Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

MIẾU và hội QUÁN của NGƯỜI HOA ở VIỆT NAM (từ CUỐI THẾ kỷ XVI đến CUỐI THẾ kỷ XIX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.63 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐÀO VĨNH HỢP

MIẾU VÀ HỘI QUÁN CỦA NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
(TỪ CUỐI THẾ KỶ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại
Mã số: 62.22.54.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2020


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN – ĐHQG TP.HCM

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TRẦN THỊ MAI
2. TS. HOÀNG ANH TUẤN

Chủ tịch hội đồng:........................................................................
Phản biện độc lập 1:.....................................................................
Phản biện độc lập 2......................................................................
Phản biện 1:.....................................................................
Phản biện 2:.....................................................................
Phản biện 3......................................................................


Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường vào lúc
......giờ .....phút......ngày.....tháng......năm......
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
2. Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
3. Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
4. Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử, ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP.HCM


DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ TRONG NƯỚC
1. 2015. “Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)”. Tạp chí Phát triển
Khoa học & Công nghệ – ĐHQG TP. HCM. X5/2015. tr.51 – 63. ISSN: 1859 – 0128.
2. 2018. “Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa. hội nhập và phát
triển”. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ – ĐHQG TP. HCM. Tập 2. Số 4. 2018. tr.11 – 20.
ISSN: 1859 – 0128.
3. 2016. “Hoành phi liễn đối tại hội quán Trung Hoa (Hội An) – giá trị tư liệu quý cần nghiên cứu
bảo tồn”. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ – ĐHQG TP. HCM. X4/2016. tr.166 – 179. ISSN:
1859 – 0128.
4. 2016. “Miếu. hội quán của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh – Lịch sử hình thành. phát
triển và hiện trạng”. Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn. Số 21 (46) (10/2016). tr.91-98. ISSN: 1859 –
3208.
5. 2018. “Miếu và hội quán của người Hoa ở Đông Nam Bộ trước tác động của quá trình đô thị
hóa”. Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một. số 1(36) – 2018. tr.125-133.
ISSN: 1859 – 4433.
6. 2018. “Tín ngưỡng thờ cúng Thiên Hậu của cộng đồng người Hoa ở ven biển miền Trung
(trường hợp khu vực Trung Trung Bộ)”. Tạp chí phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng. Số 107 (11.2018).
tr.53-59. ISSN: 1859 – 3437.
II. BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ

7. 2014. “Lễ vía Bà Thiên Hậu ở Hội An trong quá trình phát triển du lịch”. Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc tế “Lễ hội cộng đồng: truyền thống và biến đổi”. NXB. ĐHQG TP.HCM. ISBN: 978 –
604 – 73 – 2701 – 0.
8. 2017. “Tourism development in Hoi An ancient town – the world heritage (Quang Nam
province) inherent in preservation and bringing into play the huiguans architecture of the Hoa people”.
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế: “Critical issues for sustainable tourism development in South East
Asia”. NXB. ĐH QG Hà Nội. ISBN: 987 – 604 – 62 – 9781 – 9.
9. 2018. “Triết lý nhân sinh của người Hoa ở Nam Bộ nhìn từ khía cạnh văn hóa tâm linh (nghiên
cứu trường hợp người Hoa ở An Giang)”. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: “Triết lý nhân sinh của người dân
Nam Bộ. Việt Nam”. NXB. ĐH Cần Thơ. ISBN: 978 – 604 – 965 – 094 – 9.
10. 2018. “Bảo tồn và phát huy giá trị kiến trúc cổ các hội quán người Hoa ở Hội An (Quảng
Nam) trong phát triển du lịch bền vững”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế (có phản biện) chủ đề: Kết
nối Việt Nam lần thứ 9 – Đối thoại liên ngành. NXB. ĐHQG TP.HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 6621 –
7.
11. 2019. “Khai thác giá trị di sản văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch bền vững tại Hội
An (Quảng Nam)”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế Vesak LHQ 2019 “Cách tiếp cận của Phật giáo
về lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”. Tiểu ban “Gia Đình hòa hợp và
xã hội bền vững”. NXB. Tôn giáo. ISBN: 978 – 604 – 61 – 62701 – 4.


III. BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN KỶ YẾU HỘI THẢO TRONG NƯỚC
12. 2014. “Tín ngưỡng thờ cúng Thiên Hậu trong các miếu. hội quán của người Hoa ở Thành
phố Hồ Chí Minh (Qua khảo sát hiện trạng các miếu (hội quán)”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia
“Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ – Bản sắc và giá trị”. NXB. Đại học QG TP. HCM. ISBN: 978 – 604
– 73 – 2530 – 6.
13. 2015. “Văn hóa gia đình. dòng họ của người Hoa. Minh Hương ở Hội An trong phát triển du
lịch hiện nay”. Kỷ yếu Hội thảo cấp quốc gia “Văn hoá gia đình. dòng và gia phả Việt Nam”. NXB.
ĐHQG TP.HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 3839 – 3.
14. 2016. “Các miếu Hoa ở Bình Dương trong quá trình đô thị hóa hiện nay”. Kỷ yếu Hội thảo
cấp quốc gia “20 năm đô thị hóa Bình Dương”. Hội thảo được tổ chức tại Đại học Thủ Dầu Một ngày

16.1.2016.
15. 2016. “Những cổ vật thờ tự gắn với ngôi miếu Hoa đầu tiên ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí
Minh”. Kỷ yếu Hội nghị thông báo khảo cổ toàn quốc học lần thứ 50. NXB. KHXH. ISBN: 978 – 604
– 73 – 3839 – 3.
16. 2016. “Các giá trị văn hóa truyền thống của người Hoa ở Bình Dương trong quá trình phát
triển và hội nhập hiện nay”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cấp quốc gia “Bình Dương 20 năm hội nhập và
phát triển 1997 – 2007”. Hội thảo do trường ĐH Thủ Dầu Một phối hợp với trường ĐH KHXHNV TP.
HCM và Hội KHLS Bình Dương tổ chức. ngày 26/12/2016.
17. 2017. “Tín ngưỡng thờ nữ thần trong các miếu. hội quán của người Hoa ở Đồng Nai (qua
khảo cứu hiện trạng các di tích tại Biên Hòa)”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Tín ngưỡng thờ nữ thần và
thực hành Bóng rỗi – Địa nàng ở Nam Bộ”. Hội thảo do Hội văn hóa dân gian TP. HCM. Hội KHLS
tỉnh Đồng Nai và Sở VH – TT – DL Đồng Nai tổ chức ngày 23/5/2017.
18. 2017. “Điểm qua những nghiên cứu của người nước ngoài về người Hoa ở Nam Bộ từ sau
năm 1698 đến nay”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nam Bộ từ năm 1698 đến nay qua nghiên cứu của
người nước ngoài”. Hội thảo được tổ chức tại ĐH Thủ Dầu Một ngày 31/8/2017.
19. 2017. “Trang trí trên các lư hương cổ trong các Miếu – Hội quán của người Hoa ở TP.
HCM”. Kỷ yếu Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc lần thứ 51/ năm 2016. NXB. KHXH. ISBN:
978 – 604 – 956 – 060 – 6.
20. 2017. “Liên hệ giữa miếu và Hội quán người Hoa ở TP. HCM và Hội An qua một số cổ vật
thờ”. Kỷ yếu Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc lần thứ 51/ năm 2016. NXB. KHXH. ISBN:
978 – 604 – 956 – 060 – 6.
21. 2017. “Bảo tồn. phát huy giá trị kiến trúc tín ngưỡng. tôn giáo của người Hoa ở thành phố
Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa: Thực trạng và giải pháp”. Kỷ yếu Hội thảo khoa hoc quốc gia
“Đô thị hóa và phát triển đô thị bền vững vùng Nam Bộ: Lý luận. thực tiễn và đối thoại chính sách”.
NXB. KHXH. ISBN: 978 – 604 – 956 – 116 – 0.
22. 2018. “Phát triển du lịch Di sản văn hóa ở TP. HCM qua các kiến trúc tín ngưỡng. văn hóa
của người Hoa”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Phát triển Du lịch Di sản văn hóa trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh”. Hội thảo do Sở Du lịch TP. HCM phối hợp với Hội DSVH TP. HCM tổ chức ngày
22/11/2018.



23. 2018. “Một số di vật niên đại sớm ở Hội quán Triều Châu. phường Sơn Phong. thành phố
Hội An. tỉnh Quảng Nam”. Kỷ yếu Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc năm 2017: Những phát
hiện mới về Khảo cổ học năm 2017. NXB. KHXH – HN. ISBN: 978 – 604 – 956396 – 6.
24. 2018. “Bộ lư hương ngũ sự ở miếu Thiên Hậu – hội quán Quỳnh Phủ tại Thành Phố Hồ Chí
Minh. Kỷ yếu Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc năm 2017: Những phát hiện mới về Khảo cổ
học năm 2017. NXB. KHXH – HN. ISBN: 978 – 604 – 956396 – 6.
25. 2018. “Kiến trúc cổ hội quán Quảng Triệu ở thành phố Hội An. tỉnh Quảng Nam”. Kỷ yếu
Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc năm 2017: Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2017.
NXB. KHXH – HN. ISBN: 978 – 604 – 956396 – 6.
26. 2018. “Đặc điểm lối sống quần cư và tương trợ lẫn nhau của cộng đồng người Hoa ở Bình
Dương nhìn từ góc độ kinh tế và văn hóa”. Kỷ yếu Hội thảo khao học cấp quốc gia “ Phát triển xã hội
học công ở Việt Nam”. Hội thảo do trường ĐHKHXHNV TP. HCM và Viện KHXH vùng Nam Bộ tổ
chức ngày 21/12/2018 tại trường ĐH KHXHNV TP. HCM.
27. 2018. “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu qua hoạt động thờ cúng và lễ hội
tại các di tích hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia
“Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam”. Hội thảo do Viện nghiên cứu tôn giáo (Viện Hàn lâm
KHXH VN) và Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (Giáo hội Phật giáo Việt Nam) tổ chức ngày
16/12/2018.
IV. SÁCH XUẤT BẢN TRONG NƯỚC
28. 2012. “Dấu ấn về một ngôi miếu cổ bên dòng kênh Tàu Hủ”. Nam Bộ Đất và Người. Tập 9.
ĐHQGTP. HCM. tr. 134 – 142. NXB. ĐHQG TP. HCM. ISBN: 565 – 2013/CXB/04 – 31
29. 2014. “Người Hoa và các miếu Hoa ở An Giang”. Nam bộ Đất và Người. Tập 11. NXB.
ĐHQG TP. HCM. tr.611 – 629. NXB. ĐHQG TP. HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 4227 – 3.
30. 2016. “Tiềm năng phát triển du lịch ở thành phố Cần Thơ qua di sản miếu. hội quán của
người Hoa”. Nam Bộ Đất và Người. Tập 12. NXB. ĐHQG TP. HCM. tr.676 – 689.
NXB. ĐHQG
TP. HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 5518 – 1.



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Khởi phát từ sự di cư khỏi Trung Quốc, rồi nhập cư và sinh sống trên đất Việt
Nam, người Hoa đã dần dần xây dựng riêng cho mình các cơ sở kinh tế – xã hội và văn
hóa để phục vụ nhu cầu sinh tồn, phát triển trên vùng đất mới. Ngoài những cơ sở vật
chất căn bản như nhà cửa, nơi sản xuất, làm ăn buôn bán thì việc thiết lập các thiết chế
mang tính chất cộng đồng là rất quan trọng. Các cơ sở như cảng, chợ, khu phố, hội
quán, miếu, trường học, bệnh viện, nghĩa trang… và sự vận hành, hoạt động của chúng
tạo thành các thiết chế xương sống của các khu định cư, hình thành nên đời sống cộng
đồng đặc trưng của người Hoa. Trong số đó, miếu và hội quán là hai thiết chế ra đời
sớm, tồn tại liên tục và có vai trò thiết yếu đối với cộng đồng người Hoa ở Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu trước đây về người Hoa ở Việt Nam dưới góc độ sử học
đã tập trung làm rõ tiến trình thiết lập cộng đồng, các chính sách của nhà nước Việt
Nam qua các thời kỳ, các hoạt động thương mại của người Hoa,... tuy nhiên chưa có
điều kiện đi sâu vào bên trong tổ chức cộng đồng và chưa đề cập đến thiết chế miếu,
hội quán một cách có hệ thống.
1.2. Lý do thực tiễn
Nghiên cứu miếu, hội quán, một loại hình di sản vật chất và tinh thần quan trọng
của người Hoa thực chất nhằm hiểu rõ và ứng xử đúng đắn với cộng đồng người Hoa
trong quá khứ và hiện tại, điều đó có tầm quan trọng nhiều mặt đối với sự phát triển
của Việt Nam. Hiện nay, miếu và hội quán liên quan trực tiếp đến các vấn đề của xã
hội Việt Nam nói chung và cộng đồng Hoa nói riêng, chủ yếu trên 3 lĩnh vực: phát
triển kinh tế, vấn đề dân tộc và bảo tồn di sản văn hóa.
Từ những căn cứ khoa học và thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài “Miếu và hội
quán của người Hoa ở Việt Nam (từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX)” làm đề
tài Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án đặt mục đích làm rõ những vấn đề lịch sử liên quan đến quá trình thành
lập, hoạt động và phát triển thiết chế miếu và hội quán của người Hoa ở Việt Nam qua
3 thế kỷ (cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX). Đồng thời, từ những vấn đề khoa học


2

được làm rõ, luận án gợi mở những vấn đề của thực tiễn, chủ yếu trên ba lĩnh vực: vấn
đề dân tộc, phát triển kinh tế và bảo tồn di sản đối với cộng đồng người Hoa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu miếu và hội quán nhằm hiểu biết sâu sắc hơn, toàn diện
hơn về lịch sử cộng đồng người Hoa ở Việt Nam; làm rõ những vấn đề lịch sử Việt
Nam thế kỷ XVI - XIX, đặc biệt về khía cạnh lịch sử kinh tế, văn hóa; tìm hiểu quá
trình hình thành các đô thị ở Việt Nam thời trung đại; làm rõ hơn những đặc điểm về
quá trình tiếp biến văn hóa giữa cộng đồng Hoa với các cộng đồng dân tộc khác trên
đất nước Việt Nam và tính dung hợp văn hóa trong nền văn hóa Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thiết chế miếu và hội quán của người Hoa ở
Việt Nam. Đối với miếu, đây là những cơ sở tín ngưỡng cộng đồng có chức năng thờ
tự các vị thần thánh dân gian của cư dân các vùng duyên hải phía Đông Nam Trung
Hoa. Đối với hội quán, đây vừa là một tổ chức xã hội (có vai trò điều phối các mối
quan hệ xã hội, đặc biệt trên lĩnh vực sinh hoạt kinh tế), vừa là một nơi để gặp gỡ, hội
họp của một cộng đồng Hoa vốn được tổ chức dựa trên những tiêu chuẩn về địa lý,
phương ngữ hoặc các mối quan hệ dòng tộc. Qua thống kê, khảo sát, luận án đưa ra
trường hợp 149 miếu, hội quán của người Hoa trên cả nước có niên đại xây dựng từ
cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về thời gian

Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài nằm trong giai đoạn: từ cuối thế kỷ XVI
đến cuối thế kỷ XIX. Luận án đi sâu giải quyết những vấn đề khoa học về lịch sử hình
thành và phát triển các thiết chế miếu hội quán ở Việt Nam. Đây là thời kỳ người Hoa
bắt đầu hiện diện, định hình nên các nhóm cộng đồng cư dân Hoa ngày càng hoàn
chỉnh, đồng thời hòa nhập mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam. Mốc thời gian trên phản ánh
các hiện tượng lịch sử phát triển khác nhau của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam qua
3 thời kỳ: từ cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII, từ giữa thế kỷ XVII đến cuối thế
kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX.
3.2.2. Về không gian


3

Đề tài có phạm vi không gian bao quát trên cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình định cư dưới
thời phong kiến, người Hoa chỉ tập trung trong một số đô thị cảng nhất định.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản của sử học đó là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. Bên cạnh công việc
nghiên cứu, tham khảo các công trình đi trước, một trong những phương pháp nghiên
cứu đầu tiên được nghiên cứu sinh sử dụng là phương pháp điền dã lịch sử. Tác giả
luận án cũng đã sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp phương pháp
nghiên cứu sử học với các phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác như:
dân tộc học, văn hoá học, khảo cổ học, Hán Nôm…Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
phương pháp nghiên cứu so sánh để so sánh những đặc điểm của miếu, hội quán ở các
vùng miền và giữa miếu, hội quán ở Việt Nam với miếu, hội quán ở nước ngoài.
4.2. Nguồn tư liệu
Nhóm nguồn tư liệu thư tịch và các công trình nghiên cứu : Các bộ chính sử của
Quốc sử quán triều Nguyễn, các công trình của các học giả thời phong kiến, các công
trình du ký của các học giả nước ngoài; các công trình xuất bản gần đây bao gồm: các

sách chuyên khảo, kỷ yếu hội thảo, luận văn, luận án nghiên cứu về người Hoa nói
chung và miếu, hội quán nói riêng của các tác giả trong và ngoài nước.
Nhóm nguồn tư liệu nghiên cứu, điền dã: Tư liệu điền dã tại các di tích miếu, hội
quán ở những khu vực định cư của người Hoa hiện còn bảo tồn được các kiến trúc cổ
có giá trị, thường cũng là những khu phố thương mại nổi tiếng trước đây. Ngoài ra, còn
có tư liệu điền dã tại Đài Bắc, Đài Loan. Các tư liệu bao gồm các bản chụp ảnh di tích,
văn bia, địa bạ, tài liệu thương mại, hành chính của các hội quán...
5. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án nghiên cứu làm rõ một số luận điểm khoa học sau đây:
(1) Nghiên cứu miếu, hội quán một cách toàn diện trên phạm vi cả nước dưới góc
độ sử học, từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện về đời sống kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng
cộng đồng của di dân Hoa ở Việt Nam, làm rõ những đặc trưng, bản sắc riêng của từng
cộng đồng Hoa trong mỗi giai đoạn lịch sử hoặc ở từng địa phương cụ thể, chỉ ra
nguyên nhân, động lực và các bước phát triển, cũng như vị trí, vai trò của người Hoa
trong tiến trình lịch sử Việt Nam. (2) Đóng góp những cứ liệu mới bổ sung tri thức lịch
sử về thời kỳ phong kiến Việt Nam, đặc biệt liên quan đến tri thức lịch sử kinh tế và


4

lịch sử văn hóa. (3) Đưa ra một số kết quả nghiên cứu cụ thể về những sự kiện lịch sử
liên quan đến tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa của người Hoa mà các công trình đi
trước chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở, lý giải một số quan điểm chưa thống nhất giữa
các nhà khoa học khi nghiên cứu vấn đề người Hoa ở Việt Nam. (4) Những quan điểm,
tư liệu và nhận thức khoa học rút ra từ luận án có thể làm căn cứ khoa học để kiến nghị
những chính sách đối với cộng đồng người Hoa trên các phương diện: phát triển kinh
tế – văn hóa, chính sách dân tộc, bảo tồn di sản văn hóa.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mục lục, mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được chia làm 04 chương, 11 tiết và 30 tiểu tiết, cụ thể như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Bối cảnh và các yếu tố tác động đến sự phát triển của miếu, hội quán
người Hoa ở Việt Nam thế
Chương 3: Quá trình hình thành, phát triển và những biến đổi của miếu, hội quán
người Hoa ở Việt Nam
Chương 4: Miếu, hội quán của người Hoa ở Việt Nam: Đặc điểm phát triển, vai
trò và những đóng góp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý luận và khái niệm
1.1.1. Về “người Hoa”
Thực tế ở Việt Nam, cho đến những năm 1960, khi nghiên cứu về cộng đồng người
Hoa, các nhà nghiên cứu trong nước vẫn chưa sử dụng khái niệm “người Hoa” một cách phổ
biến. Trong sử sách thời phong kiến, đặc biệt dưới triều Nguyễn các nhà chép sử đã sử dụng
phổ biến tên gọi “Đường nhân” (người Đường) để chỉ những người Trung Quốc sang tạm trú,
làm ăn buôn bán ở nước ta (ngoài tên gọi Minh Hương dành cho khối cư dân thường trú đặc
biệt). Từ thời Lê sơ đến đầu thời Minh Mạng nhà Nguyễn, thì tên gọi “Đường nhân” vẫn
được dùng phổ biến cho bộ phận người Hoa tạm trú. Đến khoảng năm Minh Mạng thứ 10
(1829), trong sử sách ít thấy sử dụng tên gọi “người Đường” nữa, thay vào đó tên là gọi
“người Thanh” hoặc “người nước Thanh”. Như vậy, ngoài tên gọi Minh Hương, thì “người
Đường”, “người Thanh” là tên gọi dùng để chỉ bộ phận cư dân Hoa sang sinh sống ở nước ta.
Thuật ngữ “người Hoa” được sử dụng trong luận án gồm những tên gọi chính
thống được sử dụng trong nước để chỉ các thành phần cư dân Hoa theo quan điểm của


5

nhà nước Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử. Khái niệm “người Hoa” như vậy sẽ
không bao hàm hết toàn bộ người Minh Hương nhưng cũng không giới hạn ở những
lớp cư dân là những Đường nhân, Thanh nhân mà sẽ mở rộng đến một số thành phần

cư dân Minh Hương (cựu phố, cựu thần và tân thuộc). Tuy nhiên, nhóm cư dân Minh
Hương nguyên ngạch (tức thế hệ Minh Hương lai Việt – Hoa ) có những đặc điểm
riêng trong sự phát triển bởi ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình Việt hóa về huyết
thống và văn hóa, do đo cần phải được phân biệt và tách bạch rõ ràng với khái niệm
“người Hoa”.
1.1.1. Về “Miếu”
Trong các từ điển Hán Việt hoặc từ điển tiếng Việt hiện đại đều cho biết thông tin
giản lược về “miếu”: đó là một cái điện nằm trước cung vua, là nơi để thờ cha mẹ, ông
bà, tổ tiên của nhà vua, là nơi thờ quỷ, thần,... (Thiều Chửu, 2004, tr.180) hay là nơi
thờ thần thánh (hoặc những nhân vật đã được thần thánh hóa), một đền thờ nhỏ (Viện
ngôn ngữ, 2003, tr.632). Các vị thần thánh dân gian của cư dân các tỉnh duyên hải phía
Đông Nam Trung Quốc như Quan Thánh, Thiên Hậu, Ông Bổn là đối tượng thờ tự
chính trong các công trình tín ngưỡng “miếu” của cộng đồng Hoa ở Việt Nam. Những
nơi này gọi là “miếu” hoặc là “cung”, đó là 2 tên gọi chính thức. Thực tế, cung hay
miếu đều chỉ về một nơi thờ tự nhưng sắc thái ý nghĩa của 2 tên gọi đó cũng có những
khác nhau ở mức độ nhất định (Trần Hồng Liên, 2005, tr.10 – 11).
1.1.2. Về “Hội quán”
Theo từ điển Hán Việt và từ điển tiếng Việt hiện đại thì “Hội quán” là ngôi nhà để
những người cùng đoàn thể tới gặp gỡ nhau hay đơn giản hơn, hội quán là trụ sở của
một hội (Viện ngôn ngữ, 2003, tr.459). Tuy nhiên, thực tế hội quán được hiểu theo
nhiều cách hiểu khác nhau: (1) Hội quán là trụ sở của một bang, hội (Huiguan =
Assembly Hall): Với tư cách là trụ sở của một bang, hội, hội quán có 3 chức năng
chính: một là trụ sở hội đồng hương, hai là trụ sở hành chính của bang và ba là trụ sở
hội liên lạc công thương gia trong bang. Ba chức năng này đan xen vào nhau. Ở cách
hiểu này, hội quán hoàn toàn khác biệt với đình, chùa, từ đường,… vì giữa chúng khác
nhau về đặc điểm, chức năng và hội quán không có chức năng tín ngưỡng (Li Tana &
Nguyễn Cẩm Thuý (Chủ biên), 1999, tr.63 – 81). (2) Hội quán là một tổ chức xã hội
(Huiguan = Association): Với nghĩa này, hội quán là 1 tổ chức xã hội, chứ không đơn
thuần chỉ là trụ sở của hội đồng hương, hội công thương hay trụ sở hành chính của một



6

bang. Như bi ký Tuệ Thành hội quán kiến trí thổ phố thường nghiệp bi ký (Sài Gòn),
lập vào các năm 1856, 1858, 1859, 1860 có đề cập. Ở đây, hội quán là một tổ chức xã
hội, được “mua” và “sở hữu” các nhà đất. Nhưng thời điểm này (tức năm 1856) nó
chưa hoàn toàn có thể thay thế cho tên gọi bang và hội quán được khẳng định vẫn chỉ
là 1 tổ chức “ở trong” bang mà thôi. (3) Hội quán là một cơ sở văn hóa, tín ngưỡng
(Huiguan = Temple): Nếu như các cách hiểu ở trên đã phân biệt rõ hội quán khác hoàn
toàn với các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo như đền chùa, cung miếu thì cách hiểu thứ 3
này lại tạo ra một loại hội quán mà bao gồm thêm chức năng của miếu (điều này cũng
có nguyên nhân khách quan vì trong các hội quán dần dần xuất hiện các hình thức thờ
tự hoặc là được lập nên ở các ngôi miếu có sẵn): (4) Mối quan hệ giữa hội quán và tổ
chức bang: Hội quán với tư cách là một tổ chức xã hội, có nhiều mối quan hệ với tổ
chức bang cả về nguồn gốc, tiến trình lịch sử tổ chức cộng đồng người Hoa và những
quan hệ giữa 2 tổ chức trong từng thời kỳ. Trước khi có tổ chức bang, hội quán là tổ
chức quan trọng nhất của người Hoa ở Việt Nam, khi bang thành lập (đầu thế kỷ XIX)
thì hội quán vẫn thực thi các chức năng của nó, như đã ghi nhận ở bi ký trong các hội
quán. Sau khi tổ chức bang bị giải thể (do chính sách của chính quyền Pháp ở thuộc địa
và được tiếp nối bởi chính quyền Việt Nam Cộng hòa) thì tên gọi hội quán dần dần
thay thế cho bang, dần dần nhất thể hóa hội quán với bang. Tuy nhiên, so với bang thì
vai trò của hội quán có những khác biệt nhất định.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình và kết quả nghiên cứu
Cộng đồng người Hoa từ cuối thế kỷ XVI đã ít nhiều được phản ánh trong các
biên chép của một số tác giả đương thời và sử sách nhà Nguyễn. Mặc dù những vấn đề
kinh tế – xã hội của cộng đồng này ít được ghi chép đầy đủ, nhưng trên thực tế, khi đề
cập về người Hoa, ít nhiều các nhà biên chép sử đều nói đến miếu và hội quán với vai
trò làm biểu tượng sức mạnh, tinh thần đoàn kết và phương thức tổ chức cộng đồng
của họ. Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, có sự xuất hiện các du ký của các tác giả

nước ngoài đến Việt Nam. Đây là những du ký của các thương nhân, nhà truyền giáo,
sĩ quan hàng hải đến từ phương Tây, Trung Quốc, Nhật Bản,… Họ đã có những ghi
chép về đời sống cư dân Việt Nam, những sinh hoạt kinh tế – xã hội, phong tục, tập
quán,... trong đó có một số tác phẩm đề cập đến người Hoa cùng những ghi chép về
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong các đền miếu, hội quán.
Sang thời Pháp thuộc trở về sau, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu, có tính cách phát hiện, chọn lọc tư liệu theo phương pháp nghiên cứu mới của


7

phương Tây. Từ sau năm 1945, những nghiên cứu về người Hoa nói chung và về các
thiết chế xã hội của họ được quan tâm hơn, với những khảo cứu công phu hơn, đặc biệt
loạt bài khảo cứu của các tác giả Nguyễn Thiệu Lâu, Đào Duy Anh, Trần Kinh Hòa về
các Minh Hương xã và các khu phố Tàu. Sau năm 1975, vấn đề người Hoa được quan
tâm nghiên cứu nhiều hơn. Về tác giả, có thể kể đến một số nhà nghiên cứu có nhiều
năm nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam như: Trần Khánh, Châu Thị Hải, Cao Tự
Thanh, Nguyễn Cẩm Thúy, Mạc Đường, Huỳnh Lứa, Trần Hồng Liên, Phan An, Phan
Xuân Biên, Huỳnh Ngọc Đáng, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng, Dương Văn Huy,
Nguyễn Duy Bính, Nguyễn Đệ, Võ Thanh Bằng, Phạm Thúc Hồng, Tống Quốc
Hưng,... Đặc biệt, trên phương diện nghiên cứu – đào tạo tại Việt Nam, vấn đề người
Hoa và các miếu, hội quán đã thu được một số kết quả nhất định. Từ thập kỷ 1960 cho
đến nay, nhiều công trình luận án chuyên ngành lịch sử, dân tộc học, văn hoá học,
khảo cổ học,... được bảo vệ thành công cũng như một số khác đang tiếp tục được hoàn
thành. Trong các luận án này, các tác giả đều đề cập đến các miếu và hội quán như là
thành tố của thiết chế cộng đồng về mặt tổ chức xã hội hay về đời sống văn hóa, tín
ngưỡng. Nhất là đối với các công trình liên quan đến văn hóa, tín ngưỡng thì miếu và
hội quán được đi sâu khảo thuật bao gồm cả giá trị vật thể và phi vật thể..
1.2.2 Những vấn đề khoa học luận án kế thừa
Tính đến nay, các công trình nghiên cứu về người Hoa khá phong phú, do vậy tác giả

luận án có nhiều thuận lợi trong quá trình nghiên cứu sâu hơn về thiết chế miếu và hội quán.
Trong công trình luận án này, tác giả kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước trên hai
phương diện chủ yếu, đó là: tư liệu nghiên cứu và hệ thống các quan điểm, khái niệm, thuật
ngữ được sử dụng khi nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở Việt Nam.
1.1.1.1. Về tư liệu nghiên cứu
Đối với các tư liệu chính sử, các tác phẩm biên chép của sử gia thời phong kiến
hay các du ký của các nhà truyền giáo, thương nhân nước ngoài: Thông tin về miếu,
hội quán của người Hoa trong các tư liệu này tuy không nhiều nhưng là những nguồn
thông tin quý hiếm và đáng tin cậy. Từ nửa cuối thế kỷ XVIII những tư liệu chính sử
ngày càng phong phú hơn, giúp cho việc nghiên cứu người Hoa nói chung và nghiên
cứu miếu, hội quán nói riêng có thêm cơ sở khoa học.
Đối với những công trình nghiên cứu có liên quan đến khảo cứu văn bia, châu
bản, địa bạ, minh văn từ cổ vật (gọi chung là tư liệu Hán Nôm): Đây là loại tư liệu rất
quan trọng mà luận án đã kế thừa trên cơ sở khảo cứu lại cũng như khai thác thêm các
thông tin mà các tác giả đi trước chưa đề cập. Qua bước đầu nghiên cứu, cho thấy tư


8

liệu từ văn bia cụ thể hơn tư liệu từ chính sử bởi nó phản ánh những thông tin từ chính
cộng đồng người Hoa. Kết hợp với các tư liệu khác như châu bản, địa bạ, tư liệu dân
tộc học, văn hóa dân gian,… nhiều vấn đề về lịch sử miếu và hội quán người Hoa ở thế
kỷ XVII – XVIII đã được làm rõ hơn.
Đối với các công trình luận án ở lĩnh vực sử học và khảo cổ học, tác giả kế thừa
những thông tin, sự kiện có liên quan đến quá trình định cư, quá trình thiết lập các
chính sách của nhà nước, các biến chuyển về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của
cộng đồng người Hoa qua các giai đoạn lịch sử mà ít nhiều nói đến vai trò và ảnh
hưởng của của các thiết chế miếu và hội quán. Đối với các luận án trên lĩnh vực dân
tộc học, văn hóa học, tác giả kế thừa của những người đi trước những luận điểm, thông
tin khoa học có thể bổ sung các khoảng trống về đời sống của cộng đồng người Hoa

liên quan đến hoạt động xã hội, văn hóa tín ngưỡng diễn ra tại các miếu và hội quán.
1.1.1.2. Về hệ thống các khái niệm, thuật ngữ
Hệ thống khái niệm, thuật ngữ liên quan đến cộng đồng người Hoa vốn rất phong
phú, đa dạng, có sự biến chuyển nội dung theo thời gian, do đó, việc kế thừa cũng như
cân nhắc giữa các quan điểm khi sử dụng khái niệm là vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng, có ảnh hưởng đến tính khách quan của các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Để có thể
có cái nhìn đầy đủ và hệ thống các khái niệm, thuật ngữ, tác giả đã tham khảo các nhà
nghiên cứu trong nước, bên cạnh đó còn tìm hiểu quan điểm của các học giả ngoài
nước về vấn đề này. Trong công trình nổi lên các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến
vấn đề người Hoa, người Minh Hương; các tổ chức xã hội như: Minh Hương xã,
Thanh Hà phố, Bang, hội,… hay các thiết chế văn hóa – xã hội như: miếu, hội quán,...
1.2.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Do những công trình trước đây phần lớn không đặt trọng tâm vào nghiên cứu
thiết chế miếu và hội quán hoặc nếu có thì khu biệt vào một địa bàn hẹp, do đó chưa
đưa ra được bức tranh tổng thể hay cái nhìn toàn diện trên bình diện cả nước. Trong
khi đó, vấn đề định cư của người Hoa không chỉ xảy ra ở một địa phương mà là trên
phạm vi cả nước, thậm chí có tính chất khu vực và quốc tế. Do đó vấn đề quan trọng
mà luận án đặt ra để tiếp tục nghiên cứu đó là đưa ra được bức tranh tổng thể về sự
phân bố trong không gian và theo thời gian của các cơ sở miếu và hội quán của người
Hoa trên phạm vi cả nước. Đồng thời, trong bức tranh toàn diện mang tính hệ thống
này, cũng cho thấy những sắc thái khác biệt do yếu tố hoàn cảnh lịch sử của từng thời
kỳ hoặc do ảnh hưởng bởi điều kiện văn hóa, xã hội từng vùng miền. Đây là bức tranh


9

toàn diện nhưng đa sắc màu, vừa mang tính hệ thống vừa có tính chất riêng biệt trong
khoảng thời gian 3 thế kỷ (cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX).
Tiểu kết chương I
Đến nay, khái niệm “người Hoa”, “miếu”, “hội quán” cùng những vấn đề lý luận

xoay quanh nó đã được các nhà nghiên cứu đưa ra và bàn luận khá nhiều. Trên cơ sở
những vấn đề lý luận và thực tiễn, đặc biệt là sự kế thừa thành tựu nghiên cứu khoa
học về “người Hoa”, “miếu” và “hội quán” của các học giả đi trước, luận án đã đặt ra
nhiều vấn đề khoa học để nghiên cứu, giải quyết.
CHƯƠNG II
BỐI CẢNH VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MIẾU VÀ HỘI
QUÁN NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
2.1. Các trung tâm định cư của người Hoa ở Việt Nam thế kỷ XVI – XIX
2.1.1. Bối cảnh người Hoa hiện diện tại các khu vực định cư
2.1.1.1. Quốc tế, khu vực
Quá trình di dân của người Hoa đến Việt Nam trong các thế kỷ XVI – XIX chịu
ảnh hưởng từ bối cảnh quốc tế và khu vực, đặc biệt từ tác động tích cực của kỷ nguyên
thương mại biển. Việt Nam trở thành điểm trung chuyển và cung ứng hàng hóa quan
trọng. Chính thời điểm đó, sự có mặt của thương nhân Trung Hoa đông đảo hơn,
thường xuyên hơn.Sự bành trướng của người châu Âu sang vùng Viễn Đông từ cuối
thế kỷ XVI đã mang đến một động lực mới để phát triển mạng lưới kinh doanh và các
khu định cư của người Hoa nước ngoài. Cho đến giữa thế kỷ XIX, đã có khoảng 1, 5
triệu người Hoa định cư ở ĐNA và hơn 2 triệu người Hoa cư trú ở Đài Loan (Trang
Quốc Thổ, 2013, tr.33)
2.1.1.2. Bối cảnh tại đất nước Trung Hoa
Triều Minh (1368 – 1644) gây chú ý vì các chính sách trái ngược mà chính quyền này
áp dụng trong các thời điểm khác nhau đối với nền ngoại thương. Ngay sau khi thành lập triều
đại đến thế kỷ XVI, nhà Minh thi hành chính sách bế môn tỏa cảng kéo dài gần hai trăm năm.
Nhưng từ năm 1567, triều đình nhà Minh từ bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng, cho phép
thường dân xuất dương buôn bán. Đến giữa thế kỷ XVII, trước tình cảnh nhà Minh bước vào
giai đoạn suy tàn, quan lại nhũng nhiễu khắp nơi, phong trào nông dân diễn ra liên tiếp, các
tầng lớp nhân dân bao gồm cả thương nhân, thợ thủ công, nông dân đã “tha phương cầu thực”
xuống phương Nam. Đặc biệt, là sự sụp đổ của nhà Minh vào năm 1644, người Mãn Châu



10

thiết lập triều Thanh. Một bộ phận quan binh và dân thường trung thành với nhà Minh tiếp
tục bỏ nước ra đi. Nhà Thanh lúc mới thành lập cũng thi hành chính sách cấm xuất ngoại khắt
khe nhằm ngăn chặn những nỗ lực ra đi của dân chúng, đồng thời giảm thiểu nguy cơ họ gia
nhập các lực lượng chống đối triều đình đang hoạt động ở vùng ven biển phía đông và đảo
Đài Loan. Mặc dù triều đình tăng cường các đạo luật nghiêm ngặt đối với di dân Hoa, nhưng
dân chúng ở vùng duyên hải Đông Nam Trung Quốc đã tìm phương kế sinh nhai ở nước
ngoài qua nhiều thế kỷ. Từ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX đánh dấu một quá trình phát
triển mạnh mẽ của các cộng đồng người Hoa ở ĐNA. Cùng với đó, khi nhịp độ buôn bán của
nước Tây Âu đến thị trường ĐNA nói chung được tăng cường mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XIX,
thì số lượng thương nhân tìm đến vùng ĐNA và Việt Nam ngày càng gia tăng (Trang Quốc
Thổ, 2013, tr.33).
2.1.1.3. Chính trị, xã hội Việt Nam
Cuối thế kỷ XVI trở đi cũng là thời kỳ lịch sử Việt Nam có những biến động đặc
biệt với cục diện Trịnh – Nguyễn phân tranh. Hai thế lực phong kiến họ Trịnh và họ
Nguyễn thời kỳ này đang nổi lên rất mạnh, Đàng Ngoài do chúa Trịnh cai trị và Đàng
Trong thuộc quyền kiểm soát của chúa Nguyễn. Cả hai thế lực Đàng Ngoài và Đàng
Trong đều nhân danh bảo vệ triều đình nhà Lê đang suy yếu để giành quyền kiểm soát
đất nước. Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có chính sách phát triển ngoại thương,
nhất là với Trung Quốc để tranh thủ tiềm lực kinh tế, đồng thời thông qua quan hệ
ngoại giao và buôn bán với nước ngoài để mua sắm vũ khí và đạn dược nhằm tăng
cường tiềm lực quân sự chuẩn bị cho cuộc nội chiến lâu dài. Tính chất, qui mô của nền
ngoại thương này hoàn toàn khác với những giai đoạn buôn bán qua biên giới hay
quan phương (do các sứ đoàn đảm nhiệm) của hai nước Việt Nam, Trung Hoa trước
đây.
 Chính sách của chính quyền Đàng Ngoài đối với người Hoa
Chính quyền Đàng Ngoài (vua Lê – chúa Trịnh) luôn luôn theo đuổi chính sách
thận trọng, cảnh giác đối với người Hoa. Nhưng thực tế lịch sử cũng cho thấy, triều
đình Thăng Long từ Mạc đến Lê – Trịnh đã từng bước nới lỏng chính sách ngoại

thương. Đầu thế kỷ XVII, triều đình Lê – Trịnh cho phép người nước ngoài định cư tại
các cảng thị nội địa. Năm 1663, Trịnh Tạc đã ra lệnh khu biệt người Hoa không cho họ
ở lẫn lộn với dân Việt. Năm 1696, Trịnh Căn lại bắt người Hoa phải theo “quốc tục” và
nghiêm cấm nhân dân không được bắt chước theo y phục, phong tục, ngữ ngôn của họ.
Sang thế kỷ XVIII, vẫn tiếp tục duy trì việc phân chia phạm vi cư trú đối với nội dân


11

và ngoại kiều. Riêng đối với ngoại kiều, triều đình có chủ trương tách biệt giữa khu
vực Thăng Long và các điểm cư trú khác ở ngoại vi. Năm 1717, triều đình tiếp tục ban
hành “chế độ khu xử” với khách buôn ngoại quốc một cách chặt chẽ hơn (Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia – Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 2011, tr.72).
Theo đó, Vạn Lai Triều (Hưng Yên) một lần nữa được chính thức quy định là điểm tập
trung của người nước ngoài (Ngô Cao Lãng, 1975, tr.269 – 270).
 Chính sách của chính quyền Đàng Trong và triều Nguyễn đối với người Hoa
Sự nhập cư ồ ạt của người Hoa và sự hình thành các cộng đồng của họ như một
thực thể dân cư tương đối ổn định trong cơ cấu dân cư, dân tộc Việt Nam bắt đầu từ
thế kỷ XVII, một phần là kết quả của chính sách đón tiếp “nồng hậu” của chúa Nguyễn
và sau đó là triều Nguyễn đối với những di dân Trung Hoa (Trần Khánh, 2000, tr.69).
Người Hoa không những được phép cư trú vĩnh viễn tại Việt Nam mà còn được ghi
vào sổ bộ của chính quyền (nếu có nguyện vọng sinh sống lâu dài), không phải làm
nghĩa vụ quân dịch và lao động công ích, được trao quyền thu thuế đối với những
người giỏi nghề buôn bán và giao dịch, họ còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi
khác trong lĩnh vực kinh tế,…
2.1.2. Tiến trình định cư của người Hoa
2.1.2.1. Giai đoạn cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII
Ở Đàng Ngoài, một bộ phận người Hoa là thương nhân và cư dân phục vụ công
việc buôn bán, có mặt ở Thăng Long và Phố Hiến, từ trước thế kỷ XVI. Ở các thế kỷ
XVI, XVII, số lượng người Hoa tiếp tục tăng lên, đến cuối thế kỷ XVIII khoảng 5 – 6

vạn người (Châu Thị Hải, 1994, tr.204). Ở Đàng Trong, kể từ khi làm trấn thủ vùng
Thuận Quảng, đến đầu thế kỷ XVII, với ý đồ cát cứ để chống lại họ Trịnh nên chúa
Nguyễn Hoàng chú tâm mở mang buôn bán với nước ngoài nhằm xây dựng tiềm lực
cho Đàng Trong. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635), việc bang giao,
buôn bán với nước ngoài tiếp tục phát triển mạnh hơn nhằm thu hút ngoại lực để xây
dựng, phát triển kinh tế. Thuyền buôn các nước đã đến các cảng thị nổi tiếng xứ Đàng
Trong. Việc hình thành các cảng thị Đàng Trong như Hội An (Quảng Nam), Thanh Hà
(Huế) và Nước Mặn (Bình Định) vào đầu thế kỷ XVII gắn liền với vai trò của các
thương nhân Hoa.
2.1.2.2. Giai đoạn giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII


12

Từ giữa thế kỷ XVII, cùng với phong trào di dân mạnh mẽ của người Hoa đến
các nước ĐNA sau biến động lớn về chính trị ở đất nước Trung Hoa, các cảng biển, đô
thị lớn của Việt Nam, nơi mà trước đây đã có người Hoa sinh sống, tiếp tục là điểm
dừng chân của các đoàn người tị nạn này. Chính sách đón tiếp “nồng hậu” của chúa
Nguyễn và sau đó là triều Nguyễn đối với những di dân người Trung Hoa (Trần
Khánh, 2000), từ nửa sau thế kỷ XVII, đã tạo thuận lợi cho những kiều dân Trung Hoa
được phép định cư ở những trung tâm kinh tế, đô thị, hải cảng của Việt Nam, thuộc
miền Trung và Nam Bộ ngày nay. Bấy giờ, cộng đồng người Hoa đã dần hình thành
nên những phố chợ, trung tâm kinh tế tại nhiều nơi như đặc biệt là các trung tâm kinh
tế mang tính quốc tế như Phố Hiến, Hội An, Chợ Lớn, Gia Định, Hà Tiên, Mỹ Tho...
2.1.2.3. Giai đoạn thế kỷ XIX
Nếu ở thế kỷ XVII, bộ phận người Hoa đến Việt Nam chủ yếu vì lý do chính trị,
thì từ thế kỷ XVIII trở đi, đặc biệt là từ nửa sau thế kỷ XIX người Hoa nhập cư lại xuất
phát từ lý do kinh tế. Đây là giai đoạn gia tăng nhanh chóng số lượng người Hoa ở Việt
Nam, nhất là ở khu vực Nam Bộ. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn người Hoa vươn
lên nắm giữ các hoạt động kinh tế thương mại gồm cả nội thương và ngoại thương.

Chính trong giai đoạn này, miếu và hội quán của người Hoa đã được trùng tu, tôn tạo
và xây mới với quy mô lớn và trải rộng ở nhiều khu vực trên cả nước.
2.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
2.2.1. Đặc điểm cư trú, hoạt động kinh tế
Di cư vào Việt Nam, người Hoa đã nhanh chóng lập nên những cộng đồng bền
vững, họ thường cư trú đông hơn ở các đô thị, trung tâm thương mại, thành phố, thị
trấn hay các cửa khẩu, là những nơi có điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế
thương nghiệp, dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp,... Đa số họ chọn lối sống quần
cư tập trung theo từng nhóm phương ngữ, nhưng đồng thời cũng xen kẽ với người Việt
và các dân tộc khác. Do vậy, các miếu, hội quán cũng ra đời và phân bố gắn với từng
nhóm cộng đồng cư dân Hoa. Người Hoa tôn trọng nét đẹp văn hóa tín ngưỡng dân
gian, thờ cúng nhiều vị thần thánh của cộng đồng, trong đó đặc biệt đề cao các tín thần
Thiên Hậu, Quan Thánh.


13

2.2.2. Tổ chức xã hội
Những người Hoa (người “Đường”1, người Minh, người Thanh) lúc mới sang (từ
cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII) họ cư trú trong các đơn vị khu phố có khuynh
hướng cư trú tập trung thành phố (Bắc Hòa phố, Minh Hương khách phố, Minh Bột
đại phố, Minh Bột tân phố… ). Một bộ phận cư trú tại các thôn, xã, nậu, thuộc, chung
lẫn với người Việt, người Khmer, Chăm,... và được sự quản lý của các quan chức
người Việt hoặc thủ lĩnh các sắc dân khác (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr.275,
291). Còn bộ phận người Hoa đến Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII, được chính quyền
tổ chức thành các đơn vị cư trú với tên gọi “phủ”, muộn nhất là vào năm 1790 đã có
đơn vị này (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr.256). Việc tổ chức đơn vị phủ dựa
theo nguyên tắc địa dư là theo mô hình “phủ” thời Thanh ở cố quốc của họ, có thể 4
phủ, 5 phủ, 7 phủ tuỳ theo điều kiện về số lượng, thành phần cư dân có mặt tại đơn vị
dinh, trấn nào đó của Việt Nam. Năm 1810, vua Gia Long tổ chức quản lý người Hoa

theo bang: “Sai bang trưởng Quảng Đông là Hà Đạt Hòa thuê 3 thợ làm ngói ở
Quảng Đông…” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr.801).
2.3. Những sự kiện tác động đến quá trình phát triển của các miếu, hội quán
Với tư cách là thiết chế văn hóa, xã hội quan trọng của cộng đồng, trong lịch sử
phát triển từ thế kỷ XVI – XIX, các miếu, hội quán đã chịu sự tác động từ những
nguyên nhân khác nhau, trong đó chi phối mạnh mẽ nhất là từ những biến động về tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội trong, ngoài nước và sự kiện cụ thể ở từng địa phương.
2.3.1. Tình hình chính trị – xã hội của đất nước cuối thế kỷ XVIII và cuộc chiến
chúa Nguyễn – Tây Sơn
Đến cuối thế kỷ XVIII tình hình chính trị – xã hội ở Đàng Trong không được ổn
định đã tác động đến người Hoa. Trong thời kỳ chiến tranh Tây Sơn và chúa Nguyễn,
lực lượng người Hoa đã bị ảnh hưởng rất lớn vì chính họ là người ủng hộ các chúa
Nguyễn chống lại quân Tây Sơn. Sự kiện đốt phá Cù Lao Phố năm 1776 và sự kiện
thảm sát cầu Tham Lương (Phiên An) năm 1782 cho thấy mức độ tàn phá khủng khiếp
của cuộc chiến tranh này đối với cộng đồng người Hoa. Ba trung tâm kinh tế thương
mại lớn nhất của Nam Bộ lúc đó là Mỹ Tho Đại Phố, Hà Tiên cùng với Cù Lao Phố
được hình thành vào thập niên 80 của thế kỷ XVII, đều hưng thịnh vào khoảng giữa
thế kỷ XVIII (những năm 1750 đến 1760), nhưng sau đó gần như bị tàn phá vào cùng
1 Trong Đại Nam thực lục, sử nhà Nguyễn còn dùng tên gọi này phổ biến cho đến năm 1826. Đến năm 1829, bắt đầu
dùng tên gọi “người Thanh” hoặc “người nước Thanh”, không dùng tên gọi “người Đường” nữa.


14

một lúc, Mỹ Tho và Hà Tiên vào năm 1771, Cù Lao Phố vào năm 1776 – 1777. Trong
khi đó tại khu vực miền Bắc, tình hình tương tự cũng đã diễn ra, đặc biệt vùng Hiến
doanh (phố Hiến) cũng bị tàn phá trong thời gian cuộc chiến giữa Tây Sơn và lực
lượng quân đội nhà Lê Trịnh.
2.3.2. Sự tàn phá từ quân Xiêm và Chân Lạp ở miền Nam
Trong thế kỷ XVIII, đã có những thời điểm (nổi bật như các năm 1715, 1739, 1748,

1771) quân Chân Lạp được sự hậu thuẫn của Xiêm La đến đánh phá Hà Tiên và Mỹ Tho.
Những lần như vậy đều gây ra những những sự hủy hoại nghiêm trọng đến các cơ sở kinh tế,
xã hội của các vùng đất này trong đó có sự đốt phá các khu phố của người Hoa.
2.3.3. Những cuộc nổi loạn trong nội bộ người Hoa
Từ rất sớm, nội bộ nhóm người Hoa cũng xảy ra tranh chấp mà hậu quả của nó là
ở Mỹ Tho, viên phó tướng Hoàng Tiến nổi lên giết chủ tướng Dương Ngạn Địch vào
năm 1688, nhằm thực hiện ý đồ cát cứ, liên kết với người Chân Lạp thân Xiêm đắp
lũy, mộ quân, sắm chiến thuyền chống lại chúa Nguyễn. Cuộc nổi loạn này làm cho
Mỹ Tho Đại phố bị tàn phá và cũng làm giảm tiến trình phát triển của Mỹ Tho một
thời gian. Vào thời kỳ triều Nguyễn, đáng kể có cuộc binh biến của Lê Văn Khôi
những năm 1833 – 1835 cũng đã có những ảnh hưởng nhất định đến người Hoa ở khu
vực Nam Bộ. Trong cuộc binh biến này có sự tham gia của các lực lượng người Hoa.
Trong lúc cuộc chiến đang diễn ra vào khoảng tháng 8 năm 1833 có nhiều trận đánh
ngay trong khu vực phố Sài Gòn và An Thông Hà, tức là tại nơi tập trung đông người
Hoa. Sau cuộc chiến, cũng có những sự nghi kỵ, trả thù của chính quyền triều Minh
Mạng đối với nhóm người này (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007b, tr.725 – 728).
2.3.4. Cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp
Trong khoảng thời gian Pháp chiếm Nam kỳ từ 1858 đến 1867 đã diễn ra các
cuộc càn quét của quân viễn chinh Pháp nhằm đánh bại quân triều đình nhưng chủ yếu
là để tiêu diệt lực lượng khởi nghĩa của nhân dân ta. Lúc đầu, những di tích của người
Hoa hay người Việt thường bị phá hủy bởi ở đó cũng là căn cứ để nhân dân tập hợp và
kháng cự lại quân xâm lược Pháp. Trong thời gian sau đó còn có hoạt động của các hội
kín, tiêu biểu là Thiên Địa Hội ở Nam Kỳ trong thời chống thực dân Pháp vốn xuất
phát từ phong trào “Phản Thanh phục Minh”.


15

Tiểu kết chương II
Tiến trình định cư của người Hoa tại Việt Nam dưới thời phong kiến có thể chia

thành ba giai đoạn: cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII; giữa thế kỷ XVII đến cuối
thế kỷ XVIII; đầu thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX. Người Hoa mà đặc biệt là các
thương nhân dần dần đã có mặt tại các trung tâm kinh tế, đô thị, thương cảng,... của
Việt Nam với số lượng lớn. Đồng thời, họ có thực lực kinh tế vững mạnh, có các mối
quan hệ chặt chẽ qua việc thành lập các bang, miếu, hội quán. Trong suốt quá trình
thành lập và phát triển, các miếu, hội quán cũng chịu tác động bởi nhiều sự kiện lịch
sử khác nhau, đặc biệt trong những thời kỳ xã hội có nhiều biến động xáo trộn, bao
gồm cả những sự kiện ảnh hưởng từ bên trong và bên ngoài của cộng đồng này.

CHƯƠNG III
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA MIẾU,
HỘI QUÁN NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển các miếu, hội quán
3.1.1. Giai đoạn cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII
Tại Phố Hiến: với sự ghi nhận thông tin từ bia ký vào năm 1635 đã có Đông Đô Quảng
hội ở phố Bắc Hòa trung thì có thể dự đoán niện đại khởi dựng của Hội quán này vào khoảng
cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII. Tại Hội An: Cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII, đã có sự
xuất hiện các cơ sở kinh tế – xã hội và văn hóa của người Hoa ở vùng Quảng Nam, đó là các
ngôi miếu Quan Đế (làng Trà Nhiêu) và Cẩm Hải cung làng Thanh Hà (gồm có miếu Quan
Thánh và Thiên Hậu cung) đều có trước năm 1653.
3.1.2. Giai đoạn giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII
Từ khoảng giữa thế kỷ XVII cho đến cuối thế kỷ XVIII, những miếu và hội quán xuất
hiện ở hầu hết các khu định cư của người Hoa. Có thể kể đến những miếu nổi tiếng như miếu
Quan Đế ở Hội An (1653), miếu Quan Đế ở Trấn Biên (1684), miếu Quan Đế ở Mỹ Tho
(1684), miếu Thiên Hậu ở Thanh Hà - Phú Xuân (1685), hội quán Phúc Kiến ở Hội An
(1695), miếu Thiên Hậu và miếu Quan Công ở Phú Xuân (trước năm 1714), miếu Quan đế ở
Thăng Long/Kẻ Chợ (trước 1715),… Đặc biệt, đến giữa thế kỷ XVIII, hàng loạt miếu và hội
quán ra đời như: Hội quán Dương Thương ở Hội An (1741); hội quán Quảng Đông, Phúc
Châu (Biên Hòa) trước 1776. Ở Sài Gòn có, miếu Nhị Phủ (1765), Thất Phủ Võ miếu, Thất
Phủ Thiên Hậu cung (1775), Tuệ Thành hội quán (trước 1796). Ngoài ra, các miếu Quan đế



16

và Thiên Hậu cung Hạ phố (Hưng Yên), miếu Quan đế và Thiên Hậu tại Nam Định, miếu
Quan đế tại Vũng Lấm (Phú Yên), miếu Thiên Hậu và Quan Đế ở khu Nước Mặn (Bình
Định, miếu Quan đế Thuận Phan (Phan Thiết), các hội quán: Chương Châu, Tam Sơn, Ôn
Lăng (Sài Gòn), miếu Quan đế ở Hà Tiên cũng được xây dựng muộn nhất là vào trong thế kỷ
XVIII.
3.1.3. Giai đoạn thế kỷ XIX
Đến các thế kỷ XVIII – XIX, đặc biệt là kể từ sau khi kết thúc cục diện Tây
Sơn – chúa Nguyễn, với chính sách ưu đãi của chính quyền họ Nguyễn đối với
người Hoa, người Hoa đến định cư tại miền Nam và miền Trung ngày càng nhiều
hơn. Bấy giờ người Hoa nhập cư khá dồn dập, chủ yếu vì lý do kinh tế. Họ gồm
đủ mọi tầng lớp xã hội và ngành nghề, đặc biệt là lao động nghèo. Do vậy, trong
thế kỷ XIX, các miếu, hội quán được dựng lên ở khắp cả nước, nhưng tập trung
nhất tại vùng đất Nam Bộ. Trong thế kỷ XIX, tiến trình thành lập miếu, hội quán
mang những đặc điểm sau: (1) Việc thành lập tổ chức bang và các hội quán ra đời
trên cơ sở bang, hội; (2) trường hợp các miếu, hội quán cũ bị tàn phá, thay đổi vị trí,
sáp nhập, chia tách; (3) quá trình trùng tu, tái thiết mới các miếu và hội quán đã có
trong giai đoạn trước hay thay đổi nội dung thờ tự, tín ngưỡng; (4) quá trình xây dựng
mới hàng loạt miếu, hội quán ở miền Trung và miền Nam.
3.2. Đặc trưng và giá trị của các miếu, hội quán
3.2.1. Về kiến trúc, di vật
3.2.1.1. Kiến trúc
Nhìn chung, các miếu, hội quán của người Hoa kế thừa những nét truyền thống ở
quê hương cũ, đó là loại kiến trúc am, chùa, miếu của Trung Hoa nhưng có khác nhau
đôi chút tùy theo từng nhóm ngôn ngữ và địa phương. Nhóm Hoa nhóm Quảng Đông
có đầu đao vuông bằng, sắc cạnh. Nhóm Hoa Phước Kiến có mái miếu có hình thuyền,
hai đầu đao cong vút, các cửa hình ô tròn... Các miếu, hội quán cổ được xây dựng theo

nguyên tắc kiến trúc truyền thống Trung Hoa với các đặc điểm nổi bật như: kiến tạo
trên nền đất rộng, cao ráo, thoáng mát; cửa chính quay về hướng nam, đông nam theo
thuật phong thủy hay hướng sông với quan niệm vũ trụ âm dương, thẩm mỹ cùng chủ
trương đối xứng vững vàng và chỉnh tề nghiêm ngặt. Nội thất các miếu được bày biện
và trang trí trang trọng nhưng cũng rất độc đáo và dễ nhận biết so với các di tích của
người Việt. Vị thần chính bao giờ cũng được đặt ở chính giữa nơi tôn nghiêm nhất của


17

miếu. Trong miếu trang trí những câu đối, hoành phi bằng gỗ, vải, những vòng nhang
hình nón, những chiếc lồng đèn có viết chữ Hán. Các miếu thường được tô sơn màu đỏ
hoặc màu hồng thắm khá rực rỡ.
3.2.1.2. Giá trị lịch sử, văn hóa qua bộ di vật
Mặc dù các miếu, hội quán đã được nhiều lần sửa chữa, nhưng vẫn lưu giữ được
khá nguyên trạng những chất liệu xây dựng như: mái cột, kèo, cửa đá,... cùng bộ di vật
cổ quý giá của buổi ban đầu xây dựng hoặc các giai đoạn trùng tu... Thông tin khoa
học từ các di vật trong các miếu, hội quán của người Hoa, đặc biệt là các tư liệu Hán
Nôm đã mang lại nhiều thông tin khoa học, qua đó cung cấp nhiều tư liệu cho nghiên
cứu di tích, lịch sử định cư của người Hoa và nhiều thông tin khác nhau, như: (1) định
danh miếu, hội quán, cho biết tên hiệu các vị thần thánh được thờ, nhất là vị thần chủ;
(2) cho biết niên đại di vật cũng như thời điểm xây dựng và trùng tu di tích; (3) cho
biết nguồn gốc, xuất xứ của di vật cùng sự tồn tại và phát triển của các cơ sở tiểu thủ
công nghiệp; (4) cho biết danh xưng và một số thông tin khác của những cá nhân, tập
thể dâng cúng di vật hay đóng góp xây dựng, trùng tu miếu, hội quán; (5) thông tin
trên minh văn còn nhằm ca ngợi sự uy linh, công lao to lớn của các vị thần thánh và
thể hiện tấm lòng tôn kính, tri ân sâu sắc của thế hệ sau đối với bề trên, thần thánh,
đồng thời cho biết nhiều thông tin khác về kinh tế, văn hóa, xã hội,..
3.2.2. Hoạt động tín ngưỡng, lễ hội
3.2.2.1. Đối tượng được thờ cúng

Nhìn chung, đối tượng thờ cúng trong các miếu, hội quán Hoa đa dạng, phong
phú, bao gồm 3 cõi: Thiên – Địa – Nhân. Chủ điểm của việc thờ tự nằm ở gian chính
điện, nơi vị thần chủ được thờ, hai bên vị thần chính là hai vị thần có vai trò quan
trọng ít hơn. Vị thần chính thường là Thiên Hậu, Quan Công, Ông Bổn... Trong các
gian thờ khác, các miếu còn thờ phối tự thêm nhiều đối tượng khác nhau, thể hiện vũ
trụ quan và nhân sinh quan đa dạng. Phổ biến như: Ông Bổn (Phước Đức chính thần),
Tài Bạch tinh quân, Kim Hoa Nương Nương, Long mẫu Nương Nương, Văn Xương
Đế Quân… Thống kê cho thấy có đến 58/149 miếu, hội quán thờ chính Thiên Hậu,
trong khi đó thờ chính Quan Thánh là 48/149 miếu, hội quán, tiếp đến với số lượng ít
hơn là các miếu thờ chính các vị thần khác như Ông Bổn, Bảo Sanh Đại Đế, Quảng
Trạch Tôn Vương, 108 vị anh linh, Bắc đế và các vị thần khác,... Tất cả các miếu, hội
quán có niên đại từ thế kỷ XVIII trở về trước đều thờ chính Quan Thánh hoặc Thiên
Hậu.


18

3.2.2.2. Hoạt động văn hóa, lễ hội
Tại miếu, hội quán, luôn có các lễ cúng thường kỳ. Đặc biệt , vào các “ngày Vía”
tức là ngày sinh của các vị thần được thờ đã trở thành những lễ hội lớn hằng năm, tại
các miếu thờ cúng chính vị thần đó, hoạt động lễ hội diễn ra rất sôi nổi. Vào những dịp
cúng lễ, nơi đây trở thành địa chỉ thu hút đông đảo bà con người Hoa, người Việt, các
dân tộc anh em tại từng địa phương và cả du khách trong, ngoài nước tham gia. Trước
đây và cả hiện nay, trong ngày lễ vía Bà, vía Ông, người Hoa tổ chức lễ diễu hành qua
nhiều đường phố, tổ chức hoạt động văn hoá – nghệ thuật. Người Hoa cũng thường tổ
chức những hoạt động tập trung như lễ Thanh Minh (vào tháng Ba âm lịch), vào dịp
này, đồng bào người Hoa đi tảo mộ khá nhộn nhịp tại các nghĩa trang, hay lễ Vu Lan
(vào Rằm tháng bảy âm lịch).
3.3. Những nét tương đồng và khác biệt của miếu và hội quán giữa các vùng miền ở
Việt Nam

3.3.1. Những nét tương đồng
Các miếu, hội quán ở cả 3 miền đều có cấu trúc không gian, kiểu kiến trúc đặc
trưng theo truyền thống Trung Hoa, tương đồng về chức năng và đối tượng thờ tự.
Ngoài ra, sự tương đồng này còn nằm ở tiến trình thành lập với sự kế tiếp truyền thống
liên tục trong các thế kỷ XVII – XIX của các lớp cư dân Minh Hương thời kỳ đầu, sau
đó là đến những Đường nhân, Thanh nhân để tạo thành các thành tố vật chất và tinh
thần, những đặc trưng căn bản của các thiết chế xã hội như thất phủ, ngũ bang và từng
nhóm cư dân theo địa phương, phương ngữ.
3.3.2. Sự khác biệt giữa các vùng miền Bắc, Trung, Nam
Do bị chi phối bởi những bối cảnh lịch sử cụ thể, cùng với những ảnh hưởng bởi
sự giao lưu, tiếp biến văn hóa ở những vùng đất khác nhau (các khu định cư người Hoa
vốn được hình thành và phát triển trên các vùng văn hóa khác nhau của Việt Nam) nên
miếu, hội quán ở 3 miền cũng cho nhiều đặc điểm khác biệt. Thậm chí, trong cùng một
khu vực định cư cũng có sự khác biệt về vai trò của nó (miếu, hội quán của cư dân làm
nghề thương mại khác với của cư dân làm nông nghiệp, thủ công nghiệp…).
Tiểu kết chương III
Miếu, hội quán được xây dựng trong nhiều thời điểm khác nhau, tuy hầu hết đều
do bộ phận di dân người Hoa sang sinh sống làm ăn tại Việt Nam từ thế kỷ XVII trở đi
xây dựng. Miếu, hội quán là nơi bảo lưu những giá trị về kiến trúc truyền thống và văn


19

hóa tín ngưỡng của người Hoa, giữ gìn bản sắc dân tộc, kiến tạo những thành tựu văn
hóa tốt đẹp trên vùng đất mới. Bên cạnh đó, những nét tương đồng và khác biệt của
miếu và hội quán giữa các vùng miền ở Việt Nam đã cho thấy mối quan hệ của cộng
đồng người Hoa giữa các địa phương trong cả nước.
CHƯƠNG IV
MIẾU, HỘI QUÁN CỦA NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN,
VAI TRÒ VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP

4.1. Miếu, hội quán của người Hoa: Đặc điểm phát triển và tương quan so sánh
4.1.1. Đặc điểm phát triển
Thống kê cho thấy trên cả nước có 149 miếu, hội quán có niên đại xây dựng từ
cuối thế kỷ XVI – cuối thế kỷ XIX. Trong đó có một số miếu, hội quán chỉ còn dấu
tích hoặc được ghi chép lại trong sử sách 1. Nhìn chung, những hội quán và miếu khởi
lập trong các thế kỷ XVI – XIX chủ yếu tọa lạc ở các đô thị, thương cảng hay các
trung tâm kinh tế gắn với hoạt động thương mại của người Hoa thời trung, cận đại.
Việc lựa chọn địa điểm để xây dựng các miếu, hội quán thể hiện quan niệm về đời
sống tín ngưỡng và phù hợp với các hoạt động sinh hoạt của cộng đồng người Hoa...
Qua tài liệu bi ký và các tư liệu lịch sử, có thể thấy số lượng cơ sở miếu, hội quán
được xây dựng từ thế kỷ XIX chiếm số lượng phần lớn (122/149 miếu, hội quán) trong
khi đó các cơ sở xây dựng trong thế kỷ XVII, XVIII (26/149 miếu, hội quán) trở về
trước chỉ tập trung ở những nơi là các phố cảng có tính chất buôn bán quốc tế như Phố
Hiến, Thanh Hà (Huế), Hội An, Cù Lao Phố, Sài Gòn và Hà Tiên.
4.1.1.1. Về các hình thức xây dựng
Xét theo phương diện sở hữu của các nhóm cộng đồng: Đối với các nhóm cộng
đồng theo địa dư: thường thì mỗi nhóm cộng đồng đều có cơ sở chung, tuy nhiên, cũng
có những trường hợp đặc biệt là nhiều nhóm cộng đồng cùng có chung miếu, hội quán;
Xét theo phương diện vị trí tọa lạc, có 2 trường hợp: miếu và hội quán có chung địa
điểm và có nơi chỉ là miếu mà không có hội quán; xét theo niên đại xuất hiện sớm
muộn giữa miếu và hội quán, có 3 trường hợp : miếu và hội quán được lập đồng thời,
miếu thành lập trước hội quán và hội quán thành lập trước miếu.
4.1.1.2. Về tên gọi

1 Các cơ sở được xây dựng từ đầu thế kỷ XX trở đi và những cơ sở miếu, hội quán của người Minh Hương từ TK
XVIII trở đi không nằm trong thống kê này; ngoài ra còn một số địa phương, luận án chưa có thông tin khảo sát.


20


Thực tế, trải qua nhiều biến đổi của lịch sử nên ngày nay các miếu, hội quán của
người Hoa có thể có nhiều hình thức định danh (miếu, hội quán, cung,…): (1) Trường
hợp tên gọi gắn với hội quán và theo hình thức tổ chức cộng đồng (Trung Hoa, Thất
phủ, Ngũ bang hội quán); (2) Hội quán theo địa dư đơn vị hành chính 1 tỉnh của quê
hương gốc (Phúc Kiến, Quảng Đông hội quán..); (3) Tên gọi tên đầy đủ hoặc tên gọi
tắt của một phủ ở quê hương cũ (Tam Sơn, Quảng Châu hội quán…); (4) Căn cứ theo
sự kết hợp giữa phủ với một phủ của tỉnh khác (Phúc Triều Huệ hội quán); (5) Tên gọi
cũng có thể do cộng đồng tự định danh, mang ý nghĩa tốt đẹp, đoàn kết, nghề nghiệp
(Tân An, Bình An hội quán…); (6) Trường hợp tên gọi gắn với miếu (cung): Tên gọi
này thường là sự kết hợp tên gọi vị thần chính với hình thức định danh miếu hoặc
cung, như: Quan Thánh Đế miếu (Quan Thánh miếu, Quan Công miếu), Bắc Đế miếu,
Ông Bổn miếu,...;(7) Nếu thêm chữ “cổ miếu” thì chắc chắn là di tích đó đã được trùng
tu hoặc xây dựng lại trên nền di tích cũ và (8) Một di tích cũng có nhiều tên gọi khác
nhau (vừa là miếu, vừa là hội quán).

4.1.2. Miếu, hội quán của người Hoa ở Việt Nam qua góc nhìn so sánh với thế giới
và khu vực
Do hình thành trên những vùng đất mới với hoàn cảnh chính trị, điều kiện kinh tế và bản
sắc văn hóa dịa phương khác nhau nên mỗi bộ phận của hệ thống cơ sở cộng đồng này cũng
có những sự khác biệt nhất định so với “nguyên bản” của nó ở vùng đất quê hương Trung
Quốc và các khu vực khác. Sự so sánh với miếu, hội quán ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Macao, Hoa Kỳ và ĐNA về các phương diện niên đại, chủ nhân, cách thức xây dựng,
đặc biệt là vai trò của miếu, hội quán và mỗi tương quan giữa 2 thiết chế này làm sáng tỏ
thêm vai trò của miếu và hội quán ở Việt Nam. Đồng thời, việc so sánh cũng chỉ rõ mối quan
hệ giữa miếu và hội quán ở Việt Nam (cả về mặt kiến trúc và chức năng) khi 2 thiết chế này
hòa nhập vào nhau ngày càng khó phân biệt.
4.2. Vai trò của các miếu, hội quán đối với cộng đồng người Hoa
4.2.1. Trên phương diện đời sống văn hóa, tín ngưỡng
Sự ra đời của các miếu Hoa trước nhất nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng của cộng đồng. Việc thờ cúng và hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tại các miếu, hội

quán thể hiện sự cảm kích cùng tấm lòng biết ơn của các thế hệ di dân người Hoa đối
với công đức to lớn từ các vị thần thánh đã phò trợ mình. Qua đó, còn bày tỏ ước
nguyện được tiếp tục phù hộ, đồng hành và mong muốn bước đường làm ăn, lập


×