Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

ĐỜI SỐNG tín NGƯỠNG của NGƯỜI VIỆT ở QUẢNG NAM (nghiên cứu trường hợp tại TP hội an)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.16 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

LÊ THU HUYỀN

ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở
QUẢNG NAM
(Nghiên cứu trường hợp tại TP. Hội An)

Chuyên ngành: DÂN TỘC HỌC
Mã số: 62.31.03.10

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ DÂN TỘC HỌC

Người hướng dẫn khoa học
1. GS.TS. Ngô Văn Lệ
2. TS. Trương Thị Thu Hằng

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019


Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học
1. GS.TS. Ngô Văn Lệ
2. TS. Trương Thị Thu Hằng


Phản biện độc lập 1:
Phản biện độc lập 2:
Phản biện 1:……………………..
Phản biện 2:……………………..
Phản biện 3:……………………..
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cơ sở đào tạo
họp tại:……………………………………………………….
………………………………………………………………………………..
vào hồi……. giờ……. ngày….. tháng…. năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
- Thư viện Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
I. Tạp chí khoa học
1. Lê Thu Huyền.(2014). Các yếu tố tác động đến đời sống nữ tu sĩ
Phật giáo tại Quảng Nam, Đà Nẵng từ năm 1990 đến nay.Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 8/2014.
2. Lê Thu Huyền.(2016). Đặc điểm các loại hình tín ngưỡng của
người Việt ở Quảng Nam dưới góc nhìn lý thuyết Đặc thù lịch sử
và Sinh thái văn hóa.Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội, số
5/2016.
3. Lê Thu Huyền.(2017). Thực hành tôn giáo, tín ngưỡng của người
Việt tại Quảng Nam hiện nay. Tạp chí Sinh hoạt lý luận, Học viện
Chính trị III, số 1/2017.
4. Lê Thu Huyền.(2017). Cơ sở thờ tự và những giá trị văn hóa trong
tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp của người Việt (Nghiên

cứu trường hợp tại Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam). Tạp chí
Khoa học Xã hội miền Trung, số 6/2017.
5. Lê Thu Huyền.(2017). Các loại hình tín ngưỡng liên quan đến
nghề nghiệp của người Việt ở Quảng Nam và giá trị của nó trong
đời sống hiện nay. Tạp chí Phát triển khoa học & Công nghệ
(ĐHQG TP. HCM), tập 20, số X1-2017.
6. Lê Thu Huyền.(2018). Đặc điểm tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt ở Quảng Nam trong tương quan so sánh với tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt ở miền Trung. Tạp chí Khoa học & Sáng tạo –
Sở KHCN Quảng Nam, 08/2018.
II. Kỷ yếu hội thảo
1. Lê Thu Huyền.(2015). Tác động của du lịch đối với đời sống tín
ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong bối cảnh toàn cầu
hóa (Nghiên cứu so sánh khu đô thị cổ Hội An, Quảng Nam và
làng Ban Prasat tỉnh Nakhon Ratchasima, Thái Lan). Kỷ yếu Hội
thảo Khoa học Việt Nam và Đông Nam Á trong bối cảnh toàn cầu
hóa(đã được xuất bản sách). Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Lê Thu Huyền.(2016). Đời sống tín ngưỡng của người Việt ở
Quảng Nam: truyền thống và biến đổi. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế
Việt Nam học lần thứ V.
3. Lê Thu Huyền.(2018). Tìm hiểu các yếu tố tác động đến thực
hành tín ngưỡng và vai trò của tín ngưỡng trong đời sống ngư
dân ven biển. Kỷ yếu Hội thảo khoa học ngôn ngữ và văn học
Quảng Nam, Trường ĐH Quảng Nam, tháng 4/2018.


1

DẪN LUẬN

1. Lý do thực hiện đề tài
Đối với mảnh đất Quảng Nam, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong việc định hình đặc
trưng văn hóa của vùng đất này. Tín ngưỡng đã góp phần không nhỏ để tạo ra những nét riêng
biệt, đặc trưng khi đánh giá về đặc trưng văn hóa xứ Quảng. Tín ngưỡng của người Việt ở Quảng
Nam được hình thành dựa trên sự kết tinh của nhiều tầng văn hóa từ nhiều tộc người khác nhau.
Chính điều đó đã tạo ra cho mảnh đất này những giá trị văn hóa đặc trưng. “Những cư dân có
mặt trên đất Quảng Nam ngày nay và trước đây vừa là những cư dân có mặt từ rất sớm trong lịch
sử phát triển của vùng đất (người Chăm và có thể là các dân tộc miền núi Cơ - tu, Xơ - đăng, Giẻ
-Triêng, Co…) vừa là những cư dân từ nơi khác chuyển đến vào những thời điểm lịch sử khác
nhau là người Việt, người Hoa…”(Sở văn hóa Thông tin Quảng Nam, 2004, tr.23). Chính bởi do
sự đa dạng trong thành phần tộc người đã làm cho bản sắc văn hóa Quảng Nam rất phong phú và
nhiều nét độc đáo. Trong đó, tộc người chủ thể - tộc người Việt đã biết giữ những nét văn hóa
riêng trong quá trình Nam tiến vào mảnh đất này đồng thời họ cũng khéo léo tiếp nhận những nét
văn hóa từ các tộc người bản địa, tộc người cùng sinh sống tại mảnh đất xứ Quảng để tạo ra
những giá trị văn hóa đặc trưng cho tộc người Việt tại Quảng Nam.
Hội An là một vùng đất tích tụ những dấu ấn văn hóa đặc trưng trong dòng chảy văn hóa xứ
Quảng. Lịch sử phát triển tộc người ở Hội An là một quá trình xuyên suốt qua 3 thời kỳ Tiền Sơ
sử - Chămpa – Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam diễn ra từ trên 3000 năm cho đến nay (Trung tâm
quản lý bảo tồn di tích Hội An, 2008a, tr.6). Nổi lên của quá trình này là sự tiếp nối liên tục giữa
các lớp cư dân, là sự cộng cư giữa nhiều thành phần dân tộc. Trải qua quá trình này, các hình thái
văn hóa, sinh hoạt tín ngưỡng đã được định hình để tạo nên những sắc thái văn hóa mang tính
độc đáo, có riêng của địa phương được bảo lưu bền vững cho đến hôm nay.
Nghiên cứu đời sống tín ngưỡng người Việt – tộc người chủ thể tại Quảng Nam (điểm nghiên
cứu là Hội An) không chỉ làm rõ được bức tranh tín ngưỡng đa dạng nơi đây từ lịch sử hình
thành, phát triển và những biến đổi hiện nay, mà còn thấy được sự thích nghi của các loại hình
tín ngưỡng trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi bởi những tác động của quá trình toàn cầu
hóa. Chính những tìm hiểu này, sẽ đóng góp một phần vào công tác quản lý của nhà nước đối với
hoạt động tín ngưỡng ở Quảng Nam hiện nay.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đời sống tín ngưỡng ở Quảng Nam là một đề tài tương đối rộng,
nguồn tài liệu tản mạn. Các nghiên cứu đi trước chủ yếu dừng lại ở chỗ miêu tả một số loại hình

tín ngưỡng của cư dân Việt chứ chưa gắn với việc khái quát hóa bức tranh đời sống tín ngưỡng
nói chung. Hơn nữa, khi đi sâu nghiên cứu sẽ có nhiều vấn đề nhạy cảm, khó đánh giá bởi vì liên
quan đến thực hiện chính sách tôn giáo tín ngưỡng và sự hội nhập toàn cầu hóa tôn giáo đã và
đang diễn ra còn tồn tại một số vấn đề liên quan đến chính trị, an ninh.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn “Đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam”
(Nghiên cứu trường hợp tại TP. Hội An) làm đề tài luận án Tiến sĩ Dân tộc học. Thực hiện
nghiên cứu luận án này góp phần khái quát rõ hơn các loại hình tín ngưỡng của người Việt tại
Quảng Nam; đồng thời nhằm chỉ ra những nguyên nhân thực hành tín ngưỡng và những biến đổi
trong đời sống tín ngưỡng; qua đó góp phần khẳng định được vai trò của tín ngưỡng người Việt
trong đời sống văn hóa Quảng Nam.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nhận diện đời sống tín ngưỡng của cư dân Việt trong quá trình phát triển của tộc người; từ
đó, làm rõ những đặc điểm tín ngưỡng của người Việt trong quá trình tạo ra giá trị bản sắc tộc
người ở Quảng Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu về tín ngưỡng và đời sống tín ngưỡng;
- Khảo sát, tìm hiểu những hiểu nguyên nhân thực hành tín ngưỡng người Việt ở Quảng
Nam và làm rõ những biến đổi trong sinh hoạt của các loại hình tín ngưỡng của người Việt;


2

- Phân tích những ảnh hưởng của tín ngưỡng người Việt đối với văn hóa Quảng Nam.
3. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu các hình thái tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam, theo chúng tôi sẽ có tác
dụng và ý nghĩa đối với thực tiễn và học thuật. Để có cơ sở kế thừa và phát huy các thành tựu về
lý luận và thực tiễn, chúng tôi tiến hành tập hợp, nghiên cứu các công trình, bài viết của những
người đi trước có liên quan đến đề tài. Chúng tôi chia các tài liệu ra thành những nội dung như
sau:

Nội dung 1: Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng nói chung
* Tác phẩm chung về khái niệm tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
* Tác phẩm lý thuyết nghiên cứu tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
* Tác phẩm nghiên cứu các biểu hiện của tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
* Tác phẩm nghiên cứu về biến đổi, cách tân tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng (trong du
lịch, đô thị hóa)
Những công trình khoa học thuộc những chủ đề nêu trên là nguồn tư liệu quan trọng mà
chúng tôi có thể sử dụng để tham khảo trong nội dung chương 01 của luận án khi làm rõ các vấn
đề liên quan đến cơ sở lý luận. Ngoài ra, một số công trình, bài viết khoa học còn có giá trị tham
khảo để so sánh khi đánh giá đặc điểm các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam so
với tín ngưỡng của người Việt ở địa phương khác.
Nội dung 02: Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa của người Việt
Những công trình, bài viết nghiên cứu trong nội dung 02 là cơ sở lý thuyết quan trọng cho
chúng tôi chọn lọc, kế thừa, tham khảo để phân tích, làm rõ nhiều nội dung trong chương 02 của
luận án.
Nội dung 03: Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng của người
Việt ở Quảng Nam
Quảng Nam là vùng đất có bề dày lịch sử khá lâu đời. Bởi vậy, nghiên cứu về lịch sử, văn
hóa và trong đó có một số nghiên cứu về loại hình tín ngưỡng đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Qua những phân tích nguồn tư liệu nghiên cứu về lý thuyết sử dụng trong luận án của
học giả quốc tế và trong nước; lý thuyết về văn hóa, tín ngưỡng nói chung và đặc điểm một số
loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam chúng tôi nhận thấy đó là cơ sở khoa học tin
cậy đảm bảo việc thực hiện luận án. Cùng với nguồn tư liệu có được thông qua điền dã dân tộc
học, chúng tôi có cơ sở lý luận và thực hiện để thực hiện luận án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam, do đó đối tượng
nghiên cứu là các loại hình tín ngưỡng của người Việt. Vấn đề nghiên cứu của đề tài là những
hoạt động trong đời sống tín ngưỡng của cư dân Việt ở Quảng Nam như đức tin, thờ phụng, tổ
chức, nghi lễ…

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung: Nghiên cứu đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam, về mặt
nội dung luận án chúng tôi sẽ thực hiện dựa trên đặc điểm chung và riêng của các loại hình tín
ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam chia các loại hình tín ngưỡng thành 02 loại hình chính sau:
Thứ nhất, là các loại hình tín ngưỡng cộng đồng. Trong đó, chúng tôi chia tín ngưỡng thành
các loại hình sau: tín ngưỡng thờ Mẫu/Nữ thần; tín ngưỡng thờ Âm linh và tín ngưỡng thờ Tiền
hiền.
Thứ hai, là các loại hình tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp. Chúng tôi chia thành các
loại hình tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp; tín ngưỡng liên quan đến ngư nghiệp
và tín ngưỡng liên quan đến thờ tổ nghề.
Sau khi đã mô tả được các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam, chúng tôi sẽ
đi sâu lý giải được các nhân tố tạo nên hình hài các tín ngưỡng. Chúng tôi cũng nghiên cứu được


3

sự ảnh hưởng của tín ngưỡng các cư dân đã và đang sinh sống ở Quảng Nam đến tín ngưỡng
người Việt và ngược lại. Đặc biệt, chúng tôi còn quan tâm, làm rõ xu thế biến đổi trong sinh hoạt
tín ngưỡng hiện nay của người Việt ở Quảng Nam trong bối cảnh phát triển du lịch và hội nhập
quốc tế.
+ Về mặt không gian: Đề tài được giới hạn trong phạm vi Quảng Nam, nghiên cứu sâu tại
Thành phố Hội An, vì đây là mảnh đất hội tụ 02 loại hình tín ngưỡng đặc trưng nêu trên…Qua
thống kê, có hơn 60 di tích tín ngưỡng ở Hội An (địa phương nhiều di tích tín ngưỡng và nhiều
loại hình tín ngưỡng nhất ở Quảng Nam). Trong phạm vi luận án, chúng tôi sẽ nghiên cứu, khảo
tả các cơ sở thờ tự tín ngưỡng sau:
. Đối với loại hình tín ngưỡng cộng đồng:
Tín ngưỡng thờ Mẫu (chúng tôi khảo tả tư liệu Lăng Bà Thu Bồn ở xã Duy Hải, huyện Duy
Xuyên; Lăng Ngũ hành trong cụm lăng cùng tên ở phường Cẩm Nam, thành phố Hội An; Lăng
nhị vị tiên nương trong cụm miếu Nam Diêu ở phường Thanh Hà, thành phố Hội An).
Tín ngưỡng thờ Âm linh (Lăng Âm linh trong cụm lăng Ngũ hành ở phường Cẩm Nam;

Lăng Tiêu Diệm Nhiên vương Bồ tát trong cụm lăng Tứ Chánh vạn, phường Cửa Đại; bàn thờ và
lễ cúng Âm linh trong tất cả lễ hội của các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam).
Tín ngưỡng thờ Tiền hiền (Đình Hương hiền Cẩm Phô, phường Cẩm Phô; Đình Tiền hiền
Kim Bồng, xã Cẩm Kim).
. Đối với loại hình tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp:
Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp (Miếu Thần Nông ở 76 đường Trần Hưng
Đạo, TP. Hội An; Miếu cầu bông ở làng Trà Quế, phường Cẩm An).
Tín ngưỡng liên quan đến ngư nghiệp (Lăng Cá Ông trong cụm lăng Ngũ hành ở Cẩm
Nam; Lăng Tứ Chánh Vạn ở phường Cửa Đại).
Tín ngưỡng liên quan đến thờ tổ nghề (Bàn thờ tổ nghề trong Đình Tiền hiền Cẩm Kim;
Bàn thờ tổ nghề trong khu miếu thờ tổ nghề gốm Thanh Hà; miếu tổ nghề yến Thanh Châu).
+ Giới hạn thời gian:
. Thời gian nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là mô tả bức tranh tín ngưỡng, thấy
được sự biến đổi cùng như làm rõ vai trò của các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng của người. Cho
nên thời gian nghiên cứu của đề tài được kéo dài từ trong lịch sử đến hiện nay.
. Thời gian khảo sát: Đề tài được khảo sát trong thời gian 4 năm, từ năm 2014 đến năm 2018
(Năm 2014, khảo sát để xây dựng đề cương nghiên cứu. Từ năm 2015 đến năm 2018, khảo sát,
nghiên cứu để hoàn thành đề tài).
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Những nội dung đề tài quan tâm tìm hiểu nhằm trả lời cho một số câu hỏi nghiên cứu sau:
Câu hỏi 1: Người Việt ở Quảng Nam có những loại hình tín ngưỡng nào? Đặc điểm của tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam là gì? Những đặc điểm này giống
và khác như thế nào với tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng của các tộc người khác ở địa phương?
Câu hỏi 2: Các nhân tố hình thành nên đặc điểm của tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng của
người Việt ở Quảng Nam?
Câu hỏi 3: Tín ngưỡng của người Việt đóng góp như thế nào đối với tín ngưỡng và văn hóa
tín ngưỡng nói chung ở Quảng Nam?
Câu hỏi 4: Biến đổi tín ngưỡng của người Việt tại Quảng Nam diễn ra như thế nào trong
bối cảnh hiện nay?

5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam được chia thành 02 loại hình
chính đó là tín ngưỡng cộng đồng và các loại hình tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp. Đặc
điểm của tín ngưỡng biểu hiện qua sự đa dạng của loại hình tín ngưỡng, qua các cơ sở thờ tự và
nghi lễ, lễ hội tín ngưỡng. So với các tộc người thiểu số khác sinh sống trên mảnh đất Quảng


4

Nam, sự biểu hiện của sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt phong phú hơn rất nhiều từ các loại
hình tín ngưỡng, cách thức tổ chức lễ hội và các cơ sở thờ tự.
Giả thuyết 2: Đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam được cấu thành từ các
nhân tố liên quan đến điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội. Từ yếu tố môi trường tự nhiên, người
Việt đã hình thành được những kỹ thuật khai thác đặc trưng trong sản xuất, cùng với nó là hình
thành nên các hoạt động tín ngưỡng. Đặc biệt là từ mối quan hệ lịch sử của tộc người Việt với
các tộc người đã và đang sinh sống trên mảnh đất này, cụ thể đó là sự tiếp thu ảnh hưởng của tín
ngưỡng của người Chăm, người Hoa và những tín ngưỡng vốn có của người Việt đã tạo ra sự
tiếp biến văn hóa mạnh mẽ tại vùng đất Quảng Nam.
Giả thuyết 3: Tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam là một phức hệ bao gồm nhiều
nhân tố hiện nay gắn bó thiết thực với sinh hoạt cộng đồng và tín ngưỡng liên quan đến nghề
nghiệp. Ảnh hưởng của tín ngưỡng người Việt ở Quảng Nam đối với đời sống vật chất đó chính
là các cơ sở thờ tự liên quan đến sinh hoạt tín ngưỡng như lăng, đình, miếu,… Ngoài ra, tín
ngưỡng của người Việt còn ảnh hưởng đến việc thiết lập trật tự đời sống văn hóa xã hội đó là sự
cố kết cộng đồng chặt chẽ, nâng cao tinh thần giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống.
Giả thuyết 4: Ở Quảng Nam hiện nay với sự phát triển nhanh của du lịch đã tác động, tạo
ra một phần nội tại sức sống mới trong đời sống văn hóa của cộng đồng. Hoạt động du lịch mà
người dân tham gia được nhận thức như là một hoạt động thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. Du
lịch có thể là một hoạt động có tính nghi lễ chứa đựng trong nó đầy ý nghĩa đối với những người
tham gia để họ có thể duy trì các thực hành văn hóa truyền thống của họ.
6. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình khảo sát, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu định tính (qualitative
research) để thu thập dữ liệu phục vụ luận án này: Điền dã dân tộc học, phỏng vấn sâu, ghi chép
thực địa,..
7. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã tập hợp các nguồn tư liệu (tư liệu thành văn, tư liệu điền dã) thành hệ thống để
phân tích, làm rõ lịch sử và quá trình phát triển của các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở
Quảng Nam từ truyền thống đến hiện đại một cách đầy đủ nhất so với những công trình đã công
bố trước đây. Miêu tả tỉ mỉ các lễ nghi sinh hoạt của các tín ngưỡng trong đời sống xã hội của
người Việt ở Quảng Nam. Trên cơ sở đó chỉ ra được các yếu tố cấu thành tín ngưỡng người Việt
ở Quảng Nam.
- Luận án đã đưa ra bức tranh so sánh/sự tiếp nhận/ảnh hưởng của các lớp văn hóa Chăm, Hoa,
Môn – Khmer trong đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Hội An nói riêng, người Việt ở Quảng
Nam nói chung.
- Luận án còn cung cấp cho ngành Dân tộc học nguồn tư liệu mới giúp cho những người
nghiên cứu kế tiếp hiểu biết thêm về tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam nói riêng, ở Việt
Nam nói chung. Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở khoa học góp phần cho việc
hoạch định và cụ thể hóa chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo trong bối cảnh hiện nay.
8. Bố cục luận án
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, luận án gồm có 03 chương
- Chương 01: Những vấn đề lý luận và tổng quan lịch sử người Việt ở Quảng Nam.
- Chương 02: Đặc điểm của tín ngưỡng người Việt ở Quảng Nam.
- Chương 03: Ảnh hưởng của các lớp văn hóa trong đời sống tín ngưỡng, xu thế biến đổi và
giá trị của các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGƯỜI VIỆT Ở QUẢNG
NAM

1. 1. Những vấn đề lý luận
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Tín ngưỡng
Cho đến nay, khái niệm tín ngưỡng và tôn giáo vẫn còn nhiều tranh luận bởi xét theo tiêu
chí phân loại tín ngưỡng với tôn giáo thì vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Theo quan điểm
của chúng tôi, thì tín ngưỡng được hiểu như sau: Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách
thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch
sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ
những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng. Niềm tin ấy được biểu hiện qua các hoạt
động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng và cơ sở tín ngưỡng
1.1.1.2. Đời sống
Có thể hiểu một cách khái quát nhất về đời sống, đó là toàn bộ, là tổng thể các hoạt động
của một cá nhân con người hay toàn bộ xã hội trong một lĩnh vực nào đó. Đời sống luôn tồn tại
ở trạng thái động. Chính thông qua các hoạt động nhằm duy trì sự tồn tại mà đời sống ngày
càng có sự thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của văn hóa.
1.1.1.3. Đời sống tín ngưỡng
Từ khái niệm đời sống, có thể hiểu cấu trúc và thành tố cấu thành của đời sống tín ngưỡng
bao hàm những yếu tố, hoạt động liên quan đến hành vi biểu lộ đức tin của con người trong xã
hội. Những hoạt động được biểu hiện qua các cơ sở thờ tự và các nghi lễ, lễ hội để phục vụ cho
đức tin của con người tại mỗi cộng đồng nhất định.
Ngoài ra, trong luận án này chúng tôi còn sử dụng nhiều khái niệm liên quan đến tín
ngưỡng như sau: Thực hành tín ngưỡng; Sinh hoạt tín ngưỡng; Biến đổi tín ngưỡng.
1.1.2. Quan điểm tiếp cận đề tài
* Bối cảnh văn hóa
Bối cảnh văn hóa là nhân tố quan trọng cho việc hình thành và phát triển các loại hình tín
ngưỡng. Nằm trong bức tranh tổng thể của bối cảnh văn hóa nói chung thì yếu tố biến đổi văn
hóa của tộc người là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến đặc điểm văn hóa của tộc người. Trên
nền tảng văn hóa nội sinh, yếu tố văn hóa ngoại sinh du nhập vào sẽ được sàng lọc, chọn lựa để
làm phong phú thêm cho nền văn hóa bản địa (tr.206). Lịch sử tộc người Việt ở Quảng Nam đó
là một vòng cộng sinh phong phú. Bản thân người Việt không phải là tộc người bản địa tại vùng

đất xứ Quảng. Tuy nhiên, khi đến vùng đất này, qua sự tiếp biến văn hóa thì họ đã biết phát huy,
kế thừa văn hóa của tộc người Chăm và một số tộc người thiểu số khác, cùng với văn hóa vốn có
của họ khi mang theo đến vùng đất mới, trải qua thời gian đã hình thành nên một đặc tính văn
hóa người Việt rất đặc trưng tại vùng đất Quảng Nam. Cùng với sự kết tụ với yếu tố văn hóa
ngoại sinh từ người Hoa khi đến sinh sống, điều đó đã tạo ra một bức tranh văn hóa đa sắc màu
của vùng đất rộng lớn về phương Nam.
* Nhu cầu tín ngưỡng của con người
Người Việt di cư đến Quảng Nam có nguồn gốc xuất thân khác nhau và đa phần là những
người lao động. Khi đến với vùng đất hoàn toàn mới, chắc chắn không tránh khỏi những khó
khăn, cùng tâm lý lo sợ. Bởi vậy, bên cạnh việc gây dựng một cuộc sống vật chất mới thì họ còn
hình thành nên nhiều loại hình tín ngưỡng để thực hành nhằm trấn an tâm lý, cầu cho cuộc sống
thuận hòa.
* So sánh – đối chiếu


6

Khi nghiên cứu về đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam, bên cạnh việc chú
trọng đến hướng tiếp cận bối cảnh văn hóa đặc biệt chúng tôi đặt đối tượng nghiên cứu trong đặc
trưng văn hóa vùng miền để thấy được những nét đặc thù của đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra,
với quan điểm tiếp cận so sánh – đối chiếu có thể giúp chúng tôi chỉ ra được những điểm tương
đồng, khác biệt và lý giải được nhiều vấn đề xung quanh vấn đề cần giải quyết trong luận án.
1.1.3. Lý thuyết nghiên cứu
1.1.3.1. Thuyết đặc thù lịch sử của Franz Boas
Đặc điểm cốt lõi của lý thuyết này khi giải thích được các nền văn hóa khác nhau cần xuất
phát từ ba yếu tố dưới đây:
+ Yếu tố điều kiện môi trường;
+ Yếu tố tâm lí (chính môi trường đã tác động đến tâm lí của cộng đồng ấy);
+ Yếu tố từ các quan hệ lịch sử của nền văn hóa. Có thể nói, đây là yếu tố quan trọng nhất.
Việc sử dụng lý thuyết đặc thù lịch sử để kiểm nghiệm cho một số vấn đề nghiên cứu trong

Luận án “Đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam” (Nghiên cứu trường hợp tại
Thành phố Hội An), chúng tôi phân tích làm sáng tỏ vấn đề đó là tín ngưỡng của người Việt ở
Quảng Nam có sự tiếp xúc, ảnh hưởng với tín ngưỡng của một số tộc người đã sinh sống trước
và sau khi người Việt có mặt tại mảnh đất này.
1.1.3.2. Lý thuyết sinh thái văn hóa
Thuyết này gắn liền với tên tuổi nhà Nhân học Mỹ Julian Steward (1902-1972). Quan niệm
của Steward là nghiên cứu sinh thái văn hóa – phân tích mối quan hệ giữa một nền văn hóa và
môi trường của nó. Mục đích chính của lý thuyết này nhằm tìm hiểu những biến đổi xã hội bên
trong mang tính chất tiến hóa phải bắt đầu từ sự thích nghi với môi trường.
Việc vận dụng những quan điểm của sinh thái văn hóa để tìm hiều đời sống tín ngưỡng của
cộng đồng người Việt ở Quảng Nam (qua nghiên cứu trường hợp ở Hội An), chúng tôi phân tích
làm sáng tỏ các nhân tố hình thành nên đặc điểm của tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng của
người Việt ở Quảng Nam.
1.1.3.3. Lý thuyết về sự sáng lập truyền thống
Lý thuyết này gắn liền với tên tuổi của hai nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa đó là Eric
Hosbawm và Roy Wagner. Hosbawm đã nhận định, “sáng lập truyền thống là một quá trình tự
nhiên ở bất kì một xã hội nào, ở thời điểm nào, nhất là trong những xã hội có sự chuyển biến
mạnh mẽ. Một trong những phức hợp nổi bật của truyền thống được sáng lập mới chính là lễ hội
vì trong lễ hội các nghi thức, lễ lạc, âm nhạc, ẩm thực… đều được phơi bày vì vậy qua đó thể
hiện rõ tính thích nghi của những yếu tố này trong hoàn cảnh mới”(Eric Hobsbawm and Terence
Ranger, 1983, p.1-4, Dẫn lại từ Trương Thị Thu Hằng 2014, tr.65). Trong rất nhiều nguyên liệu
cũ của văn hóa cũ mà người Việt từ miền quê gốc của họ Nam tiến vào mảnh đất xứ Quảng, họ
nhất định sẽ tiến hành chọn lựa và nhặt lấy chỉ một vài thứ và rồi tự tạo ra các thứ mới cho phù
hợp với điều kiện sống mới. Cơ chế Hosbawm gọi là thích ứng này giúp truyền thống mới được
phác họa nhanh chóng dựa vào những truyền thống xưa. Việc sử dụng lý thuyết này giúp chúng
tôi lý giải được thực trạng biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam và
khẳng định vai trò của tín ngưỡng đã hòa vào dòng chảy văn hóa chung để tạo nên đặc trưng văn
hóa Quảng Nam rất giàu giá trị
1.2. Tổng quan về Quảng Nam và lịch sử tộc người Việt ở Quảng Nam
1.2.1. Tổng quan về Quảng Nam

1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.1.2. Đặc điểm đời sống kinh tế
1.2.1.3. Đặc điểm đời sống văn hóa – xã hội


7

1.2.2. Lịch sử tộc người Việt ở Quảng Nam
1.2.3. Tổng quan về Hội An
1.2.3.1. Vị trí địa lý vùng đất Hội An
1.2.3.2. Lịch sử vùng đất và các lớp cư dân Việt ở Hội An
* Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, chúng tôi tập trung làm sáng rõ các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên
cứu. Bởi vì, hiểu rõ các khái niệm này mới có thể đi vào phân tích một cách đầy đủ các vấn đề
liên quan đến luận án.
Ngoài ra, chương này chúng tôi cũng tập trung làm rõ một số vấn đề về lý thuyết có sử dụng
trong luận án. Các quan điểm bối cảnh văn hóa; quan điểm nhu cầu tín ngưỡng và quan điểm so
sánh – đối chiếu. Đặc biệt, chúng tôi phân tích các lý thuyết Nhân học ứng dụng cho đề tài
nghiên cứu này đó là lý thuyết Đặc thù lịch sử; Sinh thái văn hóa và Sáng lập truyền thống.
Từ lý thuyết Đặc thù lịch sử cho thấy, văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành trong quá
trình lịch sử, gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý cụ thể. Đặc biệt,
lý thuyết nhấn mạnh đến sự biến đổi văn hóa khi nhận thấy đời sống xã hội của các dân tộc
thường xuyên vay mượn từ các xã hội lân cận hơn là sáng tạo một cách độc lập. Sự biến đổi văn
hóa là mối quan hệ qua lại giữa các xã hội khác nhau và chính mối liên hệ này đã tạo điều kiện
cho sự giao lưu và thích nghi văn hóa.
Với lý thuyết Sinh thái văn hóa giúp chúng tôi có thể chứng minh vấn đề nghiên cứu đó là sự
trải nghiệm của con người nhằm thích nghi với môi trường thiên nhiên cụ thể theo những cách
khác nhau và sáng tạo nên những dạng thức văn hóa đã và đang diễn ra trong đời sống tín
ngưỡng người Việt ở Quảng Nam.
Việc vận dụng lý thuyết sáng lập truyền thống sẽ giúp chúng tôi trả lời cho câu hỏi tại sao lại

có sự biến đổi trong đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam. Đặc biệt, chúng tôi có cơ
sở để khẳng định được vai trò của tín ngưỡng trong đời sống con người và đặc biệt là trong việc
tạo dựng lên hệ giá trị văn hóa Quảng Nam rất đặc trưng.


8

Chương 2
ĐẶC ĐIỂM CÁC LOẠI HÌNH TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở
QUẢNG NAM
2.1. Biểu hiện của đặc điểm các loại hình tín ngưỡng
2.1.1. Phân loại các loại hình tín ngưỡng
2.1.1.1. Tín ngưỡng cộng đồng
a. Tín ngưỡng thờ Mẫu
* Các dạng thức thờ phụng
- Thiên Y A Na và các hiện thân
Thiên Y A Na/Bà Chúa Ngọc là thần Mẹ xứ sở của người Chăm, được người Việt đón nhận
và thờ phụng, kể từ khi mở mang bờ cõi về phía biển và phương Nam. Trong cuộc sống thường
ngày, Bà được gọi là Bà Chúa Ngọc hoặc Bà Chúa. Về ''lai lịch'' Bà Chúa, hầu như không ai biết.
Hiện nay, Bà được suy tôn và thờ phụng như một Bà Mẹ Đất của bổn xứ (làng này.
Bên cạnh việc thờ Thiên Y A Na theo dạng chính danh, cư dân biển xứ Quảng còn thờ
phụng một số Bà khác như: Bà Dàng Chào (Điện Dương - Quảng Nam), Bà Phường Chào (Đại
Cường, Đại Lộc), Bà Dàng Lồi (Cẩm Thanh - Hội An), Bà Cổ Vàng/ Dàng (Cẩm Hà - Hội An),
Bà Dàng Bô/Bà Bô Bô - Thu Bồn (Duy Hải, Duy Xuyên); Bà Chiêm Sơn (Duy Xuyên), Bà Chợ
Được (Thăng Bình).
- Bà Ngũ Hành
Kim đức Thánh phi, Mộc đức Thánh phi, Thuỷ đức Thánh phi, Hoả đức Thánh phi, Thổ
đức Thánh phi, gọi nôm Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thuỷ, Bà Hoả, Bà Thổ.
- Các nữ thần của riêng nghề biển
Ngoài tín ngưỡng thờ các Bà/ Mẫu chung của quê hương, cư dân ven biển xứ Quảng còn có

riêng một lớp nữ thần chủ về nghề biển, gồm: Bà Thuỷ Long, Bà Dàng Lạch, Bà Hà Bá, Bà Ma
Nha.
b. Tín ngưỡng thờ Âm linh
Âm linh là khái niệm dùng để chỉ linh hồn những người chết nói chung có nguồn gốc từ
thuyết vạn vật hữu linh (anismism, thuyết duy hồn, thuyết vật linh). Trong tâm thức dân gian, âm
hồn và linh hồn đôi khi chỉ được hiểu là linh hồn của những người chết bất đắc kỳ tử, của những
người chết không nơi thờ tự, chết vì tự tử, tai nạn, thú dữ, chết yểu…Theo cách hiểu này, thì âm
hồn hay âm linh gần nghĩa với vong hồn cô độc (cô hồn), sống lang thang vất vưởng, không nơi
nhang khói nên thường gieo rắc tai họa (Nguyễn Thanh Lợi, 2012, tr.26).
c. Tín ngưỡng thờ Tiền hiền
Người Việt từ miền Bắc vào miền Trung khai lập vùng đất mới, họ ra đi mang theo truyền
thống văn hóa lâu đời cùng hòa nhập với đời sống hiện thực, một trong những giá trị văn hóa họ
gìn giữ đó chính là truyền thống hiếu nghĩa. Ở góc độ làng (vượt ra ngoài gia đình – hiếu nghĩa
tổ tiên), sự hiếu nghĩa được mở rộng thành tín ngưỡng thờ cúng Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền
khai cơ. “Tiền hiền khai khẩn là trước hết biết ơn cha mẹ có công vỡ hoang khai khẩn nên mảnh
đất này. Hậu hiện khai cơ là sau đó biết ơn cha mẹ đã mở ra cơ nghiệp để lại cho con
cháu.”(Nguyễn Đăng Duy, 1997, tr.29).
2.1.1.2. Tín ngưỡng nghề nghiệp
a. Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp
* Tín ngưỡng liên quan đến nghề trồng lúa
Những tín ngưỡng đó là tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông; tín ngưỡng cúng Mục đồng; tín
ngưỡng cúng cơm mới.
* Tín ngưỡng liên quan đến nghề trồng rau
Lễ cúng cầu bông


9

b. Tín ngưỡng liên quan đến ngư nghiệp
Căn cứ vào các cơ sở thờ cúng qua quá trình điền dã dân tộc học, chúng tôi nhận thấy rằng,

biểu hiện rõ rệt nhất, tiêu biểu nhất cho loại hình tín ngưỡng liên quan đến ngư nghiệp đó là Tín
ngưỡng thờ Cá Ông/Cá Voi/Nam Hải Đại tướng quân.
c. Tín ngưỡng thờ tổ nghề thủ công truyền thống
Hiện nay, tín ngưỡng thờ tổ nghề thủ công truyền thống ở Hội An chia thành 02 loại hình :
Thứ nhất, loại hình tín ngưỡng có cơ sở thờ tự chung: Tín ngưỡng thờ tổ nghề gốm ; tín
ngưỡng thờ tổ nghề mộc, tín ngưỡng thờ tổ nghề yến. Những loại hình tín ngưỡng có cơ sở thờ
tự chung thì nghi lễ và lễ hội liên quan được chuẩn bị và tổ chức rất quy mô và thu hút được sự
tham gia của cộng đồng.
Thứ hai, loại hình tín ngưỡng không có cơ sở thờ tự chung, việc thực hành nghi lễ tín
ngưỡng được thực hiện tại mỗi gia đình có làm nghề thủ công với quy mô nhỏ, nghi thức đơn
giản hơn những tín ngưỡng thờ tổ nghề có cơ sở thờ tự chung. Đó là các loại hình tín ngưỡng thờ
tổ nghề rèn (hiện nay còn 13 lò rèn ở Hội An, phân bố rải rác ở Cẩm Châu, Sơn Phong, Cẩm
Phô, Cẩm Nam, Cẩm Hà, ngày giỗ tổ nghề là 12/02 âm lịch); tín ngưỡng thờ tổ nghề may (ngày
lễ là ngày 12 tháng Giêng và được tổ chức cúng tại các cơ sở may ở Hội An).
Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung phân tích, mô tả các loại hình tín ngưỡng thờ tổ
nghề thủ công có cơ sở thờ tự chung của người Việt ở Hội An.
* Tín ngưỡng thờ tổ nghề gốm
*Tín ngưỡng thờ tổ nghề mộc
* Tín ngưỡng thờ tổ nghề yến
2.1.2. Cơ sở thờ tự của các loại hình tín ngưỡng
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án, chúng tôi tập trung làm rõ đặc điểm của cơ
sở thờ tự liên quan đến tín ngưỡng cộng đồng và cơ sở thờ tự liên quan đến nghề nghiệp của
người Việt ở Quảng Nam ở những đặc điểm chính như sau: Đối tượng thờ phụng, Vị trí cảnh
quan, Đặc điểm kiến trúc.
2.1.2.1. Cơ sở thờ tự liên quan đến tín ngưỡng cộng đồng (Khảo cứu Đình Hương hiền Cẩm
Phô; Đình tiền hiền Kim Bồng)
a. Đình Hương hiền Cẩm Phô (Số 52, đường Nguyễn Thị Minh Khai, khối 04, phường Cẩm
Phô, thành phố Hội An) (Phụ lục ảnh 01+02)

2


1

4

3

5
6

7

Sơ đồ 1: Sơ đồ bài trí thờ phụng đình Hương hiền Cẩm Phô – Hội An
(Nguồn: Lê Thu Huyền vẽ)
Chú thích:
1: Ban thờ Tiền hiền
2,3: Bàn thờ Hậu hiền

4. Nhà Đông; 5: Nhà Tây; 6. Phương đình
7: Bình phong


10

b. Đình tiền hiền Kim Bồng (thôn Trung Châu, xã Cẩm Kim, thành phố Hội An)
2

3

1


5

6

4

7

Sơ đồ 2: Sơ đồ bài trí thờ phụng đình Tiền hiền Kim Bồng (Cẩm Kim, Hội An)
(Nguồn: Lê Thu Huyền vẽ)
Chú thích: 1: Ban thờ Thành hoàng, 2,3: Bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền, 4: Tổ miếu thờ các vị Tổ
sư, Tiên sư nghề5, 6: Tả ban, hữu ban, 7: Bình phong
2.1.2.2. Cơ sở thờ tự của tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp của người Việt trong đời
sống vật chất người Quảng Nam
a. Cơ sở thờ tự của tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp (miếu Thần Nông; miếu
làng rau Trà Quế).
1

2

Chú thích: 1: Bàn thờ Thánh Thần

2: Bình phong

Sơ đồ 3: Sơ đồ bài trí thờ phụng tại miếu Thần Nông ( 76 Trần Hưng Đạo Cẩm Phô – Hội
An) (Nguồn: Lê Thu Huyền vẽ)
b. Cơ sở thờ tự của tín ngưỡng liên quan đến nghề biển (Khảo sát Lăng Tứ Chánh Vạn –
Phường Cửa Đại)
3


8

5
10

2

1

4

4

4

8
7

12

6
11

9


11

Sơ đồ 4: Sơ đồ bài trí thờ phụng tại Lăng Tứ Chánh vạn, Phường Cửa Đại (Nguồn: Lê Thu

Huyền vẽ)
Chú thích:
1. Bàn thờ Ông Nam Hải; 2, 3: Tả lý ngư, Hữu lý lực; 4: Nơi đặt cốt Ông; 5, 6: Tiền hiền, Hậu hiền; 7:
Hương
8, 9:đồNơi
bộ phụng
và hai bộ
gươm,
bộ chèo;
11: Đại,
Tiền Hội
vãng,An)
Hậu vãng; 12: Lăng thờ
Sơ đồán;
4: Sơ
bàiđặt
trílỗthờ
lăng
Tứ hai
Chánh
Vạn10,
(Cửa
Diệnc.Nhiên
Cơ sởVương
thờ tựBồ
củatát.tín ngưỡng liên quan đến thờ cúng Tổ nghề (Khảo sát khu miếu tnghề

c. Cơ sở thờ tự của tín ngưỡng liên quan đến nghề thủ công truyền thống
* Cơ sở thờ tự tổ nghề gốm (Nam Diêu, Phường Thanh Hà)


2

1

3

4

5

Chú thích:
1: Miếu tổ nghề gốm
4: Miếu Sơn tinh nhị vị (miếu Bà)
2: Miếu Bạch mã Thái giám
5: Bình phong
3. Miếu Âm linh
Sơ đồ 5: Sơ đồ mặt bằng khu miếu tổ nghề gốm Nam Diêu (Thanh Hà– Hội An) (Nguồn: Lê
Thu Huyền vẽ)
2.1.3. Nghi lễ, lễ hội của các loại hình tín ngưỡng
2.1.3.1. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng cộng đồng
a. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu
Theo tục lệ, ngày vía Bà Chúa Ngọc và nghi lễ cũng tương đối thống nhất ở các làng biển,
thường diễn ra trong hai ngày 24, 25 tháng Giêng hàng năm. Riêng có lăng Ngũ Hành (Cẩm
Nam, Hội An) tổ chức vào ngày 09-10/02 âm lịch trong lễ Kỳ yên nói chung.
Hiện nay, hầu hết các ngôi miếu, lăng thờ Bà có liên quan đến thờ Thiên Y A Na thường
tiến hành cúng tế thành kính thường niên, theo nghi lễ tế thần truyền thống, vào dịp Xuân kì.
Tiêu biểu là lễ hội Bà Thu Bồn, tức Bà Bô Bô (hai ngày 11 và 12 tháng 2 âm lịch) và Bà Chợ
Được (ngày 11 tháng Giêng hàng năm).
Ngoài ra, còn có một số nghi lễ liên quan đến các bà Thủy chủ về nghề biển khá phong
phú, nhưng không thể hiện độc lập mà thường được lồng ghép trong các lễ cầu an và cầu ngư

như Lễ Nghinh Bà Thủy, lễ cúng Vũng…
b. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng thờ Âm linh
+ Lễ tế âm hồn
+ Lễ rẫy mả âm hồn
+ Lễ quẻ cơm Cô Bác
+ Tục tống ôn
+ Tục hát bã trạo/hát chèo Cô hồn


12

c. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng thờ Tiền hiền
Ngày kỵ Tiền hiền là một trong những ngày lễ trọng của cộng đồng làng và là ngày con
cháu trong làng tụ họp về đông đủ nhất. Trước khi tổ chức, các chư tôn tộc phái trong làng cắt cử
đại diện tham gia lễ rẫy mả Tiền hiền. Lễ chánh kỵ được tổ chức ở đình hoặc nhà thờ Tiền hiền.
Những làng có nhà thờ Tiền hiền riêng thì việc kỵ Tiền hiền tại nơi này được gọi là ngày ''kỵ Tổ
Tiền hiền'', như ngày giỗ hội của làng An Bàng (Phường Cẩm An, TP. Hội An) vào ngày 15 tháng
Giêng và ngày 12 tháng Sáu âm lịch, làng Hói Láng – TP. Hội An ngày 16 tháng Ba, làng Hà My
– Điện Dương ngày 20 tháng Ba và 20 tháng Tám, làng Phước Ấm – Bình Triều ngày 10 tháng
Ba, làng Tĩnh Thuỷ - Tam Thanh ngày 15 tháng Tư... Đây cũng là những làng còn giữ được
ruộng hương hỏa, do các chư phái tộc trong làng tự nguyện đóng góp để thờ phụng Tiền hiền.
Lễ kỵ tổ Tiền hiền của người Việt ở Quảng Nam thường diễn ra trong hai ngày, hình thức lễ
cũng giống như các loại hình tín ngưỡng khác gồm lễ túc và lễ chính. Vật phẩm dâng cúng tuỳ
theo quy mô cuộc tế: tiểu lễ cúng xôi gà, trung lễ cúng thịt heo, đại lễ cúng thêm bò.
Nghi thức lễ kỵ tổ Tiền hiền cũng bao gồm các bước như nghi thức tế Thần, gồm: Sơ hiến
(lễ dâng rượu lần đầu), á hiến (lễ dâng rượu lần hai), chung hiến (lễ dâng rượu lần ba), độc chúc
(hai người chấp sự vào bàn trong kính cẩn bưng văn tế ra), và thiểu khước (con cháu các tộc họ ở
xa về và các đại biểu lạy sau cùng để xin hưởng phước mọn của tổ tiên). Chủ tế thường là vị
trưởng làng.
2.1.3.2. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng nghề nghiệp

a. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng nông nghiệp
Trước đây, khi nông nghiệp là nghề chính yếu của con người thì những sinh hoạt văn hóa
có sự ảnh hưởng từ tín ngưỡng nông nghiệp của người Việt ở Quảng Nam rất đậm nét. Tuy nhiên
hiện nay, những nghi lễ, lễ hội văn hóa có nguồn gốc xuất phát từ tín ngưỡng nông nghiệp như
nghi lễ, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ Thần Nông; nghi lễ, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng
cúng Mục đồng…ở một số nơi đã không còn tồn tại nghi lễ, lễ hội này nữa mà chỉ còn dấu tích
qua các miếu thờ Thần Nông.
Lý giải cho sự mai một của các loại hình tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp có
thể liên quan đến vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Khi con người lựa chọn công nghiệp trở
thành ngành trọng điểm cho phát triển, khi đó nông nghiệp không còn là đối tượng chú trọng
nhất nữa. Bởi tín ngưỡng do con người sáng tạo ra nhằm đem lại cho con người có được cuộc
sống bình an và làm ăn may mắn trong cuộc sống. Chính vì khi nhu cầu của con người không
còn nữa thì khi đó tín ngưỡng cũng sẽ nhạt dần.
b. Nghi lễ, lễ hội liên quan đến ngư nghiệp
* Nghi lễ tang lễ Cá Ông:
* Lễ hội Cầu ngư:
Lễ hội Cầu ngư có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ Cá Ông của người Việt tại Quảng Nam. Đối
với ngư dân Quảng Nam, trong tâm thức của họ có một niềm tin rất lớn vào tính thiêng của Cá
Ông trong hành trình mưu sinh trên biển và trong cuộc sống hàng ngày. Từ niềm tin đó, cá Ông
đã trở thành một vị Phúc Thần trong đời sống tâm linh của cư dân ven biển, họ đã thực hành nghi
thức thờ cúng Cá Ông trong đời sống của mình. Cho đến hiện nay, trên địa bàn thành phố Hội An
vẫn còn bảo lưu nhiều lăng thờ cá Ông mà chủ yếu nằm tập trung ở những xã/phường ven biển
như: Cẩm Thanh, Tân Hiệp, Cẩm Kim, Cẩm An, Cửa Đại, Cẩm Nam. Tín ngưỡng thờ Cá Ông đã
tạo ra sự ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt văn hóa người Việt tại Quảng Nam thông qua việc
thực hành lễ hội Cầu ngư hàng năm. Quy trình lễ như sau: Lễ Túc, Lễ Nghinh Thần, Lễ tế âm
linh, Lễ tế chính, Tối ngày diễn ra lễ chính sẽ diễn ra đêm hát bả trạo. Đây là hình thức diễn
xướng vừa mang tính nghi lễ vừa mang tính hội hè của lễ hội Cầu Ngư. Sáng sớm hôm sau, diễn
ra hội đua thuyền của các xã, phường làm nghề biển. Hội đua thuyền diễn ra rất hào hứng, thể
hiện được sức mạnh của con người trước một mùa ra quân đánh bắt thủy hải sản. Ngoài ra, phần
hội trong lễ hội cầu ngư còn có nhiều hình thức vui chơi, giải trí như hội đua ghe, thi lắc thúng

chai, kéo co và một số trò chơi dân gian miền biển khác.
c. Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng thờ tổ nghề thủ công truyền thống


13

* Nghi lễ, lễ hội của tín ngưỡng thờ tổ nghề gốm
- Lễ tế Tổ vào ngày mồng 10 tháng Giêng
* Lễ tế Tổ vào mồng 10 tháng 7 âm lịch
* Nghi lễ, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ tổ nghề mộc
Lễ giỗ tổ nghề mộc Kim Bồng được tổ chức vào mồng 6 tháng Giêng hàng năm tại Đình
tiền hiền Kim Bồng. Ý nghĩa của lễ này là nhằm để tưởng nhớ công ơn ông cha tổ tiên của làng
đã có công xây dựng nên làng, phát triển nghề mộc và cũng để cầu cho làng có một năm mới
mưa thuận gió hòa làm ăn thuận lợi.
* Nghi lễ, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ tổ nghề yến
Điểm khác biệt của lễ giỗ tổ nghề yến Thanh Châu so với các lễ hội khác là dù cúng tổ một
nghề nhưng được diễn ra tại hai ngôi miếu (Miếu Ông Tiến – Thanh Châu, Cẩm Thanh và Miếu
tổ nghề Yến – Bãi Hương, Tân Hiệp). Lễ hội tín ngưỡng tổ nghề yến được diễn ra trong hai ngày
09/3 và 10/3 âm lịch.
2.2. Nguyên nhân thực hành tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam
2.2.1. Môi trường sinh thái tác động đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của cộng đồng
phản ảnh qua các loại hình tín ngưỡng
Môi trường sinh thái đó là tất cả các yếu tố tự nhiên có liên quan đến sự sống của con người,
sự tồn tại, phát triển của xã hội. Môi trường sinh thái của mỗi một địa phương quyết định đến
đặc trưng của các hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa trong đó có cả đặc điểm về tín ngưỡng của
cư dân sinh sống tại khu vực đó.
2.2.2. Nhu cầu sáng lập những giá trị truyền thống lịch sử trong đời sống hiện đại
Yếu tố từ các quan hệ lịch sử của nền văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng nhất để
hình thành nên đặc trưng văn hóa (trong đó có đặc trưng về tín ngưỡng) của con người ở một
vùng đất. Qua những phân tích trên cho thấy, dù người Việt không phải là cư dân bản địa của

mảnh đất xứ Quảng, nhưng trong tiến trình lịch sử, người Việt đã đến và định hình được vị trí và
vai trò của mình tại đây. Hiện nay, người Việt là cư dân chủ thể của mảnh đất Quảng Nam. Ngoài
việc gìn giữ những nét văn hóa vốn có của mình. Người Việt cũng đã có sự kết hợp hái hòa các
giá trị văn hóa của các tộc người đã và đang chung sống trên mảnh đất này.
2.2.3. Xuất phát từ nhu cầu tâm linh của con người
* Tiểu kết chương 2:
Như vậy, trong chương này từ việc phân loại được các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở
Quảng Nam đó là tín ngưỡng cộng đồng (trong đó có các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu; tín
ngường thờ Tiền hiền và tín ngưỡng thờ Âm linh) và tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp (có
các loại hình tín ngưỡng là tín ngưỡng liên quan đến nghề gốm, tín ngưỡng liên quan đến nghề
mộc, tín ngưỡng liên quan đến nghề khai thác và nuôi trồng yến). Qua đó, chúng tôi có cơ sở để
phân tích làm rõ những đặc điểm về cơ sở thờ tự và đặc điểm về nghi lễ, lễ hội liên quan đến các
loại hình tín ngưỡng. Các cơ sở thờ tự liên quan đến các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở
Quảng Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử - vì đó là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử của
một vùng đất mà còn có ý nghĩa tinh thần sâu sắc đối với người dân nói chung. Đó là biểu tượng
của tình đoàn kết, của lòng biết ơn, tri ân. Những giá trị đó có ý nghĩa giáo dục cao trong đời
sống hiện nay. Đối với nghi lễ và lễ hội liên quan đến các loại hình tín ngưỡng luôn được diễn ra
rất trang trọng, có sự tham gia của cộng đồng tin theo tín ngưỡng. Qua những phân tích trên
chúng tôi rút ra đặc điểm chung của nghi lễ, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng của người Việt ở
Quảng Nam như sau:
- Thứ nhất, tiến trình thực hành nghi lễ rất chỉn chu và có sự tham gia đông đảo của cộng
đồng cư dân. Thời gian thực hành nghi lễ thường diễn ra vào dịp xuân, thu nhị kỳ. Lễ tế xuân
đầu năm thường được tổ chức rất trang trọng. Quy trình thực hiện nghi lễ được thực hiện rất kỹ
lưỡng từ khâu chuẩn bị nhân sự cho buổi tế lễ, chuẩn bị văn tế cho đến khâu phân công chuẩn bị
lương thực cúng tế. Thường lễ giỗ tổ nghề được diễn ra trong 2 ngày. Ngày đầu, cộng đồng cư
dân dọn vệ sinh, trang hoàng khu vực cúng tế, bày biện lễ vật trên các bàn thờ, khám thờ. Đến


14


tối, các vị cao niên trong làng và đại diện các tộc họ tập trung tại cơ swor thờ tự, cáo trước với
chư tổ, thần thánh về việc tế chính ngày mai. Sáng sớm hôm sau, lễ nghinh thần, rước vọng được
cử hành với kiệu thần được trang trí cờ hội lộng lẫy. Khi đoàn nghinh thần quay về thì chiêng
trống trong miếu tổ bắt đầu nổi lên, chuẩn bị tiến hành lễ cúng âm linh. Lễ cúng âm linh diễn ra
đúng theo trình tự các nghi thức cổ truyền có xướng tế, có chánh tế, tả hữu phân hiến, có cổ
nhạc, đi gia lễ, đọc văn tế ...Sau đó là lễ chánh tế.
- Thứ hai, sau khi thực hiện nghi lễ chánh tế bao giờ cũng diễn ra phần hội rất sôi nổi để
cho người dân có được sự thoải mái nhất về tinh thần để bắt đầu một năm sản xuất hiệu quả. Đối
với tín ngưỡng thờ tổ nghề gốm, thường sau lễ tế tổ nghề gốm sẽ đến phần hội đua thuyền giữa
các nam thanh niên trong các thôn của phường Thanh Hà trên sông Hội An đối diện miếu Nam
Diêu. Còn sau phần tế tổ nghề mộc là diễn ra các trò chơi dân gian như bài chòi, kéo co, đập ôm,
nhảy bao bố, cờ tướng. Tại miếu tổ nghề yến, sau khi thực hiện xong nghi thức cúng lễ, còn được
kết hợp tổ chức các chương trình văn hóa - du lịch như giao lưu lửa trại “Vui hội làng chài”, hô
hát bài chòi, trò chơi đập nồi và chợ ẩm thực “món ngon miền biển”. Ngoài các sản vật như tôm,
cua, cá, mực, vú sao, vú nàng, rau rừng, ốc, yến sào cũng được giới thiệu và bán cho du khách
đến xem lễ với giá ưu đãi.
Ngoài ra, trong chương này chúng tôi cũng phân tích, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến việc
thực hành đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam. Cụ thể là xuất phát từ môi trường
sinh thái của người Việt, xuất phát từ nhu cầu sáng lập những giá trị truyền thống lịch sử trong
đời sống hiện đại và xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của con người. Qua đó, khẳng định được
vai trò quan trọng của đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam.

Chương 3


15

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LỚP VĂN HÓA TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG, XU THẾ
BIẾN ĐỔI VÀ GIÁ TRỊ CỦA CÁC LOẠI HÌNH TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở
QUẢNG NAM HIỆN NAY

3.1. Ảnh hưởng của các lớp văn hóa trong đời sống tín ngưỡng người Việt
3.1.1. Sự tiếp nhận và bản địa hóa tín ngưỡng văn hóa của các lớp cư dân khác ở Quảng
Nam
3.1.1.1. Tín ngưỡng người Việt tiếp nhận và bản địa hóa tín ngưỡng văn hóa của người Chăm
Trong ngôn ngữ
Có thể dẫn chứng qua sự ảnh hưởng về ngôn ngữ thông qua bảng đối chiếu từ vựng Chăm –
Việt dưới đây:
Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội
TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT GỐC CHĂM
chằn (yêu quái)
dàng (trời)
(Đại) Càn (Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh
kan / ikan “cá”
Nương), (Đại) Càn (Nam Hải Quận Chúa),
(Bà) Càn, (Đại) Càn (Nam Hải Đại Vương
patao ia “thuỷ thần”
ma da
Pô Dang Inư Nưḳăn “Thần-Mẹ-Xứ sở, Bà
Thiên Y A Na, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc,
Chúa Xứ”
Chủ Xứ Thánh Mẫu.
TỪ VỰNG TIẾNG CHĂM
çhĭn / açhĭn “quỷ”
dang “thần”

Bảng 04: Bảng đối chiếu từ vựng Chăm – Việt (Lý Tùng Hiếu, 2014, tr.115)
Trong hoạt động sản xuất:
Người Việt cũng tiếp thu các quy trình công nghệ của người Chăm để tiếp nối và phát triển
các ngành nghề: nghề dệt, nghề khai thác trầm hương, nghề biển và đặc biệt là nghề đóng ghe
bầu” (Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.30). Đặc biệt, trong canh tác sản xuất lúa nước người Việt

cũng tiếp thu khá nhiều các kỹ thuật trồng lúa, giống lúa của người Chăm.
Trong cách thức ăn, mặc, ở, đi lại:
Khi người Việt vào vùng đất Quảng Nam định cư, họ cũng tiếp thu những cách thức ăn
uống, đi lại của người Chăm. Về ẩm thực, do ở bên cạnh biển, mưu sinh bằng các nghề đánh bắt,
nuôi trồng thuỷ sản, cư dân ở vùng này có một đặc trưng chung trong văn hóa ẩm thực là bữa ăn
giàu chất biển và nhiều vị cay để bớt mùi tanh và quân bình âm dương với các thức ăn thủy sản.
Bên cạnh những món ăn gốc Bắc, người Việt ở Quảng Nam còn có thêm những thực phẩm cải
tiến từ các món ăn của người Chăm như bánh tét, mắm nêm... Về giao thông, cư trú trên một địa
bàn vừa có sông lại giáp biển và tiếp biến văn hóa Chăm, người Việt ở Quảng Nam thành thạo
việc đi lại, vận chuyển bằng ghe xuồng...
Trong sinh hoạt tín ngưỡng:
Từ việc tiếp biến những giá trị tín ngưỡng của người Chăm, người Việt ở Quảng Nam đã
hình thành nên những phong tục và lễ hội rất đặc trưng của dải đất miền Trung, nhưng điểm đặc
biệt khác với các vùng văn hóa khác là ở nơi đây các lễ hội ngư nghiệp chiếm ưu thế hơn tất cả
các loại lễ hội khác, trong đó phải kể đến lễ hội cầu ngư của ngư dân ven biển, lễ hội rước cộ bà
(Chợ Được, Bình Triều, Thăng Bình), lễ hội Bà Thu Bồn…
Ngoài ra, người Việt khi đến vùng đất mới cũng tiếp thu một số tục lệ thờ cúng, lễ hội của
người Chăm, do vậy cùng với những ngôi đình thờ thành hoàng bổn xứ và các vị tiền hiền khai
cơ lập nghiệp của người Việt, còn có những miếu bà, lăng bà thờ các vị thần Chiêm như lăng bà
Thu Bồn (Duy Xuyên), trong lăng thờ bài vị các thần: PôPô Phù Hóa Tôn Thần, Thiên Y Ana


16

Diễn Phi Chúa Ngọc, Phiếm Ái Châu Đại Đức Phu Nhân, Ngũ Hành Tiên Nương (Trần Dũng,
2014, tr.70).
3.1.1.2. Tín ngưỡng người Việt tiếp nhận và bản địa hóa tín ngưỡng văn hóa của cộng
đồng người Hoa
* Tín ngưỡng thờ thần Tài
* Tín ngưỡng thờ Ngũ tự gia đường

3.1.1.3. Tín ngưỡng người Việt tiếp nhận và bản địa hóa tín ngưỡng văn hóa của đồng
bào dân tộc thiểu số nói ngôn ngữ Môn-Khơme
“Những tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơme ở vùng núi phía Tây Quảng Nam. Có thể họ
là tổ tiên của những người Cơ tu, Xơ đăng (Ca dong), Cor, Giẻ triêng sinh sống ở các huyện
vùng cao Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn và Trà My hiện nay” (Sở Văn hóa
Thông tin Quảng Nam, 2004, tr.24). Mặc dù, bộ phận tộc người thiểu số nói ngôn ngữ Môn –
Khơme không chiếm đa số ở Quảng Nam những những ảnh hưởng của cư dân bản địa này lên
đời sống tín ngưỡng người Việt ở Quảng Nam cũng không nhỏ.
Có thể phân tích lễ hội Bà Thu Bồn của người Việt ở làng Thu Bồn, xã Duy Tân, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam để thấy được sự ảnh hưởng của tín ngưỡng này từ văn hóa Cơ tu. Trong
nghi thức liến quan đến cầu trời, cầu đất được thể hiện qua lễ vật cúng trâu sống bôi huyết toàn
thân trong lễ hội Bà Thu Bồn. “Vật phẩm cúng bằng trâu sống, theo Maspêrô và một số nhà
nghiên cứu Việt Nam, thường mang ý nghĩa hiến sinh cho trời, rất phổ biến ở nhiều tộc người
thiểu số nước ta, trong đó có tộc người Cơ tu. Với người Cơ tu, trâu là con vật thiêng của thần
linh. Hiến tế trâu sẽ làm thần linh vừa lòng, vì trâu đại diện cho người; máu trâu tượng trưng cho
máu người” (Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.197). Ngoài ra, một số tín ngưỡng liên quan đến
nghề nghiệp (nghề biển) cũng mang dấu ấn văn hóa Cơ tu. Chẳng hạn, việc coi ngày đầu năm
xuống biển và coi ngày mua, đóng ghe thuyền của dân biển luôn phải là ngày chẵn. Hay lễ vật
dâng cúng trong lễ cầu có cá, lễ kỵ cá Ông bao giờ gà trống dùng để cúng cũng được gọi là con
chim. Điều này có sự trùng khớp với tâm thức người Cơ tu. Người Cơ tu cho rằng, “số chẵn là số
tốt lành, nhất là số 6, nó có liên quan đến mặt trời, đến hình tròn được thể hiện trong một loạt các
yếu tố văn hóa của người Cơ tu” (Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.198). Còn đối với việc dùng gà
trống cúng mà lại gọi là chim (đây là biểu hiện của tư duy lưỡng phân), hành động này có thể đã
được người Việt lại học từ dân gian xuất phát từ người Cơ tu khi họ cho rằng đây là con vật gắn
với mặt trời mọc – dương tính, việc “biến gà thành chim, một mặt là biểu hiện của tục thờ ánh
sáng, mặt khác như sự đối trọng lại với mặt trăng – âm tính (ngư dân không thờ trăng vì trăng
sáng không có cá)” (Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.199).
3.1.2. Các lớp cư dân ở Quảng Nam tiếp biến văn hóa tín ngưỡng của người Việt
Văn hóa, tín ngưỡng của người Việt ảnh hưởng đến người Hoa là đậm nét nhất. Trong quá
trình sinh sống tại Hội An, cùng với việc hình thành nên các khu phố để làm ăn buôn bán, người

Hoa đã xây dựng một thiết chế văn hóa tín ngưỡng riêng để phục vụ đời sống tâm linh. Các công
trình kiến trúc như chùa, hội quán, nhà thờ tộc họ của người Hoa đã được xây dựng cùng với sự
ra đời và phát triển của cộng đồng. Tuy nhiên, trong quá trình này cùng với việc gìn giữ phong
cách kiến trúc riêng của mình, người Hoa đã tiếp thu một số yếu tố văn hóa Việt để tạo nên sự
phù hợp cao hơn trong những điều kiện mới. Nếu như ở Trung Hoa, ngôi đình có chức năng là
nơi để khách bộ hành nghỉ ngơi, lưu trú khi qua đường, thì ở trong sinh hoạt tín ngưỡng của
người Việt ở khu vực Nam Trung Bộ nói chung và ở Hội An nói riêng, ngôi đình lại là nơi thờ
các vị tiền hiền, đôi khi thành hoàng làng. “Thay vì xây dựng những ngôi đình, người Hoa đã
cho ra đời các Hội quán để làm nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Các Hội quán ấy trong một
chừng mực nhất định đã cố kết được Hoa kiều ở từng địa phương gốc như Phúc Kiến, Quảng
Đông, Triều Châu…Trên cơ sở tiếp thu lối kiến trúc và chức năng của ngôi đình Việt, khi xây


17

dựng các Hội quán, người Hoa đã đưa các vị thần, các vị tiền hiền vào thờ phục vụ cho nhu cầu
tâm linh của Hoa kiều bên cạnh chức năng là nơi sinh hoạt cộng đồng. Bên cạnh việc thừa hưởng
các phong cách kiến trúc, cách trang trí công trình của người Việt, người Hoa còn lĩnh hội cách
phối kết hợp giữa công trình kiến trúc với nghệ thuật trang trí” (Trương Anh Thuận, 2011, tr.81).
Sự ảnh hưởng của tín ngưỡng người Việt trong sinh hoạt, tín ngưỡng của người Hoa còn
thể hiện qua lễ vật thờ cúng. Đối với người Việt, bàn thờ tổ tiên trong ngày Tết luôn có sự hiện
diện của bình hoa, mâm ngũ quả, bánh…, còn bàn thờ người Hoa, họ sử dụng mâm ngũ cốc.
Nhưng dần dần, qua “thời gian tiếp xúc giao lưu với người Việt, người Hoa nhận thấy mâm ngũ
quả có màu sắc hơn, làm tăng vẻ khang trang cho bàn thờ và có ý nghĩa cầu may chúc phúc đầy
đủ và phát đạt”, vì thế, họ đã tiếp thu điều này và đưa vào thờ cúng trong các gia đình Hoa kiều
như là một vốn văn hóa của dân tộc mình (Trương Anh Thuận, 2011, tr.82).
Theo chúng tôi, ngoài ảnh hưởng từ người Việt tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Hoa
sinh sống tại Hội An chắc chắn còn chịu ảnh hưởng từ người Việt tín ngưỡng thờ cúng Âm linh.
Bởi vì, cả người Việt và người Hoa đều là những cư dân đến sau khi mảnh đất này đã có người
Chăm sinh sống. Cho nên, khi người Việt đến sinh sống và làm ăn tại mảnh đất này đã rất coi

trọng việc thờ cúng Âm linh đặc biệt là thờ cúng những người chủ nhân cũ đã nằm xuống tại
mảnh đất rộng lớn về phương Nam. Khi người Hoa đến sau, trước những niềm tin tôn thờ của
người Việt trước những âm linh, âm hồn tại đây thì ít nhiều cũng sẽ tác động đến thực hành tín
ngưỡng của người Hoa tại Hội An. “Tục cúng tá thổ hoặc mãi thổ là một hình thức cúng đất ở
quy mô xóm hoặc làng, thường được tiến hành khi trong vùng có xảy ra nhiều điều bất an như
dịch bệnh, mất mùa. Buổi lễ này có ý nghĩa tượng trưng cho việc người đang ở được cư dân xưa
kia cho thuê đất (tá thổ) hoặc bán đất (mãi thổ). Trong buổi lễ, dưới hình thức ứng đồng, có hai
người đóng vai vợ chồng chủ đất cùng dân làng đi đo đất (tượng trưng) và đồng ý cho dân làng
thuê hoặc mua. Ngày nay mặc dù lễ mãi thổ hay tá thổ ở quy mô làng xã không còn tổ chức nữa
nhưng ở mỗi gia đình vẫn còn giữ tục cúng đất; ở các vùng nông thôn Quảng Nam-Đà Nẵng, hầu
như nhà nào cũng duy trì lễ cúng này trong các tháng mùa Xuân. Một số gia chủ nghĩ rằng đây là
lễ cúng các thần coi giữ đất đai trong vườn, nhưng chúng ta có thể thấy trong các lời khấn và văn
tế của lễ này đề cập đến một đối tượng là ma Chàm, ma Chợ, ma Mọi, ma Rợ, thương vong đói
khát, ma Lồi, ma Lạc, hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, đẳng chúng cô hồn đồng lai phụ hưởng”
(Võ Văn Thắng, 1998, tr.18).
Sự ảnh hưởng của văn hóa tín ngưỡng người Việt được biểu hiện rõ nét qua Tụy Tiên
đường Minh Hương. Theo nhiều nghiên cứu, Tụy Tiên Đường Minh Hương được cho phép xây
dựng ở Hội An vào giữa thế kỷ 17. Đây là nơi thực hiện nghi lễ với tổ tiên người Minh Hương
tại Hội An. Đây cũng là nơi duy nhất thờ tiền hiền của người Minh Hương ở Hội An nên có ý
nghĩa lớn về mặt lịch sử. Tụy Tiên đường được xem là một di tích biểu trưng cho quá trình tiếp
biến văn hóa sâu sắc ở vùng đất là đô thị cổ - thương cảng Hội An. Bởi những giá trị đó mà Tụy
Tiên đường Minh Hương được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa vào ngày 29.3.1993. Thông
qua kết quả nghiên cứu, phỏng vấn sâu, chúng tôi lắng nghe được tiếng nói của chính những
người Minh Hương về sự giao thoa văn hóa Việt – Hoa trong nếp sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
của người Minh Hương diễn ra tại Tụy Tiên đường Minh Hương.
Theo tiến trình lịch sử Việt Nam, người Hoa ngày càng gắn bó sâu sắc và thấm nhuần các
tập tục của người Việt. Qua các nội dung ghi trên văn bia còn được giữ tại Tụy Tiên đường đã
chứng minh rằng tục cúng tế xuân, thu nhị kỳ vẫn còn được lưu giữ đến nay. Đơn khởi như tục tế
xuân được tổ chức long trọng mỗi năm vào ngày 12.2 âm lịch hằng năm. Trước đó, lễ cúng âm
linh được tổ chức vào ngày 11.2, gồm có thỉnh tro, đàn rước, lễ túc với sự tham gia nghi lễ của

các hình thức nhạc bả trạo, chiêng, trống, thanh la… hết sức rình rang. Tối ngày 11.2, ở phần lễ
có náo nức các trò chơi dân gian thuần Việt như hát bộ, hô hát bài chòi. Sang ngày 12.2, phần tế
xuân được bắt đầu vào khoảng 10h. Tiếp đến là phần giỗ tổ tiền hiền có sự tham gia của nhiều
hình thức tế văn, học trò gia lễ. Sau đó là lễ dâng hương và kết thúc phần lễ chính. Buổi chiều


18

ngày 12.2, phần hội được diễn ra hết sức ấm cúng và trang trọng, bắt đầu bằng lời chúc mừng
năm mới của Ban Trị sự. Sau đó là mừng thọ các bậc cao niên, xổ số may mắn đầu năm, hát hò
khoan, múa lân rộn ràng. Lễ tế xuân ở Tụy Tiên đường Minh Hương kết thúc bằng việc phát quà
cho người nghèo, cơ nhỡ...1
Như vậy, từ những biểu hiện cụ thể và sinh động trên đây, có thể khẳng định rằng, chính
quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa đặc biệt là tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội giữa người Việt và
người Hoa diễn ra trong các thế kỉ XVII, XVIII, XIX ở Hội An đã trở thành nền tảng và là sợi
dây vô hình liên kết hai cộng đồng lại với nhau và làm giàu thêm cho nền văn hóa chung của dân
tộc Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại.
3.2. Xu thế biến đổi của các loại hình tín ngưỡng của người Việt trong bối cảnh phát triển
du lịch ở Quảng Nam hiện nay
3.2.1. Xu thế thế tục hoá và thay đổi trong nghi thức thực hành và lễ vật của các nghi lễ tín
ngưỡng
3.2.1.1. Tín ngưỡng cộng đồng
Qua điền dã, khảo cứu tại địa bàn nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng, trong các loại hình
tín ngưỡng cộng đồng (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Tiền hiền, tín ngưỡng thờ Âm linh)
cũng có sự thay đổi nhất định về mặt hình thức thực hành tín ngưỡng. Người dân vẫn tin theo và
thực hành thờ cúng tuy nhiên về hình thức thì giảm bớt các nghi thức thực hành, lễ vật phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế.
Cụ thể, đối với tín ngường thờ cúng Âm linh, qua quan sát và phỏng vấn lễ cúng Âm linh
tại Lăng Ngũ hành (Khối phố Hà Trung) chúng tôi được biết, việc cúng heo quay là tùy năm,
năm nào người dân làm ăn phát đạt thì họ sẽ cúng dâng heo quay, còn năm nào thất bát thì chỉ

cúng lễ vật thông thương như trái cây, bông, hương, đèn.
Còn đối với tín ngưỡng thờ Mẫu “một số tình tiết rườm rà, bị cho là mê tín trong lễ thức
dành cho các Bà bị cho là mê tín sẽ không còn cơ hội thể hiện như lễ đội mâm dâng bông, múa
chén. Vật phẩm cúng Bà cũng giản dị hơn xưa”(Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.243).
Trong tín ngưỡng thờ Tiền hiền, qua khảo cứu tại một số buổi lễ tại một số đình Tiền hiền
của người Việt ở Hội An như đình Tiền hiền Cẩm Phô, đình Tiền hiền Thanh Nam –Cẩm Nam
chúng tôi thấy sự tham gia của người dân không nhiều, chủ yếu là những người trung niên, lớn
tuổi, người trẻ rất ít, họ đến khi buổi lễ gần kết thúc vào phần đãi tiệc. Theo như lời phỏng vấn
của các vị cao niên trong buổi tế lễ, ngày xưa đối với người dân trong làng việc tham gia những
buổi lễ tại đình tiền hiền là rất quan trọng trong đời sống của họ. Tuy nhiên, có thể do hiện nay,
đời sống có nhiều thay đổi, con người phải lo toan nhiều thứ cho nên một bộ phận người dân đã
giảm đi phần nào trách nhiệm tham gia nghi lễ tại đình mà họ nhường lại việc đó cho cha mẹ,
ông bà? Tuy nhiên, nếu như không có lớp trẻ kế cận nghi thức và nghi lễ trong lễ hội tín ngưỡng
thì liệu rằng tương lai của tín ngưỡng ấy sẽ ra sao?
3.2.1.2. Tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp
a) Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp
Khi con người lựa chọn công nghiệp trở thành ngành trọng điểm cho phát triển, khi đó
nông nghiệp không còn là đối tượng chú trọng nhất nữa. Bởi tín ngưỡng do con người sáng tạo
ra nhằm đem lại cho con người có được cuộc sống bình an và làm ăn may mắn trong cuộc sống.
Chính vì khi nhu cầu của con người không còn nữa thì khi đó tín ngưỡng cũng sẽ nhạt dần.
b) Tín ngưỡng liên quan đến nghề biển
1

Trích Phỏng vấn Ông Tăng Xuyên – Ban Trị Sự Tụy Tiên đường Minh Hương ngày 16 tháng Chạp năm 2018 tại
14, Trần Phú, TP. Hội An. SDĐ: 0975 072 083.


19

Tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam có sự biến đổi để phù hợp với hoàn cảnh kinh

tế - văn hóa – xã hội có nhiều thay đổi.
- Thứ nhất, sự thay đổi trong tập quán kiêng kỵ đối với thế hệ già và thế hệ trẻ
Có thể thấy, so với gốc ban đầu, thì việc kiêng kỵ trong thực hành tín ngưỡng của cư dân
ven biển Quảng Nam có sự giảm bớt đi. Trong thời đại phát triển của khoa học, kỹ thuật, đối với
lớp dân cư có tuổi đời trẻ, dễ dàng hội nhập với thế giới bên ngoài qua mạng lưới Internet thì
việc buộc họ tuân thủ những kiêng cữ nghiêm ngặt như cha ông họ là rất khó. “Nếu xưa kia, đi
biển phải kiêng thịt chó, kiêng gần vợ, cấm phụ nữ bước xuống ghe thuyền thì nay tập quán này
không còn phổ biến”(Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.237).
Qua phỏng vấn chúng tôi được biết, niềm tin vào thế giới thần linh của lớp ngư dân lớn
tuổi là rất lớn, không thay đổi. Phải chăng do cuộc đời của họ đã trải gió dầm sương trên biển,
gặp hoạn nạn, mất mát nhiều cho nên niềm tin của họ mới lớn mạnh như vậy. Còn đối với lớp
người trẻ tuổi, có thể do sự tiếp xúc với công nghệ, tri thức khoa học, họ giải thích các hiện
tượng tự nhiên bằng chứng cứ khoa học nên dù họ vẫn có niềm tin vào thần linh nhưng niềm tin
ấy không phục tùng tuyệt đối lý trí của họ. Họ vẫn tham gia các nghi lễ, lễ hội nhưng lại không
là người trực tiếp thực hành các bước trong quy trình tế lễ, mà họ chỉ tham gia ở phần hội là chủ
yếu. Còn việc thực hành nghi lễ, lễ thức tế lễ vẫn là những cao niên trong cộng đồng.
- Thứ hai, sự thay đổi trong nghi lễ và phong tục thờ Cá Voi
Có thể khẳng định, đối với ngư dân, Cá Voi là một biểu tượng tinh thần, biểu tượng may
mắn và là vị thần phù trợ cho cuộc mưu sinh của họ trên biển lớn là điều thay đổi. Tuy nhiên, đặt
trong sự so sánh trước đây, nhận thấy lễ vật cúng Ông có sự giảm bớt, gọn nhẹ. Nếu như trước
đây “ngoài các vật phẩm cúng cho người, lễ vật của mỗi vạn chài phải có thêm 07 cây cờ thần và
12 thước vải điều. Tuy nhiên, ngày nay lễ này đã không còn. Một số nghi lễ trong đám tang Ông
cũng được rút ngắn về thời gian và giảm bớt nghi thức” (Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.239).
Đối với lễ hội Cầu ngư, nếu như ngày xưa, lễ hội diễn ra trong nhiều ngày, với nhiều hình thức
linh đình, ngày nay lễ hội Cầu ngư vẫn diễn ra nhưng với những thích nghi phù hợp với bối cảnh
kinh tế- văn hóa- xã hội của đất nước. Vẫn có diễn xương, nhưng ngoài những bài hát diễn
xướng truyền thống thì có thêm những bài hát hiện đại viết về que hương, đất nước. Vẫn có đua
thuyền, nhưng là trên những con thuyền lớn, trang hoàng cùng với những tay chèo chắc khỏe,
vạm vỡ mặc quần áo hiện đại chứ không phải khăn đóng áo nâu như ngày xưa. Trong ngày hội,
việc buôn bán kiếm lời đủ các mặt hàng diễn ra, để lại sau những ngày hội đó là bãi rác thải, làm

mất đi sự tinh khiết của biển.
Như vậy, qua những phân tích và nhận định ở trên chúng tôi thấy rằng, nằm trong tiến trình
phát triển lịch sử, vấn đề niềm tin trong thực hành các loại hình tín ngưỡng, trong tôn thờ các đối
tượng thờ phụng của các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam luôn được giữ vững
mà không có sự thay đổi. Tuy nhiên, các lễ thức thực hành tín ngưỡng thì luôn vận động và biến
đổi so với truyền thống để phù hợp với sự biến đổi của xã hội. Đây là sự biến đổi hoàn toàn phù
hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội. Qua đây, có thể khẳng định rằng, trong tương
lai các tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng vẫn sẽ luôn tồn tại, phát triển và tiếp tục có
những biến đổi trong đời sống xã hội. Việc thực hành tín ngưỡng vẫn tiếp tục để nhằm đáp ứng
cho nhu cầu cầu an, cầu may trong cuộc sống của con người nói chung trong đó có người Việt ở
Quảng Nam. Thông qua thực hành tín ngưỡng , cộng đồng dân cư hướng tới cái chân, thiện, mỹ,
cái giá trị đạo đức giữ gìn những giá trị của cha ông, nhớ ơn cội nguồn. Đồng thời, thông qua
thực hành tín ngưỡng, tính cố kết cộng đồng được biểu hiện, con người chung sức phát triển xã
hội vì những mục đích nhân văn, làm cho đời sống xã hội ngày càng phát triển hơn.
3.2.2. Xu hướng phục hồi đời sống tín ngưỡng


20

Xu thế phục hồi đời sống tín ngưỡng trong bối cảnh hiện đại hóa và phát triển du lịch đã
trở thành một nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc trưng của vùng đất Quảng Nam. Việc thực
hành phổ biến các loại hình tín ngưỡng truyền thống cho đến tín ngưỡng tự phát (Lễ cúng cầu an
xóm, khối phố) không chỉ là nơi diễn ra những nghi lễ tâm linh để đáp ứng nhu cầu tinh thần của
con người. Thông qua chính các nghi lễ, lễ hội tín ngưỡng này mang lại nhiều sự tò mò, hiếu kỳ
tìm hiểu những giá trị văn hóa, tín ngưỡng của du khách đến du lịch tại vùng đất này. Điều đó đã
tạo ra một dấu ấn văn hóa riêng trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đang có nhiều sự vận động
theo chiều hướng đa dạng hóa. Bởi nên, những biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng được đặt
trong “vùng tiếp xúc” (Erb, 2000, tr.727) mà du lịch là tác nhân thì cần được hiểu đó chính là
“nơi mà sự tương tác tiếp xúc của các bên tham gia, chứ không phải là chính hoạt động du lịch,
có thể được hình thức hóa và nghi thức hóa” (Trương Thị Thu Hằng, 2012, tr.11).

3.3. Giá trị của tín ngưỡng người Việt trong đời sống văn hóa Quảng Nam
3.3.1. Giá trị tâm linh
Tín ngưỡng là một thành tố của văn hóa. Nói đến tín ngưỡng là nói đến quá trình thiêng hóa
một nhân vật, hiện tượng được con người gửi gắm niềm tin. Quá trình ấy có thể đi kèm theo là
huyền thoại hóa, lịch sử hóa nhân vật phụng thờ. Con người hướng tới những vị thần linh siêu
nhiên, gửi gắm niềm tin vào họ nhằm mong cầu cho cuộc sống của mình có được bình an, may
mắn.
Tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam đã ra đời và tồn tại cùng với lịch sử quá trình di
cư về phương Nam. Tín ngưỡng ấy ra đời trên sự cộng cảm giữa những giá trị văn hóa truyền
thống vốn có của họ từ vùng quê gốc, họ mang theo trong hành trang nam tiến mở cõi. Tại vùng
đất mới, họ đã biết hòa quyện những giá trị văn hóa cũ cùng với những giá trị văn hóa vốn có tại
vùng đất mới nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh tại một vùng đất hoàn toàn mới mẻ. Bởi lẽ, tại
vùng đất hoàn toàn xa lạ, mới mẻ, những yếu tố rủi ro, bất trắc, hiểm nguy luôn đe dọa đến tính
mạng con người. Đặc biệt, những cư dân làm nghề biển, sự bất an càng bủa vây khi nghề nghiệp
của họ lênh đênh trên biển cả mênh mông hết ngày này sang tháng khác. Kết quả điền dã cho
thấy, tín ngưỡng của ngư dân phong phú hơn, đối tượng thờ phụng đa dạng hơn so với người
nông dân. Người nông dân sản xuất trên đồng ruộng cũng có những hiểm họa từ thiên nhiên như
nắng hạn, mưa lụt, rét buốt, dịch bệnh…tuy nhiên, họ vẫn có thể chủ động được phần nào cuộc
sống của mình. Đặc biệt, ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc sản xuất của
người nông dân gặp nhiều thuận lợi hơn nhiều so với ngư dân lênh đênh với sóng lớn ngoài biển
khơi. Hay đối với các nghệ nhân làm nghề thủ công, mỹ nghệ như gốm, mộc, việc thực hiện tín
ngưỡng thờ cúng tổ nghề với những nghi lễ được diễn ra hàng năm cũng thể hiện được sự giá trị
tâm linh của các loại hình tín ngưỡng của người Việt trong đời sống hàng ngày tại vùng đất này.
3.3.2. Giá trị văn hóa nghệ thuật
Tín ngưỡng là một trong những thành tố cấu thành nên các giá trị văn hóa. Sự thực hành các
loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam không chỉ là biểu hiện những giá trị tâm linh
sâu sắc, mà đó còn là môi trường nảy sinh, tiếp biến và bảo tồn nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa
nghệ thuật dân gian tại vùng đất này.
Qua khảo cứu thực tế các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam chúng tôi đều
nhận thấy một điểm chung trong phần nghi lễ của tín ngưỡng đó ngoài phần đọc văn tế, bao giờ

trong buổi lễ cũng có hình thức biểu đạt bằng các loại hình nghệ thuật dân gian được tiếp nối và
sáng tạo truyền thống nhằm chuyển tải những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của cộng đồng
người Việt ở Quảng Nam đối với thế giới thần linh. Đó là các hình thức hát múa bã trạo trong
thực hành nghi lễ của cư dân biển, lễ vía Bà Thu Bồn; hát bài chòi, hát bội, hát hò khoan trong
nghi lễ giỗ tổ nghề mộc, lễ giỗ tổ nghề gốm, lễ cúng mục đồng. Việc thực hành tín ngưỡng song
hành cùng biểu diễn các hình thức diễn xướng nghệ thuật truyền thống không chỉ thể hiện được
ước mong của con người về một thế giới bình yên, qua đó, còn gìn giữ những giá trị văn hóa
nghệ thuật truyền thống của dân tộc nói chung. Nó không những thể hiện được niềm tin, sự thờ


21

phụng của con người vào thế giới thần linh mà còn là môi trường để gìn giữ, trao truyền và sáng
tạo những giá trị nghệ thuật truyền thống trong đời sống hiện tại.
3.3.3. Giá trị cố kết cộng đồng
Tín ngưỡng là một dạng thức tâm linh gắn bó lâu đời với cộng đồng người Việt trong tiến
trình lịch sử ở vùng đất Quảng Nam.Thông qua thực hành tín ngưỡng (gồm thờ cúng, mở lễ hội
tưởng nhớ tri ân các đối tượng thiêng), biểu hiện được sự đoàn kết, sự cố kết bền chặt trong các
mối quan hệ xã hội trong cộng đồng. “Chính sự cố kết cộng đồng bền vững trên cơ sở cùng
chung hệ văn hóa, tín ngưỡng đã thực hiện được chức năng quan trọng của thực hành tín ngưỡng
đó là tập hợp con người, cố kết thành một cộng đồng xã hội – kinh tế - văn hóa bền vững”
(Nguyễn Xuân Hương, 2009. tr.227).
Khi thực hành tín ngưỡng, con người có những quan hệ thân mật và sự giao tiếp phóng
khoáng; con người được tái sinh bằng sự tái hoà nhập cộng đồng. Những quan hệ tưởng như đã
cũ được đổi mới trong những buổi lễ lệ, lễ hội. Khi tham dự tế lễ, sẽ xoá đi sự xa lạ, lạnh lùng
bởi cái thường nhật lặp đi lặp lại trong quan hệ giữa con người với nhau. Bởi vậy, nhiều cung bậc
tình cảm, như tình làng xóm, tình đồng bào, tình phường hội, tình thân tộc và tình cảm bạn bè,
nhờ vào không khí tế lễ, hội hè, cũng có thêm sắc thái mới. Nhờ vậy, dường như mỗi con người
đều tự cảm thấy mình đang được trở về với chính mình, mình đích thực là con người giữa cộng
đồng.

3.3.4. Giá trị giữ gìn những giá trị truyền thống
Qua khảo cứu và phân tích các loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam chúng tôi
nhận thấy rằng ở đó có một tâm thức hướng về cội nguồn được biểu thị rất đậm nét. Qua các bài
văn tế tại tất cả các buổi tế tự, qua các hình thức cúng tế: Thờ cúng Mẫu, cúng Âm linh, thờ cúng
Tiền hiền, thờ cúng Tổ nghề ở các loại hình tín ngưỡng là minh chứng rõ nét nhất cho điều này.
Người Việt là cộng đồng cư dân nông nghiệp làm lúa nước, bởi vậy ngay từ trong lịch sử
hình thành các giá trị văn hóa, họ đã tạo ra một hằng số văn hóa thiên về Mẹ, đó là tín ngưỡng
thờ Mẫu. Thờ Mẫu đã phản ánh được trong lịch sử văn hóa của tổ tiên ta vai trò của người phụ
nữ luôn có vị trí quan trọng trong gia đình, xã hội và trong đời sống cộng đồng. Do vậy, trong
cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ thuật thì chữ “Mẫu”, chữ “Mẹ”, chữ
“Cái” vẫn giữ nguyên giá trị như nó vốn có cho đến bây giờ. Cũng như thế, ý nghĩa của chữ
Mẫu-Mẹ trong các danh từ Nữ thần, Mẫu thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Quảng
Nam cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó. Từ khi người Việt nam tiến vào miền trung, họ đã Việt
hoá vị thần mẹ Chăm để trở thành Mẫu thần Việt và gọi với các tên Thiên Ya Na thánh Mẫu, Bà
Chúa Ngọc…
Người Việt nói chung, từ trong lịch sử đã có một lối sống trọng tình nghĩa, nhân ái đối với
những kiếp người khốn khổ, những người bị chết không có nơi thờ tự. Khi người Việt đến khai
sơn lập địa tại vùng đất mới, mà vùng đất này trước đây cũng đã có cư dân sinh sống. Bởi vậy,
người Việt thực hành tín ngưỡng thờ cúng Âm hồn/ Cô Bác/ Người chết không nơi chôn cất. Bản
chất của thực hành tín ngưỡng là mang tư tưởng thực dụng (vì người thực hiện luôn gửi gắm
những ước nguyện trong hành vi của mình), tuy nhiên, qua việc thực hành nghi lễ vẫn thấm
nhuần tinh thần nhân ái, trọng quý sinh mệnh cộng đồng người đã khuất.
Người Việt từ miền Bắc vào miền Trung khai lập vùng đất mới, họ ra đi mang theo truyền
thống văn hóa lâu đời cùng hòa nhập với đời sống hiện thực, một trong những giá trị văn hóa họ
gìn giữ đó chính là truyền thống hiếu nghĩa. Ở góc độ làng (vượt ra ngoài gia đình – hiếu nghĩa
tổ tiên), sự hiếu nghĩa được mở rộng thành tín ngưỡng thờ cúng Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền
khai cơ. Có thể xem đây là một dạng thức thờ tổ tiên ở cấp cộng đồng làng xã vì bản chất thờ
phụng là tri ân những người đã có công khai khẩn đất đai, lập nên làng xóm, khai mở nghề
nghiệp. Các vị này, trước hết là tổ tiên của các dòng tộc trong làng. Chính công lao mở xóm, lập
làng của họ đã được cộng đồng thừa nhận và tôn vinh thành Tiền hiền. Cơ sở của việc suy tôn là

thông qua lịch sử của các gia tộc truyền từ đời này sang đời khác mà thành lịch sử về các vị Tổ
của làng. Như vậy, từ trong tâm thức người Việt ở Quảng Nam, việc ngưỡng vọng, nhớ về tổ tiên


22

là điều luôn thường trực trong đời sống của con người nơi đây. Niềm tin ấy đã trở thành tín
ngưỡng thờ Tiền hiền rất phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở đây.
3.3.5. Giá trị phát triển du lịch
Hiện nay, một số loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, ngoài những giá trị về văn hóa nghệ thuật,
còn có giá trị về phát triển du lịch. Thực chất, du lịch cũng là một dạng thức hoạt động văn hóa
của con người, thông qua du lịch, các giá trị văn hóa được biểu hiện, tiếp biến, giao lưu và hình
ảnh văn hóa của con người tại địa phương ấy được mở rộng. “Du lịch có thể tự nó mang ý nghĩa
nghi lễ và tôn giáo và vì vậy, nó hoàn toàn có thể nhận thức như là một thực hành tôn giáo với
các ý nghĩa mà người tín đồ tìm kiếm để làm lẽ sống cho cuộc đời mình”(Trương Thị Thu Hằng,
2012, tr.59).
Thực tế, việc thực hành tín ngưỡng bao gồm cả phần nghi lễ và thực hành lễ hội của người
Việt ở Quảng Nam (qua nghiên cứu trường hợp tại Thành phố Hội An) có nhiều lợi thể thuận lợi
cho việc phát triển du lịch. Theo thống kê từ Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An (Trung
tâm bảo tồn di tích Hội An, 2008), hiện có hơn 1360 di tích ở Hội An. Trong đó có 1.273 di tích
kiến trúc nghệ thuật, bao gồm nhà ở, nhà thờ tộc, đình, hội quán, chùa, nhà thờ - thánh thất, cầu,
giếng, chợ, lăng – miếu, mộ. Đây chính là tài sản quý báu để bảo tồn và phát huy bản sắc đồng
thời phục vụ cho hoạt động du lịch của Hội An. Hoạt động du lịch nên chú trọng kết hợp giữa du
lịch sinh thái gắn với du lịch tâm linh, để du khách có thể hòa mình với những lễ hội, lễ cúng
đậm chất nhân văn của người Việt ở Quảng Nam như lễ cúng Mục đồng, lễ Cầu ngư, lễ cúng Âm
hồn, lễ giỗ tổ nghề gốm, lễ giỗ tổ nghề mộc…Theo như các nghiên cứu đã chỉ ra: “trong các
dạng thức của tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có giá trị phục vụ du lịch
rất lớn…có tính hấp dẫn cao đối với du khách. Kinh nghiệm cho thấy nơi nào bảo tồn và phát
triển được những nét truyền thống trong phần hội với những trò chơi mang tính dân gian thì lễ
hội nơi đó có giá trị hơn, có sức hấp dẫn hơn” (Nguyễn Xuân Hương, 2009, tr.227). Như vậy,

trong quá trình bảo tồn và phát triển các loại hình tín ngưỡng, nếu kết hợp với hoạt động du lịch
thì sẽ góp phần quảng bá giá trị lịch sử, nhân văn của các loại hình tín ngưỡng đến với du khách.
Điều đó cũng sẽ đem lại cho những người dân địa phương lợi ích kép (lợi ích về tinh thần và lợi
ích về kinh tế) khi chính họ là người được hưởng lợi từ trong quá trình thực hành tín ngưỡng.
* Tiểu kết chương 03:
Như vậy, trong chương này chúng tôi đã phân tích sự ảnh hưởng của các lớp văn hóa ở
Quảng Nam đến văn hóa tín ngưỡng người Việt (đó là văn hóa tín ngưỡng của người Chăm,
người Môn – Khmer và người Hoa); đồng thời chúng tôi cũng phân tích sự ảnh hưởng ngược lại
văn hóa tín ngưỡng người Việt đến đời sống văn hóa tín ngưỡng của các cộng đồng cư dân đang
sinh sống ở Quảng Nam. Qua đó cho thấy, văn hóa nói chung trong đó có tín ngưỡng luôn luôn
tồn tại trong trạng thái động và có sự tác động qua lại với nhau. Nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn hóa với tín ngưỡng để thấy được sự đa dạng trong đời sống tinh thần của con người và làm
nên bức tranh văn hóa tín ngưỡng đậm đà bản sắc. Sự ảnh hưởng của văn hóa của các tộc người
khác đến văn hóa người Việt không chỉ qua yếu tố văn hóa vật chất (kiến trúc, công cụ lao động)
mà đó còn là sự ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn hóa tinh thần nhất là trong sinh hoạt tín
ngưỡng.
Bên cạnh đó, trong chương này chúng tôi còn phân tích làm rõ các xu thế biến đổi của các
loại hình tín ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam. Trong đó, 02 biến đổi được tập trung làm rõ
đó là xu thế thế tục hóa, giảm bớt nghi thức và lễ vật và xu hướng phục hồi đời sống tín ngưỡng
trong bối cảnh hiện đại hóa và phát triển du lịch. Bởi vì tín ngưỡng là một thành tố của văn hóa,
cho nên trong dòng chảy phát triển lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - văn hóa – xã hội
của mỗi giai đoạn, việc thực hành các lễ thức tín ngưỡng có sự thay đổi để thích nghi với điều
kiện sống mới. Đây là sự thay đổi hợp lý, tất yếu. Tuy nhiên, xét về bản chất tâm thức, về tính
thiêng của các loại hình tín ngưỡng của người dân không thay đổi. Đối với cộng đồng người Việt
ở Quảng Nam, họ luôn tin vào sự hiện hữu của thần linh và việc cúng kiếng không chỉ là biểu


×