tượng nghiên cứu, thấy được những giá trị, đặc
trưng của văn hóa Phật giáo đối với đời sống của người Việt ở Lào.
5. Đóng góp của luận án
Về ý nghĩa khoa học
- Luận án tập hợp và hệ thống hóa tư liệu về đặc trưng văn hóa Phật giáo
Bắc tông của người Việt ở Lào, từ góc nhìn văn hóa học.
- Đóng góp tri thức, phương pháp, lý luận cho hướng nghiên cứu về văn
hóa và vai trò của Phật giáo Bắc tông Việt Nam trong đời sống văn hóa của cộng
đồng người Việt ở nước ngoài.
Về ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đóng góp đối với việc xây dựng những chính sách, chủ trương
trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa
Phật giáo Bắc tông nói riêng đối với cộng đồng người Việt ở Lào nói riêng và ở
nước ngoài nói chung.
- Kết quả nghiên cứu có thể trở thành tư liệu tham khảo cho các học phần
về văn hóa tôn giáo, văn hóa Phật giáo, phong tục tập quán và lễ hội của dân tộc
Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận và Phụ lục, luận án gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn, bao gồm phần nền tảng lý luận về
văn hóa được sử dụng trong quá trình nghiên cứu và viết luận án; xác định thời
gian di cư, hình thành và đặc điểm cộng đồng người Việt Nam ở Lào, cũng như

thời gian du nhập và hiện trạng Phật giáo của người Việt ở Lào.
Chương 2: Đặc điểm Phật giáo của người Việt ở Lào, tiếp cận nghiên
cứu những đặc trưng văn hóa Phật giáo Bắc tông của người Việt ở Lào trong mối
quan hệ, giao lưu với văn hóa Phật giáo Nam tông Lào.


6
Chương 3: Vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa của người Việt
ở Lào, tiếp cận nghiên vai trò, chức năng của Phật giáo Bắc tông Việt đối với đời
sống tinh thần của cộng đồng người Việt ở Lào.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm và lý thuyết tiếp cận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Tôn giáo
Khái niệm tôn giáo được nhắc đến trong giới khoa học phương Tây, sớm
nhất khoảng từ thế kỷ XVIII – XIX. Đến nay, mỗi nhà nghiên cứu, tùy vào góc độ
khoa học mà có một quan điểm riêng của mình về khái niệm tôn giáo. Theo Đặng
Nghiêm Vạn, tôn giáo là sản phẩm sáng tạo của con người nhằm đáp ứng nhu cầu
về tinh thần của con người trong xã hội, đến lượt mình, tôn giáo tạo nên những
chuẩn mực để xây dựng niềm tin của con người trong mối quan hệ giữa cái thiêng
và cái tục, giữa vật chất với tinh thần (Đặng Nghiêm Vạn, 2003, tr.50-54).
1.1.1.2. Tín ngưỡng
Trước vấn đề tồn tại nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau, để có định
hướng thống nhất trong luận án, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: Tín
ngưỡng là sự sùng bái các hiện tượng tự nhiên, nhưng chưa có giáo lý thành văn,
không có giáo đường quy mô, nghi lễ đơn giản, nhân sự bán chuyên nghiệp hoặc
không có, tổ chức lỏng lẻo. Còn tôn giáo là sự sùng bái những đối tượng được
thần thánh hóa cao độ, với một hệ thống giáo lý rõ ràng, nghi thức hoàn chỉnh và
một tổ chức chặt chẽ (Trần Ngọc Thêm, 2013, tr.566-567).

1.1.1.3. Văn hóa tôn giáo
Sẽ thật khó có được một khái niệm văn hóa tôn giáo đầy đủ nội dung và
bao quát. Bởi lẽ, bản thân khái niệm tôn giáo đã phức tạp mà khái niệm văn hóa
hiện vẫn đang là vấn đề còn nhiều tranh luận. Trong mối quan hệ hữu cơ, tôn giáo
là một thành tố của văn hóa, được sinh ra từ văn hóa. Theo đó, văn hóa khác nhau
làm cho tôn giáo có sắc thái khác nhau và ngược lại tôn giáo khác nhau làm cho
văn hóa khác nhau. Qua các quan điểm về tôn giáo, tín ngưỡng và mối quan hệ
văn hóa và tôn giáo của một số nhà khoa học, có thể hiểu văn hóa tôn giáo như
sau: với tư cách là bộ phận của văn hóa, tôn giáo cũng có các đặc tính giống như
văn hóa. Văn hóa tôn giáo bao gồm những giá trị vật chất (cơ sở thờ cúng, điện
thần, tổ chức giáo hội) và tinh thần (giáo lý, kinh điển, nghi thức) được con người
sáng tạo nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh của con người và lưu giữ trong quá trình
lịch sử. Như vậy, văn hóa tôn giáo cũng chỉ cho văn hóa Phật giáo.
1.1.1.4. Phật giáo Nam tông
Là một tông phái lớn của đạo Phật được hình thành lâu đời nhất và tồn


7
tại từ xưa đến nay, còn được gọi với nhiều tên khác như: Theravada, Phật giáo
Nam truyền, Phật giáo Tiểu thừa, Phật giáo Nguyên thủy. Tam Tạng Kinh điển
bằng tiếng Pali là giáo lý nòng cốt của hệ phái này. Phật giáo Nam tông chỉ thờ
mỗi hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, không dùng pháp khí và cũng không
xướng tán ngân nga khi thực hành nghi lễ.
1.1.1.5. Phật giáo Bắc tông
Còn được gọi là Mahayana, Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Bắc truyền,
Phật giáo phát triển. Ba tạng Kinh, Luật và Luận nguyên thủy vẫn là giáo lý căn
bản của tông phái này, bên cạnh đó còn có kho tàng kinh, luận được phát triển khi
truyền bá đến các quốc gia khác nhau và đều được chuyển ngữ thành ngôn ngữ
của quốc gia đó. Trong không gian điện thờ, ngoài hình tượng Phật Thích Ca Mâu
Ni, tông phái này còn thờ hình tượng Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Bồ Tát và các vị

thánh, thần khác.
1.1.1.6. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là bộ phận cấu thành trong đời sống chung của con
người và xã hội. Nó bao gồm một tổng hợp những thành tố văn hóa tác động qua
lại với đời sống của mỗi cá nhân và cộng đồng. Đời sống văn hóa là gạch nối liền
giữa văn hóa của xã hội và văn hóa của cá nhân; là tổng thể những yếu tố văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần có sự tác động lẫn nhau, trên phạm vi không gian
nào đó, trực tiếp hình thành nếp sống và lối sống của mỗi cá nhân và cộng đồng
(Trần Văn Ánh, Nguyễn Xuân Hồng và Nguyễn Văn Hy, 2002, tr.8-9).
1.1.1.7. Di dân
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu về di dân, có thể cho rằng, di cư là
sự chuyển dịch của con người từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
khác trong thời gian nhất định, có thể cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễn. Từ đó có thể
hiểu, di dân là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc quá trình con
người rời bỏ hoặc hội nhập, hoặc thiết lập nơi cư trú mới vào một đơn vị hành
chính - địa lý trong một thời gian nhất định (Lê Thị Hồng Diệp, 2007, tr.13).
1.1.1.8. Nhập cư
Có hai khái niệm liên quan đến quá trình di dân đó là khái niệm nhập cư
và xuất cư. Nhập cư là sự dịch chuyển của một cá nhân hoặc một nhóm người đến
địa bàn cư trú mới (nơi nhập cư) trong một khoảng thời gian nhất định. Xuất cư là
sự dịch chuyển hay rời bỏ nơi cư trú gốc (nơi xuất cư) của người di cư để đến địa
bàn cư trú mới trong hay ngoài biên giới một quốc gia, sinh sống tạm thời hay
vĩnh viễn (Phan Thị Hồng Xuân, 2018, tr.4 - 5).
1.1.1.9. Ngoại kiều, Việt kiều
Ngoại kiều là khái niệm để chỉ những người nước ngoài sống trên một
nước sở tại nào đó, mà những người này được hưởng quy chế ngoại kiều do chính
phủ nước đó quy định (Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa
Việt Nam, 2003, tr.121).



8
Việt kiều là cụm từ chỉ chung cho những người Việt Nam đã di cư và
đang định cư, sinh sống ở một quốc gia nào đó ngoài nước Việt Nam như: những
người Việt đã và đang sinh sống tại Mỹ gọi là Việt kiều Mỹ; những người Việt đã
và đang sinh sống tại Lào có quốc tịch Lào hoặc có giấy chứng nhận ngoại kiều
của chính phủ Lào thì gọi là Việt kiều Lào.
1.1.2. Các lý thuyết tiếp cận
- Thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa (Acculturation)
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trường phái nhân học Anglo Saxon
đã đưa ra thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa khi tiến hành nghiên cứu về sự biến
đổi văn hóa của các nhóm di dân người Châu Âu đến Mỹ. Sau đó, thuật ngữ “giao
lưu và tiếp biến văn hóa” được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành khoa học
xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hóa học,… Theo các nhà nhân học Mỹ thì
giao lưu và tiếp biến văn hóa là quá trình trong đó một nền văn hóa thích nghi,
chịu ảnh hưởng một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều đặc trưng của
nền văn hóa ấy. Bởi giao lưu tiếp, biến văn hóa là một cơ chế khác của biến đổi
văn hóa, đó là sự trao đổi của những đặc tính văn hóa được nảy sinh khi hai hoặc
các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính
riêng biệt của mình (Nhiều tác giả, 2008, tr.12).
Vận dụng lý thuyết này, khi thực hiện nghiên cứu về tiến trình lịch sử của
cộng đồng người Việt ở Lào nói chung, văn hóa Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở
Lào nói riêng, chúng tôi hết sức chú trọng đến những biểu hiện về biến đổi văn
hóa, nhất là khía cạnh truyền thống – hiện đại trong văn hóa, tính cộng sinh văn
hóa giữa hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh để nhận biết về quá trình giao lưu và
tiếp biến văn hóa Việt - Lào. Đó chính là trạng thái động để biểu hiện tính thích
nghi, hòa nhập văn hóa của cộng đồng người Việt ở Lào trong quá trình sinh tồn
và bảo lưu văn hóa.
- Lý thuyết chức năng (Functionalism)
Đây là một trong những lý thuyết khoa học ra đời rất sớm, đầu tiên được
sử dụng trong nghiên cứu triết học, xã hội học, sau đó mới đến nhân học hiện đại

và văn hóa học. Người được xem như là cha đẻ của thuyết này là Emile
Durkheim. Trong luận án, chúng tôi vận dụng lý thuyết chức năng tâm lý
(Individual functionalism) của B.Malinowski và chức năng cấu trúc (Structure
functionalism) của A.Radcliffe Brown. Nhìn chung, lý thuyết chức năng của hai
nhà khoa học này với tư tưởng cơ bản là một hệ thống ổn định được tạo thành bởi
nhiều bộ phận. Mỗi bộ phận có vai trò, chức năng khác khau, song các bộ phận
không tồn tại độc lập, riêng lẻ mà có quan hệ qua lại để cùng tạo nên hệ thống ổn
định. Muốn hiểu được chức năng của một hệ thống phải xem xét sự đóng góp của
các bộ phận vào sự vận hành của hệ thống. Việc vận dụng lý thuyết chức năng để
nghiên cứu đặc trưng văn hóa Phật giáo Bắc tông và những sinh hoạt văn hóa của
người Việt ở Lào như là những thành tố tạo nên hệ thống đời sống văn hóa của


9
cộng đồng Việt ở Lào. Qua đó xác định vai trò, chức năng của văn hóa Phật giáo
Bắc tông trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Việt ở Lào.
- Lý thuyết vùng văn hóa
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học châu Âu và Mỹ đã
xây dựng và phát triển lý thuyết về nghiên cứu văn hóa vùng. Trong luận án này,
chúng tôi vận dụng lý thuyết của hai nhà nhân học Mỹ là Franz Boas và
C.V.Wisslerv. Qua lý thuyết này, nghiên cứu văn hóa của cộng đồng người Việt ở
Lào nói chung và văn hóa Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở đây nói riêng để thấy
được dấu ấn văn hóa của con người Việt, sắc thái văn hóa Phật giáo Việt Nam ở
đây; thấy được quy luật hình thành và biến đổi văn hóa trong môi trường không
gian địa lý ở Lào; thấy được con đường và các phương thức giao lưu, ảnh hưởng
qua lại giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào. Nghiên cứu văn hóa của cộng đồng
người Việt ở Lào sẽ thấy được đặc trưng văn hóa của người Việt ở đây trong quá
trình lịch sử và ở không gian cụ thể, qua đó có thể phân biệt được văn hóa vùng
này với vùng khác, so sánh những yếu tố văn hóa tương đồng và khác biệt.
1.2. Khái quát về văn hóa Lào

1.2.1. Không gian văn hóa
Đất nước Lào có địa hình đa dạng và khác biệt tự nhiên giữa các vùng,
tạo nên ấn tượng nổi bật của một đất nước núi đồi, cao nguyên và thung lũng.
Trong đó, núi đồi và cao nguyên chiếm ¾ diện tích đất và tập trung phần lớn ở
phía Bắc. Dãy Trường Sơn vừa là đường biên giới tự nhiên vừa là xương sống cho
cả hai nước Việt Nam và Lào cùng tựa lưng. Và sông Mêkong là đường biên giới
tự nhiên giữa Lào với Thái Lan. Cho đến ngày nay, người Lào vẫn giữ truyền
thống nông nghiệp làm lúa nước vùng thung lũng, ngay ở thủ đô Vientiane họ vẫn
làm ruộng lúa nước và nương rẫy, họ vẫn thích cảnh quan rừng núi.
1.2.2. Chủ thể văn hóa
Cũng giống như Việt Nam và các quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á,
Lào là một nước đa tộc người, đa văn hóa. Hiện nay, ở Lào có nhiều tộc người
khác nhau và được xếp thành ba nhóm chính: Lào Lùm, Lào Thơng, Lào Sủng.
Trong đó, Lào Lùm là nhóm tộc người chủ thể ở Lào, chiếm khoảng 65% dân số
cả nước (Trần Quang Thuận, 2015, tr.33). Hiện tại, về trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa ba nhóm này không đồng đều và ngay giữa các tộc người trong một
nhóm tộc người cũng có sự chênh lệnh với nhau.
Cho đến nay, những tôn giáo ngoại lai vẫn không hấp dẫn được đức tin
của người Lào đối với đạo Phật. Phật giáo Theravada đã ăn sâu bám chắc vào
trong từng mạch máu của người Lào tới mức đối với những ai chưa có sự hiểu
biết đầy đủ về lịch sử - văn hóa Lào thì khó có thể tách bạch được yếu tố nào là
văn hóa truyền thống của người Lào và yếu tố nào là văn hóa Phật giáo.
1.2.3. Thời gian văn hóa
Tiến trình văn hóa Lào có thể chia thành năm giai đoạn: văn hóa thời tiền


10
sử, văn hóa Khún Bu Lôm – Khún Lo, văn hóa thời Lào Lạn Xạng, văn hóa
vương quốc Lào và văn hóa hiện đại. Năm giai đoạn này tạo thành ba lớp văn hóa
chồng lên nhau: lớp văn hóa bản địa (đặc trưng chung của lớp văn hóa này là nền
văn hóa đặc sắc với nghề nông ngiệp lúa nước); lớp văn hóa giao lưu với Khmer

và Ấn Độ – Sri Lanka với đại diện tiêu biểu là văn hóa Phật giáo Therevada (đặc
trưng chung của lớp văn hóa này chủ yếu là sự song song cùng tồn tại hai yếu tố:
văn hóa bản địa và văn hóa du nhập); lớp văn hóa giao lưu với phương Tây (lớp
văn hóa này có hai xu hướng trái ngược nhau song song tồn tại – Âu hóa và chống
Âu hóa) (Nguyễn Văn Thoàn, 2007, tr.21). Từ các lớp văn hóa trên đã hình thành
nên những đặc trưng văn hóa của người dân Lào hiện nay.
1.3. Cộng đồng người Việt ở Lào
1.3.1. Khái quát về quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Lào
Có nhiều nguyên nhân, giai đoạn người dân Việt Nam rời bỏ quê hương
phiêu bạt đến Lào sinh sống nhưng tựu trung có thể đúc kết lịch sử di cư của
người Việt sang Lào phân làm ba giai đoạn lớn và những nguyên nhân chính sau:
- Giai đoạn trước thế kỷ XIX
Có thể tạm lấy từ thời nhà Lê với sự kiện vua Lê Thánh Tông khởi binh
để bình định biên giới phía Tây bất thành, cho đến nhà Nguyễn, với những
nguyên nhân di cư chính là tránh giặc phương Bắc, tìm nơi sống mới do nạn đói,
thiên tai, sưu cao thuế nặng và kỳ thị tín ngưỡng. Theo những cung đường bộ
truyền thống, lúc đầu họ tập trung sinh sống ở các tỉnh Trung Lào giáp với Việt
Nam với mong ước vận đời sẽ thay đổi để tiện trở về nơi chôn nhau cắt rốn,
nhưng rồi chỉ là mòn mõi đợi chờ theo thời gian. Ở những nơi này, di dân Việt đã
cùng nhau xây dựng nên những trung tâm quần cư đầu tiên ở Lào. Càng về sau họ
tiếp tục di cư đến các vùng khác để mưu sinh như xuôi dòng Mêkông xuống miền
Nam hay ngược dòng lên các vùng phía Bắc.
- Giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1975
Việc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam đã tạo nên làn
sóng tản cư với số lượng lớn, nhằm tránh sự đàn áp của chính quyền đô hộ, phục
vụ bộ máy công quyền của chính quyền thuộc địa và nhân công khai thác tài
nguyên của Lào dưới sự bảo hộ của chính quyền thuộc địa. Điểm khác biệt của
cộng đồng người Việt ở Lào so với ở các nước khác là người nhập cư được bảo
hộ, giữ chức vụ trong bộ máy chính quyền thuộc địa ở Lào trong sắc áo “lính khố
xanh”. Do đó, số lượng người Việt ở các tỉnh thành của Lào tăng lên nhanh chóng

trong thời kỳ này. Ở các trung tâm, thị tứ của Lào, người Việt chiếm tỷ lệ áp đảo
so với các ngoại kiều khác và cả người Lào.
- Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Đây là giai đoạn bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Sau giải phóng
đất nước 1975, số lượng người Việt di cư sang Lào cũng được diễn ra thường
xuyên với nguyên nhân chính là lợi thế kinh tế. Ngoài lực lượng sang giúp Lào


11
phát triển cơ sở hạ tầng xã hội theo hợp tác của hai chính phủ, còn phần lớn do
tính đặc thù của nền kinh tế Lào, đã tạo lực hấp dẫn đối với một số người dân Việt
nhập cư trái phép để tìm kiếm công ăn việc làm và đặc biệt là hiện tượng xâm
canh xâm cư của người Việt ở những vùng tiếp giáp biên giới với Lào.
1.3.2. Đặc điểm cộng đồng người Việt ở Lào
- Về số lượng và phân bố dân cư
Theo số liệu thống kê của chính phủ Lào từ năm 1995 đến nay, số lượng
người Việt ở Lào tăng dần và là cộng đồng ngoại kiều đông nhất ở Lào. Trung tâm
thống kê quốc gia Lào cho rằng có hơn 14 ngàn người Việt sinh sống ở Lào vào
năm 1995, mười năm sau con số này tăng lên khoảng 19 ngàn người vào năm
2015, là cộng đồng ngoại kiều đông nhất ở Lào (Trung tâm Thống kê Quốc gia
Lào, 2015, tr.38). Tuy nhiên, con số thống kê trên chỉ tính những người Việt có
quốc tịch Lào, được gọi là người Lào gốc Việt.
Để có cái nhìn bao quát, đầy đủ về cộng đồng người Việt ở Lào không thể
không tính đến số lượng người Việt nhập cư tự do sang Lào mưu sinh và có ý
muốn định cư lâu dài, con số này không nhỏ có thể lên đến hàng vạn, đặc biệt ở
các tỉnh, thành phố lớn ở Lào. Theo quan điểm này, năm 2015, Tổng Hội người
Việt Nam ở Lào đưa ra con số có gần 100.000 người Việt đang sinh sống tại Lào
(Tổng Hội người Việt Nam tại CHDCND Lào, 2015, tr.1). Nhìn chung, việc xác
định số lượng người Việt ở Lào theo quan điểm nào thì cũng đều cho thấy tăng
dần sau mỗi lần các cơ quan chức năng tiến hành thống kê.

- Về cấu trúc
Việc phân chia các bộ phận hợp thành cộng đồng người Việt ở Lào hiện
có một số quan điểm khác nhau. Song, quan điểm được Hội người Việt Nam ở
Lào, các văn bản pháp quy của Việt Nam và các nhà nghiên cứu về cộng đồng
người Việt Nam ở Lào hiện nay tán đồng là bao gồm ba bộ phận: Những người
Việt đã nhập quốc tịch Lào - Người Lào gốc Việt, Những người Việt được hưởng
quy chế ngoại kiều – Việt kiều (bộ phận này được xem là đông nhất hợp thành
cộng đồng người Việt ở Lào. Bộ phận này có hai hiện trạng một là vẫn còn mang
quốc tịch Việt Nam và hai là không còn mang quốc tịch Việt Nam với nhiều lý do
khách quan lẫn chủ quan trong quá khứ) và Những người Việt mới đến Lào –
chưa có chứng minh thư ngoại kiều
1.4. Khái quát về Phật giáo của người Việt ở Lào
1.4.1.Quá trình hình thành và phát triển
- Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1975
Phật giáo Bắc tông của người Việt du nhập vào Lào muộn hơn nhiều so với lịch
sử di cư của người Việt đến xứ sở chùa tháp này. Mãi đến những năm của thập
niên đầu của thế kỷ XX thì mới có sự ra đời của ngôi chùa Việt trên đất Lào, đánh
dấu sự có mặt của Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở Lào, nơi Phật giáo Nam tông là
quốc giáo. Ở giai đoạn đầu, Phật giáo của người Việt ở Lào chỉ mới đặt nền


12
móng, ra đời với tính chất riêng lẻ. Ba trong bốn ngôi chùa đều do cư sĩ Phật tử
người Việt đứng ra tạo lập và quản lý, thiếu sự truyền giáo chính thống từ Phật
giáo trong nước qua sự hướng dẫn của tăng sĩ. Song, điều này lại cho thấy nhu
cầu tâm linh và tín tâm mạnh mẽ của cộng đồng người Việt ở Lào đối với đạo
Phật trong điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn lúc bấy giờ.
Thập niên 50, 60, là giai đoạn hưng thịnh của Phật giáo của người Việt ở
Lào, có tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh trùng tu lại
những ngôi chùa cũ, còn cho xây dựng nhiều ngôi chùa mới ở các địa phương

Lào. Đông đảo người Việt ở Lào quy y Tam Bảo, nhiều tu sĩ người Việt ở Lào
hiện nay cũng được xuất gia vào thời kỳ này.
- Giai đoạn sau từ sau năm 1975 đến nay
Giai đoạn này Phật giáo của người Việt ở Lào thiếu tổ chức thống nhất,
thiếu sự hỗ trợ lẫn nhau trong sinh hoạt, và chỉ có thêm được duy nhất 1 ngôi tịnh
xá. Tuy nhiên, với sự trùng tu mới quy mô rộng lớn hơn, kiến trúc trang nghiêm
hơn của một số chùa cho thấy sắc thái mới của Phật giáo người Việt ở Lào trong
giai đoạn hiện nay gần gũi hơn với Phật giáo trong nước. Đồng thời cũng phản
ánh phần nào về đời sống kinh tế của người Việt ở Lào, không còn nhiều khó
khăn so với giai đoạn trước.
1.4.2. Hiện trạng Phật giáo của người Việt ở Lào
- Số lượng chùa
Hiện nay, trên khắp đất nước Lào có 12 ngôi chùa Phật giáo Bắc tông Việt
Nam và một ngôi tịnh xá của hệ phái Khất sĩ Việt Nam. Trong đó, có hai ngôi
chùa không có sư trụ trì đó là chùa Đại Nguyện và chùa Bồ Đề.
- Số lượng tu sĩ
Theo số liệu khảo sát thực địa năm 2016, Phật giáo Bắc tông của người
Việt ở Lào tổng cộng có 12 Tăng và 12 Ni. Hiện tại, chỉ có 2/3 trong số Tăng Ni
người Việt có quyền định cư lâu dài ở Lào. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đối với
sự phát triển lâu dài của Phật giáo của người Việt ở Lào, đặc biệt là mỗi khi chính
sách cư trú đối với người nước ngoài của chính phủ Lào có sự thay đổi.
- Số lượng Phật tử
Để đưa ra con số chính xác về số lượng tín đồ của Phật giáo Bắc tông
Việt Nam ở Lào là rất khó. Qua số liệu khảo sát thực địa tại Lào vào tháng 3 năm
2016, có đến 94% người Việt ở Lào theo đạo Phật hoặc có cảm tình với đạo Phật,
nhưng chỉ có 39% là Phật tử (người có quy y Tam Bảo).
- Hệ phái, tông phái và truyền thừa
Thông qua hành trạng các danh tăng Việt Nam hoằng pháp ở Lào trước
đây cũng như xuất thân của các vị trụ trì chùa hiện nay cho thấy, Phật giáo của
người Việt ở Lào, ngoại trừ thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, đều có đại diện các

tông phái của Phật giáo Bắc tông Việt Nam. Tuy nhiên, lịch sự truyền thừa Phật
giáo Bắc tông Việt Nam ở Lào thường bị gián đoạn thời gian và phần lớn người


13
kế thừa không phải là đệ tử của vị trụ trì đời trước. Và thường xuyên diễn ra hiện
tượng đời trụ trì trước thuộc tông phái này, khi đến đời trụ trì sau lại theo tông
phái khác. Song, điều đáng trân trọng là dù các vị trụ trì có chuyển đổi tông phái
nào thì ngôi chùa Việt ở Lào qua thời gian vẫn giữ đặc trưng là ngôi chùa Phật
giáo Bắc tông.
Tiểu kết
Trong chương 1, chúng tôi đã tập trung vào những nội dung chính sau:
- Ở phần cơ sở lý luận, chúng tôi xác định luận án sẽ được triển khai theo
hướng nghiên cứu văn hóa học để nhận thức những đặc điểm và vai trò Phật
giáo trò đời sống của người Việt ở Lào.
- Phần cơ sở thực tiễn, chúng tôi tiến hành định vị tọa độ văn hóa Lào
theo cấu trúc tọa độ, bao gồm không gian - chủ thể - thời gian; xác định thời gian
di cư, hình thành và đặc điểm cộng đồng người Việt Nam ở Lào, cũng như thời
gian du nhập và hiện trạng Phật giáo của người Việt ở Lào.
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI VIỆT Ở LÀO
2.1. Sự dung hợp và tính đa dạng
2.1.1. Thể hiện qua tông phái và nghi lễ
Có thể nói, Phật giáo người Việt ở Lào là bức tranh thu nhỏ của Phật giáo
Bắc tông Việt Nam, phần lớn các tông phái, hệ phái, đặc trưng văn hóa Phật giáo
ba miền Việt Nam đều có mặt ở Lào. Song, Phật giáo người Việt ở Lào không
nặng nề về tông phái hay vùng miền, đơn giản nhiều về nghi lễ trong thời khóa
tụng niệm so với Phật giáo trong nước, linh hoạt trong tiếp nhận để phù hợp với
đời sống tín ngưỡng đa dạng của cộng đồng di cư người Việt ở Lào.
2.1.2. Dung hợp với tín ngưỡng dân gian, bản địa

Qua khảo sát thực tế cho thấy, Phật giáo của người Việt ở Lào tuy có sự
kế thừa tính dung hợp với tín ngưỡng dân gian của Phật giáo Việt Nam, song với
môi trường xã hội mới ở Lào, nên nó không còn giữ khuôn mẫu truyền thống như
Phật giáo trong nước. Đồng thời, việc dung hợp các hình thức tín ngưỡng dân
gian của Phật giáo Việt Nam ở Lào cũng phản ánh đặc trưng văn hóa vùng miền
thông qua sự lựa chọn thờ Mẫu hay thờ Quan Thánh Đế Quân, hoặc không thờ
Thánh, Thần tại các chùa Việt ở Lào.
2.1.3. Thể hiện qua kiến trúc
Kiến trúc chùa Việt ở Lào hết sức đa dạng, trên cơ sở kế thừa văn hóa
kiến trúc chùa tháp Phật giáo Việt Nam từ ba miền và giao lưu văn hóa kiến trúc
chùa tháp Phật giáo Lào. Trong quần thể kiến trúc của ngôi chùa Việt có ba công
trình kiến trúc quan trọng đó là cổng tam quan, ngôi chánh điện và bảo tháp, tạo
nên sự khác biệt văn hóa kiến trúc chùa tháp với các dân tộc khác.


14
2.1.4. Thể hiện qua bài trí tượng thờ
Để hòa nhập với điều kiện xã hội mới, Phật giáo của người Việt ở Lào
không thể không có sự giao lưu văn hóa với Phật giáo Nam tông Lào. Một trong
nhiều hệ quả đó được thể hiện rõ nét nhất đó là cách bài trí tượng thờ tại các chùa
Việt ở Lào. Bài trí tượng thờ tại các chùa Việt ở Lào chủ yếu là môtip “Thích Ca
tam tôn” thay vì “Tây Phương Tam Thánh” như Phật giáo trong nước. Về nghệ
thuật tạc tượng Phật chính trong Phật điện chùa Việt ở Lào cho thấy sự sáng tạo,
dung hợp hai trường phái nghệ thuật tượng Phật Việt Nam và tượng Phật Lào
như: đỉnh tóc không cao, trái tai dài và dày, mũi cao và hơi khoằm, môi hơi dày,
khóe mắt không dài, mặc y kín vai, ngồi kiết già trong tư thế xúc địa ấn.
2.2. Tính nhập thế
2.2.1. Tinh thần vì đạo pháp – vì dân tộc
Từ buổi đầu du nhập cho đến hiện nay, thời kỳ nào tăng ni, Phật tử người
Việt ở Lào cũng đều tích cực trong các phong trào dân tộc, luôn dấn thân trong

các hoạt động vì sự phát triển Phật pháp, xây dựng sự đoàn kết cộng đồng, vun
đắp tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc, hai nhà nước Việt Nam – Lào
2.2.2. Hoạt động từ thiện – xã hội
Một trong những hoạt động nổi bật của Phật giáo người Việt ở Lào đó là
Từ thiện xã hội. Phật giáo của người Việt ở Lào luôn xem trọng việc tích phúc,
cứu người hơn nghi lễ hình thức, sẻ chia khó khăn của bà con ruột thịt nơi đất
khách. Hoạt động từ thiện – xã hội của Phật giáo Việt Nam tại Lào hết sức đa
dạng, mặc dù các hoạt động đó diễn ra ở từng chùa Việt còn mang tính tự phát,
song đều xuất phát từ tinh thần san sẻ và góp phần xây dựng sự đoàn kết cộng
đồng người Việt. Qua đó cho thấy tính nhập thế, tinh thần dấn thân của tu sĩ Phật
giáo Việt Nam, đã hòa mình vào đời sống cộng đồng bà con người Việt ở Lào để
cảm nhận, để thấu hiểu được hoàn cảnh khó khăn nơi đất khách. Đồng thời, qua
hoạt động này đã góp phần quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng người Việt
nơi xa xứ và tạo thiện cảm đối với người dân bản xứ.
2.2.3. Hoạt động kinh tế - văn hóa
Việc lập ra phòng phát hành văn hóa phẩm Phật giáo để vừa tạo ra nguồn
tài chính cho sinh hoạt nhà chùa, vừa làm kênh phổ biến vật phẩm văn hóa Phật
giáo đến quần chúng như: kinh sách, tượng thờ, trang phục, pháp khí,… Đây là sự
sáng tạo của Phật giáo người Việt ở Lào, thích ứng với hoàn cảnh xã hội thực tại,
xây dựng mô hình “kinh tế nhà chùa” trong không gian văn hóa thuần quan niệm
của người dân rằng nhà sư phải xa rời các hoạt động về kinh tế, thậm chí không
được tự giữ tài chính. Tu sĩ Phật giáo Việt Nam ở Lào, không chỉ biết tụng kinh,
gõ mõ mà còn tích cực góp phần chăm lo đời sống văn hóa cho cộng đồng. Vào
các dịp lễ lớn trong năm, sân chùa là không gian văn hóa lễ hội của cộng đồng với
các chương trình văn nghệ giao lưu văn hóa Việt – Lào.


15
2.2.4. Tinh thần đạo hiếu, phóng sanh và ăn chay
Phật giáo của người Việt ở Lào không đề cao những triết lý cao siêu, xa

rời cuộc sống. Mà luôn nhập thế, hòa mình vào cuộc sống đời thường của người
dân, khuyên dạy tín đồ hiếu kính ông bà, cha mẹ, ăn chay, phóng sanh tu phước,
xây dựng nền tảng đạo đức cho bản thân và cộng đồng. Có thể nói, ăn chay đã trở
thành đặc trưng văn hóa của cộng đồng Phật tử người Việt ở Lào trong không gian
văn hóa Phật giáo Nam tông Lào.
2.3. Tính dân gian và thực tiễn
2.3.1. Thể hiện qua phương pháp tu tập và kinh tụng hàng ngày
Cộng đồng người Việt ở Lào phần lớn có trình độ học vấn thấp và chủ
yếu là lao động chân tay. Do đó, trong đời sống tôn giáo, họ thường chọn cho
mình những phương pháp tu tập đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hành. Đối với những
bản kinh mà họ chọn tụng chủ yếu là những bản kinh cầu an, cầu siêu, phù hợp
với cuộc sống đời thường.
2.3.2. Thể hiện qua các khóa tu học giáo lý
Với điều kiện cuộc sống bộn bề mưu sinh, nên tư tưởng về nhân quả ăn
hiền ở lành, gieo gió ắt gặp bão, đơn giản, dễ hiểu đó rất phù hợp và đã ảnh hưởng
sâu đến lối sống của người dân Việt tại Lào. Quan tâm học hỏi triết học trong Tam
Tạng giáo điển có phần hạn chế và đôi khi cho đó là việc của giới tu sĩ.
2.3.3. Thể hiện qua nhân lực và cơ sở tôn giáo
Từ khi có ngôi chùa Việt đầu tiên ở Lào đến nay, cho thấy Phật giáo của
người Việt ở đây mang tính dân gian rõ nét. Trước tiên, quá trình du nhập Phật
giáo Bắc tông Việt Nam sang Lào thiếu sự chính thống từ tổ chức Phật giáo trong
nước. Tăng Ni sang hoằng pháp ở xứ Lào đều mang tính tự phát. Du nhập và tồn
tại luôn trong tình trạng thiếu một tổ chức giáo hội chung thống nhất trên cả nước.
Sự ra đời của ngôi chùa Việt ở Lào hết sức đa dạng, nó không mang tính chùa
làng như Phật giáo Bắc bộ và cũng không có dạng “cải gia vi tự” như Phật giáo
Nam bộ, mà nó vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng.
2.3.4. Thể hiện qua pháp phục - ẩm thực
Để phù hợp với môi trường văn hóa Phật giáo Nam tông Lào, pháp phục
của chư Tăng Phật giáo người Việt ở Lào đơn giản hơn nhiều so với tu sĩ trong
nước và chủ yếu là màu vàng, còn chư Ni là màu lam hoặc màu trắng.

Mặc dù ăn chay nhưng tu sĩ Phật giáo người Việt ở Lào cũng thọ trai hai bữa
chính là bữa sáng và trưa, không ăn vào bữa chiều giống như Phật giáo Nam tông
Lào. Qua khảo sát thực tế ở Lào cho thấy, ăn chay không chỉ diễn ra đối với tu sĩ
mà còn có bà con người Việt, đặc biệt là cộng đồng Phật tử theo truyền thống Phật
giáo Bắc tông Việt Nam.
Tiểu kết
Khi nghiên cứu về văn hóa Phật giáo của người Việt ở Lào, nhận thấy
rằng hoàn toàn phù hợp với quan điểm của lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa.


16
Theo đó, những đặc tính văn hóa mới được nảy sinh khi hai hoặc các cộng đồng
tiếp xúc trực diện và liên tục, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính riêng biệt của
mình dựa trên yếu tố “nội sinh” để lựa chọn tiếp nhận yếu tố “ngoại sinh”, từng
bước làm giàu, phát triển văn hóa dân tộc. Với điều kiện văn hóa – xã hội đặc thù
ở xứ Lào, Phật giáo Bắc tông Việt Nam khi du nhập đến Lào đã tạo nên những
đặc điểm riêng trên cơ sở linh hoạt kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống
của Phật giáo Bắc tông Việt Nam và tiếp thu yếu tố văn hóa bản địa của Phật giáo
Nam tông Lào. Ở hầu hết các đặc trưng văn hóa Phật giáo Bắc tông của người
Việt ở Lào như tính đa dạng và dung hợp; tính nhập thế; tính dân gian và thực
tiễn, được thể hiện qua sự chọn lựa hệ phái, tông phái, kinh sách, giáo lý, kiến
trúc, bài trí tượng thờ. Mỗi một ngôi chùa, một kiến trúc, một pho tượng,… đều
có dấu ấn của yếu tố văn hóa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Lào. Đồng thời,
Phật giáo Việt Nam tại Lào còn cho thấy sự dung hợp đặc trưng văn hóa Phật giáo
ở mỗi vùng miền từ Việt Nam và các hình thức tín ngưỡng dân gian, bản địa,
nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh đa dạng của người dân Việt ở Lào.
CHƯƠNG 3
VAI TRÒ PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI VIỆT Ở LÀO
3.1. Một số nét tiêu biểu trong sinh hoạt Phật giáo

3.1.1. An cư Kiết hạ
Vào ba tháng An cư Kiết hạ của tu sĩ Phật giáo, nhằm đáp ứng nhu cầu
đời sông tâm linh, tôn giáo của người Việt tại Lào, các chùa Việt đều tổ chức khóa
tu khuyến tấn bà con người Việt nói chung, cộng đồng Phật tử nói riêng lên chùa
tụng kinh, lễ Phật, tích phúc và nếu đến thời gian vào hạ của Phật giáo Lào thì họ
cũng tâm niệm An cư, cố gắng giữ gìn Ngũ giới và thực hành những điều kiêng
kỵ theo phong tục Lào trong thời gian ba tháng. Qua đó, để tích được nhiều phúc
đức hơn, biết chấp nhận khó khăn trong cuộc sống để cảm thấy cuộc sống có ý
nghĩa hơn và biết chia sẻ, giúp đỡ những người xung quanh.
3.1.2. Khóa tu Bát Quan Trai Giới và khóa tu niệm Phật
Ở mỗi kỳ khóa tu Bát Quan Trai hay khóa tu niệm Phật tại chùa Việt ở
Lào đều có thuyết pháp hoặc giảng dạy giáo lý. Qua đó, nhằm giáo dục mọi người
hiểu biết hơn về đạo Phật, xây dựng niềm tin vững chắc vào tôn giáo mà bản thân
đã chọn, tu tập đúng chánh pháp, tránh những hủ tục, mê tín, dị đoan. Đồng thời,
qua các thời pháp tại chùa, Phật tử không chỉ được học giáo lý mà còn được học
kiến thức về văn hóa, về sự tương đồng và khác biệt phong tục tập quán của hai
dân tộc Việt Nam và Lào nói chung, văn hóa Phật giáo Nam tông Lào và văn hóa
Phật giáo Bắc tông Việt Nam nói riêng. Qua đó, mọi người không chỉ kính tin
Tam Bảo mà còn phải biết gìn giữ truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời có ý
thức tôn trọng tục lệ của người dân bản xứ, để thuận lợi trong quá trình hòa nhập


17
vào đời sống văn hóa – xã hội của họ.
3.1.3. Gia đình Phật tử
Việc tổ chức sinh hoạt Gia đình Phật tử hay câu lạc bộ thanh thiếu niên
Phật tử của chùa Việt ở Lào nhằm mục đích xây dựng, định hướng đời sống tâm
linh, tôn giáo đối với tầng lớp thanh thiếu niên người Việt ở Lào, đặc biệt là thế hệ
sinh ra và lớn lên ở Lào, thông qua một số hoạt động nổi bật như học hỏi giáo lý
cơ bản về đạo Phật, tụng kinh, lễ Phật và tọa thiền. Đồng thời, đây cũng là kênh

để các chùa Việt ở Lào để quảng bá văn hóa Phật giáo Việt Nam và hướng thế hệ
thanh thiếu niên người Việt sinh ra và lớn lên ở Lào về cội nguồn dân tộc.
3.1.4. Ban hộ tự
Mặc dù có những vướng mắc trong cách điều hành, song việc tồn tại Ban
hộ tự từ buổi đầu lập chùa cho đến hiện nay cho thấy chức năng quan trọng của
mình trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Việt ở Lào, là giữ gìn và phát
triển cơ sở vật chất ngôi chùa để làm nơi đi về phục vụ đời sống tâm linh cho bà
con nơi xa xứ; cố kết, đoàn kết cộng đồng Phật tử nói riêng và cộng đồng người
Việt ở mỗi địa phương Lào nói chung; chia sẻ, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn
bà con ruột thịt nơi đất khách.
3.1.5. Ban hộ niệm
Sự ra đời của Ban hộ niệm tại các chùa Việt ở Lào là sự ứng phó trong
hoàn cảnh chùa không có tu sĩ thường trú, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, tụng
kinh cầu siêu khi có người mất. Qua thời gian, sự tồn tại của Ban hộ niệm trong
đời sống tinh thần của bà con người Việt ở Lào đã trở thành yếu tố không thể
thiếu trong việc giúp đỡ, chia sẻ về mặt tinh thần trong hoàn cảnh sinh ly tử biệt
nơi đất khách. Không những thế, Ban hộ niệm như là gạch nối giữa chùa với
người dân để góp phần kết nối mọi người trong cộng đồng.
3.2. Nghi lễ vòng đời của người Việt ở Lào
3.2.1. Một số quan niệm và kiêng kỵ trong thời gian mang thai
Có thể nói, tư tưởng nhân sinh của Phật giáo đã góp phần làm thay đổi
nhiều quan niệm, hủ tục kiêng khem của thai phụ người Việt ở Lào trong sinh
hoạt hàng ngày ở gia đình cũng như quan hệ xã hội so với người Việt trong nước.
Nếu họ có thực hiện một số kiêng kỵ thì đó cũng là sự tự nguyện để tốt cho bản
thân và thai nhi hơn là mang tính bắt buộc. Mặt khác, tư tưởng nhân quả của Phật
giáo làm thiện được thiện, làm ác gặp ác đã tác động, ảnh hưởng đến lối sống của
người Việt ở Lào, góp phần an ủi tinh thần cho thai phụ trong thời gian mang thai,
tránh được những tục lệ không phù hợp văn hóa dân tộc, không đem lại lợi ích
cho bản thân thai phụ và thai nhi.
3.2.2. Lễ đầy tháng và lễ thôi nôi

Vai trò của Phật giáo và nhà sư đối với lễ đầy tháng và lễ thôi nôi của
người Việt ở Lào không được thể hiện rõ, song cũng cho thấy dấu ấn của Phật
giáo là niềm an ủi tinh thần trong thời gian những năm đầu đời của thành viên


18
mới trong gia đình. Trong điều kiện hiện nay, những người Việt ở Lào thuộc thế
hệ thứ nhất, thứ hai đang lần lượt qua đời, thì thế hệ thứ ba, thứ tư, vai trò của
Phật giáo, sự tin tưởng vào nhà sư (hơn là các thầy cúng với nhiều quan niệm, hủ
tục khác nhau của các vùng miền) đối với việc định hướng, hướng dẫn thực hành
lễ nghi cúng bái trước nhất là đáp ứng nhu cầu tâm linh và cúng như thế nào có
ích cho bản thân, gia đình, cũng như góp phần lưu giữ phong tục tập quán dân tộc,
để con cháu thế hệ sau này không bị mất gốc.
3.2.3. Lễ cưới
Việc một số chùa Việt tổ chức lễ Hằng Thuận cho Phật tử người Việt ở
Lào đã thể hiện rõ nét tính nhập thế của Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở Lào, việc
làm đó không chỉ khơi gợi tinh thần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc về cưới hỏi,
mà còn phát huy một cách hiệu quả nền tảng đạo đức tâm linh, định hướng tân
lang tân nương sống hữu ích trong đời sống gia đình và xã hội. Có thể nói, lễ
Hằng Thuận như là cầu nối giữa đạo và đời; là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa
truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc Việt Nam và giá trị tâm linh của Phật giáo.
3.2.4. Mừng thọ
Nhằm góp phần giáo dục đạo đức trong cộng đồng, đặc biệt đối với các
thế hệ con cháu về tinh thần hiếu kính các bậc ông bà, cha mẹ, chùa Việt ở Lào
đứng ra tổ chức lễ mừng thọ tập thể cho những người cao tuổi trong cộng đồng.
Có thể nói, buổi lễ, dù long trọng hay đơn giản, ngoài giá trị tâm linh đối với
những người được mừng thọ, được quan tâm, còn mang tính giáo dục nhân văn
cao về tinh thần trọng đạo hiếu của dân tộc Viêt Nam. Đồng thời, sự quy tụ đông
đảo mọi người với nhiều thế hệ người Việt lên chùa đã góp phần quan trọng cho
sự giao lưu, chia sẻ và gắn kết mọi người trong cộng đồng.

3.2.5. Lễ tang
Qua thực tế nghiên cứu cho thấy, lễ tang của người Việt ở Lào chịu sự tác
động, ảnh hưởng từ Phật giáo rõ nét. Tư tưởng vô thường, giải thoát của nhà Phật
đã chi phối mạnh mẽ đến quan niệm khi sống hay lúc chết của người Việt ở Lào,
đặc biệt là cộng đồng Phật tử. Từ việc xem ngày tốt ngày xấu cho đến thực hành
từng nghi lễ trong lễ tang đều có vai trò của nhà sư Phật giáo. Nhà sư không chỉ
trực tiếp thực hành các nghi thức đáp ứng nhu cầu tâm linh cầu siêu cho người
mất, mà còn an ủi tinh thần cho người sống hiện tại, thực hành đúng tập quán dân
tộc, tránh các hủ tục để cho kẻ còn người mất đều được lợi lạc.
3.3. Lễ hội Phật giáo của người Việt ở Lào
3.3.1. Lễ cầu an đầu năm
Đến với lễ hội, cộng đồng người Việt ở Lào mới có dịp thoả mãn đời sống
tâm linh, được thăng hoa từ đời sống hiện thực và hưởng thụ các giá trị đời sống
tâm linh. Lễ hội cầu ân đầu năm ở chùa Việt với những hình thức cúng tế, dâng lễ
vật, cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát,... đã làm cho Phật giáo ẩn chứa trong mình
vai trò văn hóa tâm linh đối với cộng đồng người Việt ở Lào.


19
Phật giáo Bắc tông của người Việt ở Lào và Phật giáo Nam tông của
người Lào tuy có sự một số khác biệt nhau trong sinh hoạt, ẩm thực, trang phục,
tụng niệm,… song cả hai đều dựa trên tam tạng kinh điển do Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni để lại. Cộng đồng Phật tử dù là người Lào bản địa hay người Việt ngụ cư
thì đều có đức tin tâm linh với Đức Phật. Với họ, hệ phái Phật giáo Bắc tông hay
Nam tông thì cũng đều thờ Phật giống nhau. Người Lào quan niệm rất đơn giản,
tín ngưỡng tôn giáo của ai thì người đó giữ, miễn sao biết ăn hiền ở lành và làm
trọn bổn phận của một tín đồ Phật giáo. Bên cạnh sự tương đồng về văn hóa Phật
giáo, bản tính người dân Lào cũng rất hiếu khách và hòa đồng với đời sống của
các cộng đồng ngoại kiều. Cho nên, vào những dịp lễ hội ở chùa Việt, người Lào
cũng nhiệt tình tham gia. Không ít trường hợp, người Lào đến chùa Việt không

chỉ tham gia phần hội mà còn cả phần lễ. Họ đến với lễ hội ở chùa Việt, gần gũi,
hòa mình giống như những Phật tử người Việt. Có lẽ, với đức tin cùng tôn giáo
nên cái khoảng cách của sự khác biệt dân tộc trong họ không còn nữa. Một số
người đến do có bạn bè người Việt rủ, một số khác do ở gần chùa Việt, tò mò mà
đến. Không chỉ có người dân Lào đến chùa Việt, mà còn có cả giới công chức, sư
sãi người Lào đến tham dự lễ hội ở chùa Việt.
3.3.2. Lễ Phật đản sinh
Qua nghi lễ của lễ Phật đản ở chùa Việt và từ quan điểm của thuyết giao
lưu và tiếp biến văn hóa cho thấy, yếu tố nội sinh (văn hóa Phật giáo Việt Nam)
không có hiện tượng bị yếu tố ngoại sinh (văn hóa Phật giáo Lào) lấn át hay đồng
hóa, mà quá trình giao lưu đó được diễn ra theo cơ chế chủ động tiếp nhận, bổ
sung, để làm giàu và phát triển văn hóa Phật giáo của người Việt ở Lào, qua đó,
nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, đời sống tôn giáo của cộng đồng người Việt ở
Lào. Đồng thời, minh định về quá trình giao lưu văn hóa, về khả năng thích ứng,
tiếp biến của Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở Lào luôn linh hoạt, không cứng nhắc
và nguyên tắc để phù hợp với điều kiện địa - văn hóa ở Lào.
3.3.3. Lễ hội Vu lan – Báo hiếu
Lễ hội Vu lan – Báo hiếu ở chùa Việt đã không còn ở phạm vi nhà chùa,
mà đã trở thành ngày hội văn hóa của cộng đồng. Bên cạnh chức năng giải quyết
hai vấn đề quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt ở Lào là niềm an
lạc cho người sống và niềm tin siêu thoát dành cho người quá cố, còn giáo dục
tinh thần tri ân và báo ân của người Việt. Ngoài ra, mỗi lần tham dự lễ hội ở chùa
Việt là mỗi lần cảm thấy gắn bó hơn với cộng đồng, với quê hương và nảy nở
lòng hy sinh, tính vị tha, củng cố lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, giữ gìn tục
thờ cúng tổ tiên của dân tộc.
3.3.4. Lễ Rằm tháng Mười
Đối với Phật giáo ở miền Nam và miền Trung Việt Nam, Rằm tháng
Mười là một trong bốn lễ lớn được tổ chức rầm rộ trong năm. Còn với Phật giáo ở
miền Bắc Việt Nam và Phật giáo của người Việt ở Lào thì chỉ xem Rằm tháng



20
Mười như là ngày Rằm của tháng bình thường.
Tiểu kết
Với tư cách là bộ phận không thể tách rời, cùng vận động xây dựng hệ
thống văn hóa cộng đồng người Việt ở Lào, sinh hoạt Phật giáo Bắc tông Việt
Nam ở Lào với chức năng là gạch nối giữa nhà chùa với đời sống tín ngưỡng của
cộng đồng Phật tử người Việt ở Lào, nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết
về Phật pháp, tin và thực hành đúng chánh pháp, đồng thời, xây dựng nòng cốt
ngoại hộ duy trì sự phát triển và đồng hành của Phật giáo Bắc tông Việt Nam
trong cộng đồng người Việt ở Lào. Cộng đồng người Việt ở Lào, mỗi người mỗi
việc, tất cả cho cuộc mưu sinh nơi xứ người nên rất ít có dịp gặp nhau giao lưu,
chia sẻ vui buồn trong cuộc sống, cho nên, chỉ khi có những khóa tu, sinh hoạt
Phật giáo mới thu hút được cộng đồng đến với nhau và đây cũng chính là dịp để
chư Tăng Ni chia sẻ, nhắc nhở với những người con đất Việt ở xa quê hương về
tình yêu quê hương, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trong hệ thống nghi lễ vòng đời của người Việt ở Lào, nếu như nghi lễ
đầy tháng, thôi nôi, lễ cưới và mừng thọ cho thấy có phần mai một và vai trò mờ
nhạt của Phật giáo, thì nghi lễ tang ma còn được bảo lưu nhiều giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc, đồng thời vai trò Phật giáo cũng được thể hiện rõ nét nhất,
sự hiện diện của chư Tăng Ni, vừa với vai trò tâm linh tiếp độ cho người mất, vừa
là người hướng dẫn thực hiện phong tục tập quán dân tộc đối với người hiện tại.
Qua những ngày lễ hội được tổ chức ở chùa là dịp để người dân Việt xa
xứ ở Lào gửi gắm niềm tin tâm linh vào các đấng uy quyền, thiêng liêng phù hộ
cho cuộc sống được bình yên, tai qua nạn khỏi và những người quá cố sớm được
siêu thoát. Mỗi khi được đi đến chùa vào dịp lễ hội là mỗi lần được sống lại, được
hòa mình trong không khí văn hóa lễ hội của dân tộc. Nếu như sau ngày hội các
cụ già càng cảm thấy mình được củng cố thêm đức hy sinh, lòng vị tha và tích
thêm phúc đức, thì nhóm thanh niên con cháu lại thấy mình được lớn hơn, được
trưởng thành hơn trong ý chí và trong tâm hồn. Do vậy, lễ hội là cơ hội tốt để mọi

người gắn kết, xây dựng tình cảm với nhau trong cộng đồng và phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc.
KẾT LUẬN
Người Việt có mặt ở đất nước Lào từ rất sớm, có cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Song nhận thấy rằng, thời kỳ nào cũng có người Việt di cư
sang Lào, ban đầu định cư ở những vùng giáp biên giới giữa hai nước, để chờ thời
cơ quay trở lại quê hương, nhưng về sau, họ quyết định xem Lào là quê hương thứ
hai của mình, nên đã tiến sâu vào những trung tâm, đô thị lớn của Lào để sinh
sống. Cộng đồng người Việt ở Lào đã trải qua nhiều thời kỳ gian khổ, với nhiều
thân phận khác nhau, đặc biệt dưới thời kỳ thuộc Pháp, số lượng người Việt ở Lào


21
tăng lên đáng kể và cũng có nhiều biến động nhất. Mặc dù, bị tác động trực tiếp
bởi tình hình chính trị của Lào, song người Việt ở Lào không bị kỳ thị như ở Thái
Lan và Campuchia, mà ngược lại họ còn nhận được sự yêu mến và giúp đỡ từ
phía người dân Lào.
Cho đến nay, người Việt ở Lào là cộng đồng ngoại kiều đông nhất, có lịch
sử cư trú lâu đời nhất và phân bố rộng khắp trên lãnh thổ đất nước Lào. Không
giống với các cộng đồng ngoại kiều khác, nhất là Hoa kiều, người Việt ở Lào
không sống tập trung thành cộng đồng riêng biệt, mà sống xen kẽ, hòa mình cùng
với người dân bản xứ Lào từ các vùng nông thôn cho đến trung tâm thành phố lớn
của Lào. Môi trường sống đó đã tạo nên tính cách cởi mở, linh hoạt trong ứng xử
văn hóa và năng động trong ứng xử xã hội của người Việt ở Lào.
Phật giáo Bắc tông Việt Nam du nhập vào Lào khá muộn so với lịch sử di
cư và hình thành cộng đồng người Việt ở Lào. Mãi đến đầu thế thế kỷ XX, mới có
ngôi chùa Việt ở Lào, đánh dấu sự có mặt của Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở
Lào, nơi mà Phật giáo Nam tông đang là quốc giáo. Cho đến nay tròn một thế kỷ
du nhập và phát triển, Phật giáo của người Việt ở Lào có lúc thịnh lúc suy, song
vẫn luôn cho thấy dân tộc tính của mình, luôn đồng hành cùng cộng đồng người

Việt ở Lào. Hiện nay, trên ba miền nước Lào ở những nơi có người Việt định cư
đông thì ở đó có ngôi chùa Việt. Sự ra đời của mỗi ngôi chùa là sự phản chiếu
hiện thực đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Việt tại mỗi địa
phương Lào.
Cho đến nay, Phật giáo của người Việt ở Lào còn đang trong giai đoạn
định hình, song trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hóa Phật giáo Bắc tông Việt
Nam và tiếp thu các giá trị văn hóa Phật giáo Nam tông Lào, đã hình thành nên
nét riêng của mình nơi đất khách, đó là tính đa dạng và dung hợp, tính nhập thế,
tính dân gian và thực tiễn, phù hợp với đức tin tâm linh và điều kiện sống của
người Việt ở Lào.
Từ các lý thuyết nghiên cứu và từ góc độ văn hóa học cho thấy, mỗi lĩnh
vực như kinh sách, giáo lý, kiến trúc, bài trí tượng thờ,… đều có chức năng riêng,
đóng góp cho sự vận hành của tổng thể văn hóa Phật giáo Việt Nam ở Lào. Và
chúng đều cho thấy sự giao lưu và tiếp biến văn hóa dựa trên hai yếu tố “nội sinh”
với vai trò như “màng lọc” để tiếp nhận yếu tố “ngoại sinh”, để làm giàu và phát
triển văn hóa Phật giáo Việt Nam. Tính đa dạng, dung hợp và thực tiễn của Phật
giáo người Việt ở Lào đều có dấu ấn của yếu tố văn hóa Phật giáo Việt Nam và
văn hóa Phật giáo Lào. Để phù hợp với môi trường văn hóa Lào và đáp ứng nhu
cầu tâm linh của tín đồ, Phật giáo của người Việt ở Lào đã chủ động, sẵn sàng tiếp
nhận các đặc trưng văn hóa Phật giáo Lào. Phật giáo của người Việt ở Lào linh
hoạt, không cứng nhắc, không nguyên tắc về quá trình giao lưu và tiếp biến văn
hóa này. Mặt khác, tùy vào địa – văn hóa mà mức độ giao lưu và chịu ảnh hưởng
văn hóa Phật giáo Nam tông Lào thể hiện đậm nhạt khác nhau. Phật giáo của


22
người Việt ở miền Bắc Lào chịu tác động văn hóa Phật giáo Lào đậm nhất, rồi
nhạt dần đến miền Trung và miền Nam Lào. Lẽ dĩ nhiên, nơi nào ít chịu ảnh
hưởng Phật giáo Nam tông Lào thì nơi đó Phật giáo Bắc tông Việt Nam phát triển
mạnh và mức độ bảo lưu nhiều đặc trưng văn hóa Phật giáo trong nước. Khả năng

thích ứng, tiếp biến của Phật giáo người Việt ở Lào để làm đa dạng, phong phú
hơn, nhằm đáp ứng đời sống văn hóa tâm linh cho cộng đồng người Việt lẫn
người Lào tại mỗi địa phương, chứ những đặc trưng văn hóa Phật giáo Bắc tông
Việt Nam hoàn toàn không bị lấn át đến biến mất trước văn hóa Phật giáo Nam
tông Lào.
Tinh thần nhập thế là đặc điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam ở Lào.
Trong giai đoạn nào, Tăng Ni và Phật tử Việt Nam tại Lào cũng đều nêu cao tinh
thần vì dân tộc, vì đạo pháp. Người đệ tử Phật xuất gia chứ không xuất thế, bởi lẽ
“Phật pháp bất ly thế gian giác”, luôn xem việc hộ quốc, an dân là một phần trách
nhiệm của mỗi tu sĩ. Lịch sử cho thấy nhiều Tăng Ni, Phật tử người Việt ở Lào đã
tích cực trong các hoạt động đóng góp cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất
nước, không chỉ Việt Nam mà có cả Lào. Mỗi Tăng Ni, Phật tử người người Việt
ở Lào đóng vai trò cầu nối, vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai
nhà nước, hai dân tộc Việt Nam – Lào, trong đó có hai Giáo hội Phật giáo Việt
Nam và Giáo hội Liên minh Phật giáo Lào. Mặt khác, thông qua các hoạt động xã
hội, cứu khổ ban vui của mình, Phật giáo của người Việt ở Lào như là chất keo
gắn kết, xây dựng sự đoàn kết mọi người trong cộng đồng, phát huy tinh thần biết
chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống mưu sinh nơi đất khách. Đồng thời, tạo
được hình ảnh thân thiện, sự trân quý về con người Việt Nam, Phật giáo Việt Nam
trong ánh mắt, trong lòng của người dân Lào.
Lý thuyết chức năng chỉ ra rằng, mỗi một hiện tượng, thành tố văn hóa
được thể hiện đều đóng góp cho sự cấu thành, vận hành của hệ thống, theo đó, các
khóa tu, các buổi thuyết pháp tại chùa Việt đóng vai trò quan trọng để chư Tăng
Ni chia sẻ, nhắc nhở Phật tử về tình yêu quê hương, đất nước, giữ gìn và phát huy
thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa dân tộc trong đời sống của người Việt
ở Lào. Đồng thời, qua đó nâng cao sự hiểu biết về giáo lý của Phật đà, tin và thực
hành đúng chánh pháp, tránh những hủ tục không phù hợp với xã hội hiện đại và
xây dựng lực lượng hộ trì cho sự phát triển Phật pháp để có thể đồng hành cùng
cộng đồng người Việt ở Lào.
Trong hệ thống nghi lễ vòng đời của người Việt ở Lào thì lễ tang còn giữ

được nhiều đặc trưng nghi lễ của dân tộc, song đơn giản hơn so với bà con người
Việt trong nước, đồng thời, cũng cho thấy vai trò của Phật giáo rõ nét nhất. Các tu
sĩ, vừa với vai trò tâm linh tiếp độ cho người mất, vừa là người hướng dẫn thực
hiện tập quán dân tộc đối với người hiện tại. Điều này không chỉ là đáp ứng nhu
cầu tâm linh cầu an, cầu siêu, mà còn đóng vai trò quan trọng cho việc gìn giữ bản
sắc văn hóa dân tộc thờ cúng tổ tiên đối với cộng đồng người Việt sinh sống ở


23
Lào. Từ thuyết vùng văn hóa và qua nghiên cứu thực địa cho thấy tính vùng miền
đối với tập quán nghi lễ tang ma của người Việt ở Lào, tiêu biểu như hình thức
“bó chặt chôn sâu”, không cải táng là hình thức an táng chung nhất cho cộng đồng
người Việt ở Lào. Trên cơ sở tương đồng và chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo,
nhiều người Việt ở Lào, đặc biệt là cộng đồng Phật tử và những gia đình có hôn
nhân với người Lào đã thực hành một số tập tục như gửi tro cốt, linh ảnh, danh
tánh vào chùa thờ cúng, dâng y cúng dường chư Tăng hay đi tu gieo duyên để tích
thêm phúc đức cho người mất và an lòng đối với người hiện tại. Có thể nói, đây là
thái độ chủ động, khả năng thích ứng, tiếp nhận văn hóa bản xứ của cộng đồng
người Việt ở Lào. Dù chủ động hay khách quan trong giao lưu văn hóa với cư dân
bản xứ thì văn hóa nghi lễ vòng đời của người Việt ở Lào không bị biến đổi mà
chỉ thay đổi, tiếp nhận một số đặc trưng văn hóa của người Lào để phù hợp với
môi trường văn hóa - xã hội mới. Trong quá trình giao lưu đó, yếu tố văn hóa Phật
giáo đóng vai trò chủ đạo, tác động đến hành vi và quan niệm sống của người Việt
ở đây, không chỉ đối với việc bảo tồn văn hóa dân tộc, hướng mọi người về với
cội nguồn, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt ở Lào hòa
nhập môi trường văn hóa - xã hội của người dân Lào.
Với tư cách là tụ điểm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, những lễ hội lớn
trong năm bắt nguồn từ Phật giáo như lễ Phật đản sinh, lễ Vu lan – Báo hiếu,… đã
trở thành những ngày hội văn hóa của cộng đồng người Việt tại mỗi địa phương
Lào. Đến với lễ hội là dịp để mỗi người Việt ở Lào gửi gắm niềm tin tâm linh cầu

an, cầu siêu vào chư Phật, chư vị Thần linh phù hộ cho cuộc sống được bình yên,
tai qua nạn khỏi, nhân khang vật thịnh. Với vai trò tâm linh đó, không gian văn
hóa chùa Việt vào những ngày lễ hội luôn thu hút mọi người, mọi giới trong trong
cộng đồng tham gia. Mỗi lần tham dự lễ hội là một lần cảm thấy gắn bó hơn với
cộng đồng, với dân tộc, với quê hương. Mỗi một lễ hội có đặc trưng và ý nghĩa
riêng, song tự thân những ngày lễ hội diễn ra ở chùa Việt là chất keo kết dính sự
đoàn kết cộng đồng, nâng cao tình yêu thương đồng loại, nảy nở lòng hy sinh,
tính vị tha, củng cố lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Ảnh hưởng đó ngày càng
phát triển và ngày càng có nhiều người không phải là Phật tử đến chùa, nhất là
cuộc sống tha phương đối với người Việt mới sang Lào.
Kiểm chứng lại các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu ban đầu, chúng tôi
thấy rằng, trong điều kiện văn hóa – xã hội Lào, Phật giáo của người Việt ở Lào
đang định hình đặc trưng riêng của mình trong sự giao lưu và tiếp biến với văn
hóa Phật giáo Nam tông Lào, tiếp nhận để làm đa dạng và phong phú văn hóa
Phật giáo Bắc tông Việt Nam ở Lào. Với tư cách là một thành tố văn hóa trong hệ
thống văn hóa Việt Nam, Phật giáo Bắc tông đã có những ảnh hưởng, tác động
đáng kể trên nhiều lĩnh vực đời sống văn hóa của người Việt ở Lào, dấu ấn đậm
nét nhất của Phật giáo đó là vai trò xã hội thông qua các hoạt động thiện nguyện
và vai trò tâm linh đối với nghi lễ vòng đời và lễ hội. Đặc trưng văn hóa Phật giáo


×