Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao cấp chính trị: Nhà nước và sự vận dụng học thuyết Mác xít nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.07 KB, 28 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

LỜI MỞ ĐẦU
Để công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước của ta tiếp tục phát triển
đúng hướng, chúng ta cần hiểu rõ thêm và quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng của Đảng
về một Nhà nước kiểu mới dựa trên cơ sở học thuyết Mác-Lênin. Đó là những quan
điểm lợi ích, quan điểm làm chủ và quan điểm quyền lực của nhân dân trong quá
trình xây dựng Nhà nước ta. Đây là cơ sở lý luận và tư tưởng cách mạng quan trọng,
đã và đang làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn
cách mạng mới giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng “ của dân, do dân, vì dân” của khối đại đoàn kết dân tộc vì lợi ích
để giữ nước và xây dựng nước đã được Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh quán triệt
trong quá trình Đảng và quản lý Nhà nước suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Thực tiễn cuộc cách mạng của nước ta và một
số nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác trên thế giới đã chứng minh rằng: Cách mạng chỉ
có thể thắng lợi khi tập hợp được quần chúng và được quần chúng ủng hộ, trái lại,
nếu để mất quần chúng sẽ mất chính quyền.
Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới trong điều kiện quốc tế có
nhiều chuyển biến phức tạp: Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới phát triển
mạnh, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão, các
thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn tìm mọi cách để thực hiện âm mưu “ diễn
biến hoà bình” làm thủ đoạn thủ tiêu Chủ Nghĩa Xã Hội.
Để thực hiện quan điểm của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, phải tiếp tục đổi mới phương thức tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng thực
sự vững mạnh trong sạch, nhằm nâng cao vai trò và chất lượng lãnh đạo tuyệt đối
Đảng đối với nhà nước và xã hội. Đổi mới tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của nhà nước, đặc biệt là đổi mới quản lý hành chính Nhà nước. Xây dựng đội ngủ


cán bộ, công chức vừa có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, vừa có
trình độ lãnh đạo, quản lý chuyên môn cao “ người công chức đem tất cả sức lực và
tâm trí theo đúng đường lối của chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà phục
vụ”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, thứ VIII và thứ IX luôn đặt ra vấn đề
đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đây là vấn đề vừa cấp bách,
vừa lâu dài, liên tục, cũng là vấn đề sống còn của cách mạng XHCN nước ta.
Với kiến thức tiếp thu được qua quá trình học tập lớp cao cấp lý luận chính trị
tại phân viện Hồ Chí Minh, đặc biệt là những vấn đề lý luận của học thuyết Mác- xít
về Nhà nước . Vì vậy tôi chọn đề tài: Học thuyết Mác-Xít về Nhà nước và sự vận
dụng học thuyết đó nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp
quyền ở huyện cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng để viết tiểu luận tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy, cô của phân viện Hồ Chí Minh và thầy, cô
giáo bộ môn triết học đã giúp đỡ cho tôi hoàn thành tiểu luận tốt nghiệp này. Do khả
năng, trình độ cúa hạn phạm vi hiểu biết vấn đề Nhà nước chưa được sâu rộng nên
nội dung bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong quý
thầy, cô thông cảm và bản thân luôn ghi nhận sự đóng góp của quý thầy, cô để tôi
hoàn thành tiểu luận tốt nghiệp đạt kết quả tốt. Xin chân thành cảm ơn !
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 1


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

MỤC LỤC

CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG TRONG HỌC

THUYẾT MÁC-XÍT VỀ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG II : SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT mác – XÍT ĐỂ XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC TA : NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN .
CHƯƠNG III : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN Ở HUYỆN CÙ LAO DUNG TỈNH
SÓC TRĂNG .
KẾT LUẬN

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 2


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG TRONG HỌC THUYẾT
MÁC-XÍT VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước :
Lý luận khoa học về Nhà nước, về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước chỉ
có thể có được khi vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử vào việc nghiên cứu sự
phát triển xã hội.

1.1. Khái niệm Nhà nước :
Theo Lênin :”Nhà nước là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác”. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” Người giải
thích rõ thêm “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt

của giai cấp này đối với giai cấp khác”. Những định nghĩa này V.I.Lênin một mặt
đã xác định rõ bản chất và ý nghĩa xã hội của Nhà nước trong xã hội có giai cấp đối
kháng (Nhà nước theo đúng nghĩa của nó). Mặt khác, đã nêu ra những yếu tố cơ bản
cấu thành khái niệm Nhà nước của bất kỳ kiểu Nhà nước nào đó là : Nhà nước trước
hết là một bộ máy đặc biệt tách khỏi xã hội để thực hiện một quyền lực mang tính
cưỡng chế và xét về bản chất, Nhà nước bao giờ cũng là công cụ để thực hiện sự
thống trị giai cấp. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có một số đặc điểm chung như
các kiểu Nhà nước khác, nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản nó không còn là
Nhà nước theo đúng nghĩa nữa mà chỉ là “Nửa Nhà nước”.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của Nhà nước. Tuy nhiên bên
cạnh đó, Nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội. Dù trong xã hội nào Nhà nước
cũng một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp (lực lượng) cầm quyền, nhưng đồng thời
cũng phải chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội. Từ những kết luận trên có thể đi
đến định nghĩa sau : “Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một
bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc
biệt nhằm duy trì trật tự xã hội thực hiện những mục đích và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội”
1.2. Nguồn gốc Nhà nước :
Về nguồn gốc nhà nước, từ trước đến nay có nhiều quan niệm khác nhau
nhưng có thể xếp thành hai loại : quan niệm phi Mác xít và quan niệm Mác xít.
* Về quan niệm phi Mác xít :
Từ thời cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra lý giải khác
nhau về nguồn gốc Nhà nước. Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học cho rằng
thượng đế là người sáng lập được trật tự xã hội, Nhà nước là do thượng đế sáng tạo
ra để bảo vệ trật tự chung, do đó Nhà nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực Nhà
nước là vĩnh cửu và sự phục tùng quyền lực là cần thiết là tất yếu. Trong khi đó, các
nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại cố gắng chứng minh rằng Nhà nước là kết
quả phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người.
Vì vậy, Nhà nước có trong mọi xã hội và quyền lực Nhà nước về bản chất cũng
giống như quyền gia trưởng trong gia đình.


NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 3


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Đến thế kỷ XVI, XVII, XVIII lại xuất hiện hàng loạt quan điểm mới về
nguồn gốc Nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền độc đoán của Nhà nước
phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia nắm giữ
quyền lực Nhà nước, đa số các học giả tư sản đều tán thành quan điểm cho rằng sự
ra đời của Nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết
giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có Nhà nước. Vì vậy,
Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội mà mỗi thành viên đều có
quyền yêu cầu Nhà nước phục vụ cho họ.
Thuyết khế ước xã hội đã có vai trò quan trọng là tiền đề cho thuyết dân chủ
cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách thống trị phong
kiến với ý nghĩa đó, nó có tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn. Tuy nhiên, thuyết
này vẫn còn những hạn chế căn bản là nó vẫn giải thích nguồn gốc Nhà nước trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm, coi Nhà nước được lập ra như ý muốn,
nguyện vọng chủ quan của các bên tham gia khế ước, không giải thích được nguồn
cội vật chất và bản chất giai cấp của Nhà nước.
* Về quan niệm Mác xít :
Với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác - Lênin
coi Nhà nước là hiện tượng có quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển. Nhà nước
nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, chỉ xuất hiện khi
xã hội phát triển đến một mức độ nhất định. Những luận điểm quan trọng trên được

Ph. Ăngghen trình bày một cách hệ thống, khoa học trong tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của sở hữu tư nhân và của Nhà nước” và sau này được V.I.Lênin phát triển
trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
Biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định : Nhà nước
và pháp luật là những hiện tượng chính trị pháp lý mang tính lịch sử - là những
phạm trù lịch sử, xã hội loài người từ khi ra đời cho đến hôm nay đã trải qua hai giai
đoạn : Giai đoạn không có Nhà nước (cộng sản nguyên thủy) và giai đoạn có Nhà
nước.
Chế độ cộng sản nguyên thủy :
Đây là thời kỳ đầu, con người phải sống chung, ở chung với nhau, lao động
giản đơn, công cụ sản xuất thô sơ, năng suất lao động thấp kém, làm không đủ ăn,
không có sản phẩm dư thừa… Do đó. xã hội có những đặc điểm sau đây :
Nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất .
Phân phối dựa trên cơ sở bình đẳng.
Quản lý dựa trên hình thức tự quản. Mặc dù về quản lý đã hình thành tế bào
xã hội nhỏ nhất là thị tộc; do chế độ ngoại tộc hôn về sau đã hình thành bào tộc hay
bộ lạc (bào tộc gồm nhiều thị tộc họp lại mà thành, bộ tộc gồm nhiều bào tộc),
nhưng vẫn dựa trên cơ sở “tự quản” không hình thành con người hay tổ chức quản
lý, tách ra khỏi xã hội, mà họ (hội đồng thị tộc, bào tộc hay bộ lạc) vẫn trực tiếp là
người tổ chức sản xuất. Hình thức quản lý cao nhất - lúc bấy giờ - là “cuộc họp”.
Thông qua cuộc họp mà hình thành quyền lực xã hội, biến thành phong tục tập quán
xã hội - xã hội dùng nó làm phương tiện quản lý. Như vậy, xã hội đã không có Nhà
nước, không có quyền lực Nhà nước, do đó cũng không có cưỡng chế Nhà nước.

Những nguyên nhân làm xuất hiện Nhà nước :
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 4



Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Cuối thế kỷ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất đã phát triển hơn, năng
suất lao động cao hơn, do đó đã làm cho xã hội và tri thức con người phát triển hơn :
Về lao động và quản lý cũng cần phải chuyên môn hóa và được quản lý chặt chẻ
hơn, sau ba lần phân công lao động (theo Ăngghen là 3 cuộc cách mạng về phân
công xã hội : Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, tiểu thủ công tách khỏi nông nghiệp và
hàng ngũ thương nhân tách khỏi quá trình trực tiếp sản xuất) đã làm cho nền kinh tế
phát triển hơn nữa.
Kết quả của sự phát triển sản xuất, của cải có dư thừa, do đó xuất hiện một
lớp người giữ và muốn chiếm lấy của cải dư thừa đó - xuất hiện chế độ tư hữu.
1.3. Bản chất của Nhà nước :
* Khái niệm bản chất của Nhà nước :
Cũng như đối với vấn đề nguồn gốc của Nhà nước, vấn đề bản chất và ý
nghĩa của Nhà nước luôn là đối tượng của các cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất.
Đồng thời đây cũng là một trong những vấn đề khó khăn để trở thành trung tâm của
mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận chính trị. Các nhà lý luận tư sản không giải
thích được một cách đúng đắn và khoa học vấn đề bản chất của Nhà nước, cho nên
bằng cách này cách khác họ biện hộ cho sự thống trị của giai cấp tư sản mà không
thừa nhận những quy luật vận động khách quan của Nhà nước.
Với phương pháp luận khoa học, trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành
tựu của nhiều môn khoa học, học thuyết Mác xít về Nhà nước đã giải thích được một
cách đúng đắn vấn đề bản chất và ý nghĩa của Nhà nước nói chung cũng như Nhà
nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Có nghĩa là
Nhà nước chỉ sinh ra, tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản
chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước là một bộ máy
cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất

để thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Trong xã hội có
giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác đều thực hiện dưới 3 loại
quyền lực : quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó
quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở vật chất bảo đảm cho sự thống trị
giai cấp. Quyền lực kinh tế có ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu
có khả năng bắt những người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản
thân quyền lực kinh tế không thể thực hiện và duy trì được các quan hệ bóc lột, cho
nên cần phải có Nhà nước, tức là cần có bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố
quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế, để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp
bị bóc lột. Với ý nghĩa đó, Nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị. Thông qua Nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách
tập trung thống nhất và hợp pháp dưới hình thức hiến pháp, sắc lệnh, chủ trương,
chính sách … và tất cả mọi công dân phải tuân thủ.
Các Nhà nước bóc lột đều có chung bản chất là bộ máy để thực hiện nền
chuyên chính của giai cấp bóc lột, Nhà nước chủ nô là công cụ chuyên chính của
giai cấp chủ nô, Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong
kiến, Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. Để thực hiện
chuyên chính giai cấp không chỉ đơn thuần dựa vào bạo lực và cưỡng chế mà còn
cần đến sự tác động về tư tưởng. Thông qua Nhà nước giai cấp thống trị truyền bá,
xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 5


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Tóm lại, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị. Một bộ

máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội.
So với các tổ chức trong xã hội có giai cấp, Nhà nước có một số đặc trưng
sau đây :
Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt, không còn hòa nhập
với dân cư nữa, chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính
trị, chính quyền cùng với các công cụ bạo lực của nó như quân đội, công an, nhà
tù… là những thành tố cơ bản của sức mạnh quyền lực đó.
Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ : Khác với tổ chức thị tộc tồn tại
trên cơ sở huyết thống, quyền lực Nhà nước tác động đến toàn bộ dân cư trên lãnh
thổ, không phân biệt huyết thống, nghề nghiệp, tín ngưỡng, giới tính… lãnh thổ
quốc gia được chia thành các đơn vị hành chánh. Bộ máy Nhà nước được thành lập
từ Trung ương đến địa phương. Nhà nước có quyền hạn và nghĩa vụ đối với mọi
lãnh thổ, ngược lại mọi người trên lãnh thổ đó phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ của mình đối với Nhà nước.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia : Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính
trị pháp lý, nó thể hiện quyền độc lập tự quyết của Nhà nước về chính sách đối nội
và đối ngoại không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài. Chủ quyền thuộc quốc gia là
thuộc tính không thể chia cắt của Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật : Với tư cách là người đại diện chính thức của
một quốc gia, Nhà nước là một tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật có
tính bắt buộc chung đối với mọi người.
Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế, xây dựng ngân sách để trả
lương cho công chức nhân viên, để đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết, để đảm bảo
phúc lợi cho xã hội, để xây dựng và bảo vệ đất nước. Không có thuế thì không có
ngân sách, không có ngân sách thì Nhà nước không hoạt động được. Chỉ có Nhà
nước mới có quyền quy định và thu thuế.
Những đặc điểm trên nói lên sự khác nhau giữa Nhà nước với tổ chức chính
trị xã hội khác, đồng thời phản ánh vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của Nhà

nước trong xã hội có giai cấp.
1.4. Chức năng của Nhà nước :
Bản chất, vai trò xã hội của Nhà nước thể hiện trực tiếp ở nhiệm vụ, chức
năng của Nhà nước.
Nhiệm vụ Nhà nước là mục tiêu do lực lượng lãnh đạo xã hội, Nhà nước đặt
ra cho Nhà nước cần đạt tới, những vấn đề Nhà nước cần giải quyết trong những giai
đoạn lịch sử nhất định. Trong đó có những nhiệm vụ chung, cơ bản, nhiệm vụ chiến
lược lâu dài, những nhiệm vụ trước mặt.
Để thực hiện những mục tiêu đó, Nhà nước triển khai hoạt động của mình
trên các phương diện khác nhau, nhưng đều hướng tới mục đích là hoàn thành nhiệm
vụ chung. Những hướng hoạt động đó được gọi là chức năng của Nhà nước.

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 6


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Như vậy, chức năng Nhà nước là phương diện, những mặt hoạt động cơ bản
của Nhà nước, nhằm thực hiện những nhiệm vụ trọng yếu nhất, do lực lượng cầm
quyền trong xã hội đặt ra cho Nhà nước cần giải quyết.
Sự thống trị và sự thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước thể hiện trong
lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại, Nhà nước có các chức năng đối nội và các chức
năng đối ngoại. Chức năng đối nội của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề về
chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Về bản chất giai cấp,
pháp luật - như Các Mác đã chỉ ra chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp thống trị được
đưa lên thành luật và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức Nhà nước. Ngoài ra để củng

cố địa vị thống trị của giai cấp thống trị, Nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện
khác (cơ quan thông tin, tuyên truyền, văn hóa, giáo dục) để xác lập củng cố tư
tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành tư tưởng chính thống
trong xã hội.
Nhà nước thực hiện các chức năng đối ngoại của Nhà nước nhằm bảo vệ lãnh
thổ quốc gia, trong một số trường hợp, nhằm “mở mang” lãnh thổ và quan hệ với
các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như của quốc gia - khi lợi ích
của quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng đối nội cũng như đối ngoại của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích
của giai cấp thống trị. Nếu quyền lợi của mình bị trực tiếp đe dọa bởi phong trào đấu
tranh của quần chúng nhân dân, thì giai cấp bóc lột sẵn sàng thỏa hiệp, thậm chí đầu
hàng bọn xâm lược bên ngoài để đối phó với cuộc nổi dậy của nhân dân trong nước.
Chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước là hai mặt của một thể thống
nhất. Chức năng đối nội là chủ yếu, bởi vì Nhà nước ra đời và tồn tại do cơ cấu giai
cấp bên trong của mỗi quốc gia quy định, sự thống trị của mỗi giai cấp được thực
hiện trước hết trên địa bàn quốc gia dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị, trước hết
và chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong nước, tính chất của chức năng đối
nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, ngược lại, tính chất và những nhu
cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội của Nhà
nước.
Mối liên hệ nêu trên càng trở nên mật thiết trong xã hội hiện đại. Ngày nay,
khi quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội ngày càng tăng lên, việc mở rộng
chức năng con của Nhà nước ngày càng có vị trí quan trọng. Sức mạnh của một
quốc gia, những điều kiện và tiền đề để giải quyết những vấn đề nội tại của đất nước
một phần đáng kể được hình thành trong quan hệ đối với các quốc gia khác.
Các chức năng của Nhà nước được quy định một cách khách quan bởi cơ sở
kinh tế, xã hội của Nhà nước. Tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước, chế độ xã hội
mà các chức năng khác nhau trong các quan hệ đối nội cũng như trong các quan hệ
đối ngoại được Nhà nước chú ý ưu tiên đầu tư cho việc thực hiện cũng khác nhau.
Chức năng của Nhà nước do các cơ quan của Nhà nước - bộ phận cấu thành

của bộ máy Nhà nước thực hiện. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chức năng của
Nhà nước, mỗi cơ quan được giao những nhiệm vụ, chức năng riêng phù hợp với vị
trí, tính chất, vai trò của nó trong bộ máy Nhà nước. Không có sự đồng nhất giữa
chức năng Nhà nước và chức năng cơ quan Nhà nước. Chức năng của Nhà nước là
phương diện hoạt động cơ bản của bộ máy Nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước phải
tham gia thực hiện ở mức độ khác nhau. Chức năng của cơ quan Nhà nước là
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 7


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

phương diện hoạt động chủ yếu của nó để góp phần thực hiện chức năng chung của
Nhà nước. Vì vậy, một chức năng của Nhà nước do nhiều cơ quan Nhà nước thực
hiện bằng hình thức hoạt động đặc trưng khác nhau.
Về thực hiện các chức năng của Nhà nước được tiến hành trong mối quan hệ
tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trong thể thống nhất. Để thực hiện các chức năng của Nhà
nước, nhiều hình thức, phương pháp bắt nguồn từ bản chất Nhà nước, thể hiện bản
chất Nhà nước. Hình thức pháp lý : lập pháp, hành pháp, tư pháp. Phương pháp :
thuyết phục, giáo dục, cưỡng chế.

1.5. Nhà nước vô sản :
* Tính tất yếu của Nhà nước vô sản và bản chất :
Cùng với sự phát triển lực lượng sản xuất, công cụ lao động được cải tiến,
năng suất lao động không ngừng được nâng cao. Năng suất lao động được coi là tiêu
chuẩn cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của sản xuất của một xã hội nhất định bởi vì lực
lượng sản xuất là do con người tạo ra song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng

vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển
liên tục từ thế hệ này đến thế hệ khác, cái sau luôn luôn tiến bộ hơn cái trước. Qui
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy
luật xã hội, nó được biểu hiện thông qua hoạt động của con người, con người phát
hiện những yếu tố không phù hợp, làm cho nó phù hợp hơn tức là làm cho trình độ
sản xuất mới, cứ như thế sự phù hợp một cách biện chứng giữa các lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình
lịch sử. Sự thay thế, đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên
thủy đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, Chủ Nghĩa Xã Hội và chế độ Cộng
Sản tương lai. Đó là phép biện chứng lịch sử, là quy luật phát triển xã hội, là tất yếu
của lịch sử.
Mác đã đúc kết và kết luận : “Để đi tới một xã hội không còn giai cấp, giai
cấp vô sản phải trở thành thống trị và nắm lấy quyền lực Nhà nước để thực hiện sự
thống trị của mình bằng việc thay thế Nhà nước của giai cấp bóc lột bằng Nhà nước
kiểu mới, Nhà nước của giai cấp vô sản”.
Việc thiết lập Nhà nước vô sản là một quy luật phổ biến đối với các dân tộc
thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng mọi dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội có những điều kiện lịch sử và đặc điểm của dân tộc cũng
khác nhau. Với sự phân tích trên chúng ta tìm thấy Nhà nước cộng sản có cơ sở
khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân, lấy dân làm gốc,
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, vì lợi ích của nhân dân lao động.
Nhà nước XHCN Việt Nam là một Nhà nước kiểu mới, do Đảng cộng sản
lãnh đạo. Điều này trở thành một nguyên tắc trong xây dựng Nhà nước mà chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh và khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”,
ngay trong di chúc của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Người
nhấn mạnh :”Đảng cầm quyền” có nghĩa là Đảng lãnh đạo chính quyền.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu vừa qua đã cho thấy khi Đảng
cộng sản không lãnh đạo được hoặc mất quyền lãnh đạo Nhà nước thì lập tức chế độ
XHCN bị tan rã. Trong lịch sử nước ta, khi có chính quyền cách mạng, Đảng cũng
đã trải qua không ít thời kỳ khó khăn nhưng nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước

không bao giờ bị coi nhẹ.
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 8


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

CHƯƠNG II
SỰ VẬN HỌC THUYẾT MÁC XÍT ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC TA : NHÀ PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN.
1.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Nhà nước pháp quyền của dân, do dân vì dân là một trong những nội dung tư
tưởng cơ bản, hình thành khá sớm trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong các văn kiện công bố vào cuối những năm 20 và đầu nhưng năm 30
của thế kỷ 20 (đường lối cách mệnh, chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của
Đảng cộng sản việt nam…).
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 nga năm 1917, Hồ Chí Minh đã khẳng
định:”nguyên lý về Nhà nước trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng là thành công
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình
đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối như đế quốc pháp khoe khoang bên
An Nam, cách mạng Nga đã đuổi được Vua, Tư Bản, Địa Chủ, rồi lại ra sức công
nông các nước và nhân dân bị áp bức các thuộc địa cách mệnh để lật đổ tất cả chủ
nghĩa đế quốc và tư bản trên thế giới” (Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, kế tục một
cách trung thành những nguyên lý về Nhà nước và chủ nghĩa cách mạng của chủ

nghĩa Mác-Lênin và thể nghiệm trong thực tiễn việc xây dựng một Nhà nước cách
mạng của nhân dân lao động ở Việt Nam.
Từ những bài học kinh nghiệm của cách mạng thế giới, đặc biệt là mô hình
Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Nga, qua thắng lợi của Cách mạng tháng tám 1945,
căn cứ vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã xây
dựng Nhà nước Cách mạng kiểu mới ở Việt Nam là Nhà nước dân chủ, nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngay sau khi giành được chính quyền,
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng toàn dân xây dựng và củng cố chính quyền
của nhân dân. Trong bài Chính Phủ “Là công bộc của nhan dân”, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ:“Các công việc của chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy
nhất là mưu tụ do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên, chính phủ nhân dân cũng
phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại
cho dân thì tránh” (Hồ Chí Minh sđđ, tập 4 trang 22). Hồ Chí Minh còn nêu rõ vai
trò quan trọng của cả chính quyền địa phương và cơ sở trong việc thực thi dân chủ
trực tiếp với nhân dân. Người viết bài “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dẫu khó
khăn đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn
sử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho
chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể
nâng cao đời sống vật chất, và tinh thần của dân phải đặc biệt chú ý”. “Muốn được
dân yêu muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi dân lên
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 9


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư” (Hồ CHí Minh-sđđ, tập 4 trang

48).
Trong xây dựng Nhà nước của dân, do nhân dân, vì nhân dân,Hồ Chí Minh
coi trọng phát huy dân chủ tự lựa chọn bầu ra người đại biểu vào cơ quan chính
quyền Nhà nước.Ngay trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời ngày 03-91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc
tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả cả công dân trai, gái đủ mười
tám tuổi đều có quyền ứng cử, bầu cử, không phân biệt giàu nghèo tôn giáo dòng
giống … Viết về ý nghĩa tổng tuyển cử chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:”Tổng
tuyển cử là một dịp cho toàn dân tự do lựa chọn những người có tài ,có đức ,để
gánh vác công việc nước nhà .Tổng tuyển cử tức là tự do ,bình đẳng, tức là dân chủ,
đoàn kết. Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra quốc hội .Quốc hội sẻ cử ra chính
phủ, Chính phủ đó thật là của dân” (Hồ Chí Minh, sđđ, trang 133).
Bản chất Nhà nước của giai cấp công nhân mang tính nhân dân sâu sắc còn
phải được thể hiện cụ thể bằng mọi hoạt động, mọi việc làm của Nhà nước phải vì
lợi ích của nhân dân .Hồ Chí Minh chỉ ra :”Chúng ta tranh được độc lập rồi mà dân
cứ chết đói,chết rét vì tự do độc lập cũng không làm được gì .Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do độc lập khi mà dân được ăn no mặc ấm “.Và người nhấn mạnh :”Chúng
ta phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, làm cho dân có việc làm cho dân có chổ
ở, làm cho dân có học hành “(Hồ Chí Minh sđđ, tập 4 trang 152).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng quản lý đất nước, xã hội bằng Hiến
pháp, pháp luật, quan tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền. Năm 1919 Nguyễn Ái
Quốc (Hồ Chí Minh) thay mặt những người yêu nước Việt Nam trong danh sách
tám điểm gởi tới hội nghị Véc_Xây yêu cầu cải cách pháp luật ở Đông Dương để
người bản xứ được bảo đảm về pháp luật như người Châu Âu, Nguyễn Ái Quốc đã
nêu rõ tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, “Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”. Ngày 03-9-1945 sau ngày tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trước
chúng ta đã bị chế độ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”(Hồ Chí Minh, sđđ tập,
trang 8).
Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước và chính phủ, trưởng ban soạn thảo hiến

pháp, Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Hiến pháp dân chủ, đó là bản hiến pháp đầu
tiên trong lịch sử nước ta. Bản hiến pháp được quốc hội khoá I kỳ họp thứ hai thông
qua ngày 09-01-1946 . Trong hoàn cảnh cách mạng nước ta “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc “, phải vượt qua bao khó khăn, thử thách, có ý nghĩa quan trong về thực
tiễn pháp lý. Đó là thành quả to lớn của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản và Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Những quy định của hiến pháp năm 1946 chứa đựng
sâu sắc bản chất của nhà nước cách mạng – nhà nước pháp quyền kiểu mới của dân,
do dân, vì dân .
Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân Hồ Chí Minh hết sức chú trọng
rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chứ nhà nước. Sau khi thành lập chính quyền cách
mạng, trong thư gửi UBND các cấp, người chỉ rõ : “ tôi vẫn biết trong các bạn có
người làm theo đúng chương trình của chính phủ và rất được lòng dân. Song chỉ có
những người phạm những lầm lỗi lặng nề” Người cũng thẳng thắn chỉ ra nhưng lỗi
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 10


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

lầm chính như : “ Trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túi chia rẽ, kêu ngạo, tham ô, xa
hoa, lãng phí, quan liêu và hách dịch với dân” . “Ngang tầm phóng túng muốn sao
được vậy coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để
làm việc cho dân, chứ không phải cậy thế với dân” . Trong khi đời sống còn đói khổ
mà cán bộ : “Ăn uống cho ngon, mặc muốn cho đẹp ngày càng xa xỉ, ngày càng
lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ở đâu ra ?. Thậm chí lấy của công dùng vào tư, quên cả
thanh liêm đạo đức”. (Hồ Chí Minh, sđđ, tập 4, trang ).

Để bộ máy nhà nước trong sạch, vì quyền lợi của dân Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“phải chọn trong nhưng người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi của
dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ
tiền tài hay một thế lực nào khác mà chui lọt vào uỷ ban đó… những nhân viên Uỷ
ban không lợi dụng danh nghĩa Ủy ban để gây bè, tìm các đưa người trong nhà, họ
hàng vào làm việc với mình” (Hồ Chí Minh sđđ, tập, trang 22).
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi chính quyền Cách mạng nước ta còn non
trẻ, chưa am hiểu về vấn đề nhà nước. Hồ Chí Minh nổi bật vai trò là lãnh đạo kiệt
suất làm hết sức mình để cùng Đảng xây dựng, củng cố vững chắc Nhà nước kiểu
mới Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước và bộ
máy chính quyền các cấp thực sự là công bộc của nhân dân. Chăm lo xây dựng Hiến
Pháp và hệ thống pháp luật phản ánh ý chí nguyện vọng, lợi ích và quyền lợi của
nhân dân. Hoạt động thực tiễn của chính quyền của Nhà nước và nội dung Hiến
pháp, pháp luật cũng thể hiện đường lối, mục tiêu cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam.

2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC TA: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA
DÂN, DO DÂN VÌ DÂN
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ khi mới được thành
lập (03-02-1930), Đảng ta đã thấm nhuần và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Nhà nước, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh thực tiễn từng giai đoạn phát triển của Cách mạng nước ta . Đảng ta xem nhà
nước XHCN là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của
nhân dân. Nhà nước đó được tổ chức theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN,
là Nhà nước của dân, do dân vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực của nhà nước dược tổ chức theo
nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp .

Sau Cách mạng tháng 8-1945 thắng lợi Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng
Hoà, một Nhà nước Công – Nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, với bản tuyên
ngôn độc lập và bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 dã thể hiện đường lối của Đảng ta
và tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ, cộng hoà được
xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai
cấp, tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân .

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 11


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Sau năm 1954 nước ta có hiến pháp 1959 thể hiện đường lối của Đảng ta là
xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và kháng Mỹ giải phóng
Miền Nam, thống nhất tổ quốc .
Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975, thống nhất Tổ Quốc, cả nước quá độ lên
CNXH, năm 1980 nước ta có hiến pháp của cách mạng XHCN trong cả nước.
Hiến pháp năm 1992 (Đã sửa đổi bổ sung 2002) khẳng định “nhà nước Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lục của Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Bản chất của Nhà nước ta thể hiện một cách bao quát toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hoá, xã hội.
Lĩnh vực chính trị: tại đều 3 Hiến pháp 1992 nêu rõ : “ Nhà nước đảm bảo
và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân …”.
Quyền làm chủ của nhân dân, đó là quyền của Nhà nước thuộc về nhân dân, phát

huy quyền làm chủ của nhân dân là xây dựng toàn bộ những nguyên tắt pháp lý làm
cơ sở cho việc nhân dân nắm quyền lực Nhà nước và thông qua Nhà nước XHCN
mà sử dụng quyền lực của mình, quyết định các công việc của mình, quyết định các
công việc của đất nước, vì lợi ích của mình .
Lĩnh vực kinh tế : Nhà nước thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế
tạo ra những điều kiện làm cho nền kinh tế đất nước có năng động xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lí của Nhà nước với nhiều dạng sở hữu và hình thức kinh doanh khác
nhau. Mọi tổ chức cá nhân tự chủ trong sản xuất, kinh doanh đều bình đẵng trước
pháp luật. Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề mang tính nguyên tắc, bảo đảm
lợi ích người lao động, coi đó là động lực mục tiêu của dân chủ hoá. Lợi ích cá nhân
phải hài hoà với lợi ích tập thể và xã hội. Điều 16 hiến pháp 1992(đã sửa đổi năm
2001)nêu rõ: “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước
mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên
cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế …
cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật “.
Lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, xã hội : Nhà nước thực hiện chủ trương tự do tư
tưởng và giái phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng của con người. Dân chủ hoá
trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá xã hội phải đặt trên cơ sỡ mối quan hệ mật thiết với
quá trình, dân chủ trong lĩnh vực chính trị và lĩnh vực phát triển kinh tế. Hệ tư tưởng
nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình này là chủ nghĩa Mác–Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng. Nhà nước thực hiện công bằng
xã hội, chăm lo phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, phát triển bảo tồn
nền văn hoá Việt Nam…
Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VΙ được đúc kết bài học: “Lấy dân làm
gốc “, tăng cường hiệu Nhà nước để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động
và quản lý xã hội theo pháp luật để xây dựng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân
lao động.


NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 12


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua “ cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên XHCN” , đã xác định 7 phương hướng
cơ bản về xây dựng Nhà nước, phương hướng đặt lên hàng đầu là xây dựng Nhà
nước XHCN, “Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân, lấy liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân lao
động, giữ nghiêm kỹ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi
ích của tổ quốc và của nhân dân “.
Trước tình hình mới, hội nghị lân thứ 8 ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII đã đặt ra yêu cầu cấp thiết “xây dưng kiện toàn bộ máy Nhà nước vững
mạnh, trong sạch có hiệu lực, hiệu quả, bài trừ quan liêu tham nhũng, luôn luôn giữ
vững và phát huy bản chất cách mạng của một nhà nước do dân, vì dân”.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục khẳng định quan điểm,
biện pháp đã được đề ra Trung ương 8 (khoá VII ) và sau đại hội VIII các quan điểm
và biện pháp nói trên đã được cụ thể hoá băng nghị quyết Trung ương 3, nghị quyết
Trung ương 7 để chỉ đạo quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước ta thực
sự là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đại hội IX của Đảng cụ
thể hoá nhưng quan điểm trên thành năm nhiệm vụ:
Một là : xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
theo các quan điểm, có tính nguyên tắc : Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, mỗi cơ quan, tổ chức, các bộ, công chức mỗi công
dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, việc cải cách tổ chức và hoạt
đông của Nhà nước phải gắn liền với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước .
Hai là : tiến hành mạnh mẽ việc cải cách thể chế và phương thức hoạt động
của Nhà nước. Trong đó, điều trước tiên là phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương
thức nâng cao hiệu quả hoạt động của quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập
pháp, làm tốt các chức năng quyết định các vấn đề quan trong của đất nước, thực
hiện quyền hiệu quả giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà
nước. Phải xây dựng một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch vững mạnh,
từng bước hiện đại hoá. Phải cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả của
các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm năng lực và phẩm chất của cán
bộ tư pháp trong khi thi hành nhiệm vụ.
Ba là : Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật kỷ cương, tăng cường pháp chế
trong bộ máy Nhà nước và toàn xã hội, trong đó vừa phải nâng cao chất lượng nền
dân chủ hiện đại, thông qua cơ quan dân cử các cấp và phải thực hiện tốt quy chế
dân chủ, mở rông dân chủ trực tiếp ở cơ sở.
Bốn là : Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực và đạo
đức tốt, một đội ngũ được đào tạo và bồi dưỡng cơ bản có hệ thống về đường nối
chính sách, đúng chức danh, tiêu chuẩn, được định kỳ kiểm điểm và đánh giá đúng
chất lượng.

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 13


Tiểu luận tốt nghiệp


Cao Cấp LLCT

Năm là : Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và
trong toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sơ gắn
đấu tranh chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống
các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính .
Tại kỳ họp lần thứ nhất quốc hội khoá XI, tổng bí thư Nông Đức Mạnh trong
khi trình bày việc làm của Trung ương để thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước ta
đã nhấn mạnh : “Tư tưởng chỉ đạo cũng là quyết tâm của Trung ương là sẽ làm tất
cả những gì cần thiết để tăng cương bản chất nhân dân, tính pháp quyền, tính hiệu
lực và hiệu quả của Nhà nước ta. Chúng ta sẽ không làm và không chấp nhận bất cứ
việc làm nào có thể làm suy giảm bản chất cách mạng, làm tổn hại đến uy tín. Sự
trong sạch và vững mạnh của Nhà nước ta, chúng ta xây dựng cho mình phong cách
nói đi đôi với làm, đã nói là làm và đã làm thì làm đến nơi đến chốn, làm tốt làm có
hiệu quả. Kiên quyết khắc phục tình trạng nói mà không làm, nói nhiều làm ít hoặc
nói một đằng làm một nẻo”.
Gần sáu thập kỷ qua, với một Nhà nước kiểu mới, với khối đại đoàn kết dân
tộc, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng tiên phong đất nước ta đã lập lên
nhiều kỳ tích, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, thống nhất tổ quốc. Thực hiện công cuộc đổi mới đầy sáng tạo
giành được nhiều thắng lợi quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại, xây dựng và hoàn thiện từng bước một Nhà nước pháp quyền “
Lấy dân làm gốc” do nhân dân lao động làm chủ. Tuy nhiên, Nhà nước ta bên cạnh
nhưng thành tựu to lớn đã giành được vẫn còn bộc lộ một số tồn tại như việc cải
cách thủ tục hành chính còn chậm, thiếu kiên quyết, bất cập trong tổ chức và hoạt
động về cả lập pháp, hành pháp, tư pháp . Hiệu lực và hiệu quả của quản lý chính
quyền các cấp vẫn còn nhiều mặt yếu kém, tệ nạn tham nhũng lãng phí, quan liêu
trầm trọng vẫn đang là nguy cơ thoái hoá bô máy Nhà nước. Song chúng ta tin tưởng
rằng Đảng ta với sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa MÁC-Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
xây dựng Nhà nước ta thực sự của dân, do dân, vì dân .

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 14


Tiểu luận tốt nghiệp

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Cao Cấp LLCT

Trang: 15


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ Ở HUYỆN CÙ LAO DUNG
SÓC TRĂNG
A/ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHUNG
Cù Lao Dung là một Huyện mới được thành lập (trên cơ sở điều chỉnh địa
giới hành chính huyện Long Phú), vị trí nằm giữa sông Hậu, sát biển Đông, bốn mặt
được bao bọc bởi sông nước, địa hình trải dài có hai cửa sông lớn là Định An và

Trần Đề. Huyện có 7 xã, 1 thị trấn, diện tích đất tự nhiên 24.942 héc-ta, Đông giáp
tỉnh Trà Vinh, Tây giáp sông Hậu, nam giáp biển Đông, Bắc giáp huyện Kế Sách.
Dân số là 58.031 người, trong này: Kinh 55.405, Khơ me 2.590, Hoa 33, Chăm 3.
cách tỉnh 20km về hướng đông nam .
Về kinh tế xã hội cù Lao Dung là vùng đất bãi bồi được phù xa thiên nhiên
bồi đắp hình thành qua nhiều thế kỷ, đất đai có độ phì nhiêu cao, thích hợp cho
ngành chăn nuôi và trồng trọt, tài nguyên thuỷ sản phong phú. Nhưng diện tích
nhiễm mặn còn nhiều, mùa mưa nước thượng nguồn đổ xuống, lại ảnh hưởng chế độ
bán nhật triều biển đông nên thường xuyên đe doạ sản xuất của nhân dân. Mặt khác
trong những năm chiến tranh leo thang ác liệt đế quốc Mỹ và bọn Ngụy quyền tay
sai lấy địa bàn này thí điểm chiến lược bình định cấp tốc dồn dân lập ấp chiến lược,
hòng tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân. Nên mức độ đánh phá của đế
quốc rất ác liệt dã man. Nhưng với ý chí kiên cường truyền thống yêu nước gắn kết
nhiều đời của bốn dân tộc anh em (Kinh, Khơme, Hoa, Chăm) dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng quân và dân ta đã bẻ gẫy chiến lược bình định của địch giải tán
đồn bót ấp chiến lược trên toàn địa bàn (vào tháng 8 năm 1973) .
Sau chiến thăng mùa xuân năm 1975 Đảng lãnh đạo nhân dân khôi phục lại
sản xuất, ổn định cuộc sống và vừa xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng hàn gắn lại vết
thương chiến tranh. Cù Lao Dung cũng là một nơi in đậm dấu son lịch Cách mạng
của Đảng bộ và nhân dân. Trong những năm chiến tranh ác liệt nhưng với tấm lòng
kiên trung kính yêu Bác quân dân đã chiến đấu ngoan cường để bảo vệ đền thờ Bác
đến ngày giải phóng đất nước. Năm 2000 được Bộ văn hoá thông tin xét công nhận
“ di tích lịch sử văn hoá đền thờ Bác”. Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể Cù Lao
Dung là một Huyện có địa hình khá đặc thù, kinh tế phát triển chưa ổn định, mặt
bằng dân trí thấp, lao động thiếu việc làm, tình hình trên đặt ra cho Đảng bộ nhiều
vấn đề tập trung giải quyết.
ĐÁNH GIÁ CHUNG

Do Huyện mới được thành lập và hoạt động trong thời gian ngắn, thực trạng
tình hình vẫn còn một số khó khăn nhất định nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của

tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự hộ trợ của các ngành chức năng tỉnh, Đảng bộ đã tiếp tục
phát huy truyền thống Cách mạng, nêu cao tinh thần tự lực tự cường đoàn kết nhất
trí trong toàn Đảng, quân, dân, cán bộ, Đảng viên đã nêu cao tính tiền phong gương
mẫu, ra sức học tập rèn luyện dám nghĩ dám làm, khắc phục khó khăn. Bên cạnh đó
nhân dân trong huyện tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, gắn bó mật thiết
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 16


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

với Đảng bộ Huyện, ra sức lao động sản xuất đạt được những thành tựu cơ bản, tạo
tiền đề thuận lợi cho chặng đường tiếp theo. Tuy nhiên, trên từng lĩnh vực cụ thể vẫn
còn hạn chế, thiếu sót. Nền kinh tế tăng trưởng nhưng chưa vững chắc. Tốc độ
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chậm, chưa có mô hình cụ thể, một số tiềm
năng thế mạnh chưa được tập trung khai thác đúng mức. Cơ cấu công nghiệp nông
thôn chưa phù hợp, ngành chăn nuôi chiếm tỉ trọng nhỏ. Giá hàng nông sản, thực
phẩm không ổn định, các chính sách hỗ trợ để phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần triển khai chưa đến nơi đến chốn. Kinh tế hợp tác, hợp tác xã thiếu tính năng
động, nhạy bén, chưa đủ sức thuyết phục. Sản xuất công nghiệp còn manh mún,
phân tán, sản lượng chế biến giảm sút, thu hẹp, giá trị tổng sản lượng thấp. Hoạt
động văn hoá – xã hội tuy có tiến bộ, có chú ý đến vùng sâu nhưng chưa thường
xuyên, phương tiện, con người còn thiếu và yếu. Tỷ lệ huy động học sinh ra lớp đầu
năm học đạt kế hoạch nhưng số học sinh bỏ học nửa chừng còn cao, công tác chuẩn
hoá giáo viên chậm, số phòng học tre lá còn nhiều. Đội ngũ y, bác sĩ còn mỏng. Tình
hình an ninh trật tự còn một số mặt đáng quan tâm, nhất là tệ nạn trộm cắp, gây rối
trật tự công cộng, tai nạn giao thông tăng. Về công tác xây dựng Đảng: Nội dung

sinh hoạt lệ ở các cơ sở Đảng trực thuộc Đảng Uỷ chưa được đổi mới. Chất lượng
hoạt động một số đoàn thể chưa đáp ứng nhu cầu, nhất là trong vận động nhân dân
thực hiện các phong trào ở địa phương. Bộ máy Nhà nước đã được cải cách một
bước, nhưng chất lượng và hiệu quả hoạt động, hiệu lực quán lý chưa đáp ứng yêu
cầu. Từ thực trạng, tình hình trên, Đảng bộ rút ra một số kinh nghiệm sau:
Trong quá trình lãnh chỉ đạo cần nhận thức công tác xây dựng Đảng là then
chốt, phải tập trung xây dựng xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng bộ ngày
càng trong sạch vững mạnh.
Phải tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn, làm tốt công tác xoá đối giảm nghèo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức
xúc.
Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát động rộng rãi các phong trào
cách mạng của quần chúng thực hiện xã hội hoá công tác xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn và các hoạt động văn hoá – xã hội.
Vận dụng một cách sáng tạo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước để xây dựng một số nghị quyết chuyên đề, các chương trình hành động sát
thực tế của địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, thường xuyên sơ tổng kết,
kịp thời điều chỉnh, bổ sung những vấn đề mới, bảo đảm đưa Nghị quyết của Đảng
vào thực tiễn đời sống.
Tuy còn một số mặt hạn chế, nhưng thời gian qua Đảng bộ đã nêu cao tinh
thần đoàn kết và ý chí tiến công Cách mạng, vượt qua khó khăn ban đầu để hoàn
thành các chỉ tiêu chung. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định, đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân được cải thiện. Cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống chính trị
được củng cố, kiện toàn, nội dung và phương thức hoạt động có tiến bộ, an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đây là những thành tựu cơ bản thể
hiện sức chiến đấu của toàn Đảng bộ. Nhưng nhìn một cách tổng thể thì Cù Lao
Dung vẫn là Huyện có nền kinh tế chưa ổn định, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Với một xuất phát điểm thấp
như thế, nguy cơ tụt hậu luôn là thách thức đòi hỏi Đảng bộ phải tập trung giải quyết
trong nhiệm kỳ 2002 –2005.

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 17


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Khó khăn ban đầu để hoàn thành các chỉ tiêu chung. Nhịp độ tăng trưởng
kinh tế khá ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. Cơ sở
hạ tầng phát triển, hệ thống chính trị được củng cố,kiện toàn, nội dung và phương
thức hoạt động có tiến bộ, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Đây là những thành tựu cơ bản thể hiện sức chiến đấu của toàn Đảng bộ.
Nhưng nhìn một cách tổng thể thì Cù Lao Dung vẫn là Huyện có nền kinh tế
chưa ổn định, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá-hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn.Với một xuất phát điểm thấp như thế nguy cơ tụt hậu luôn là
thách thức đòi hỏi Đảng bộ phải tập trung giải quyết trong nhiệm kì 2002-2005.

B/ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU NHIỆM KÌ
2002-2005:
I / PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHUNG:
Tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương, đẩy mạnh tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, phát triển theo hướng nông, ngư, lâm,
công nghiệp và dịch vụ, phấn đấu tăng dần tỷ trọng khu vực 1 và tập trung mọi
nguồn lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, quan tâm phát triển
ngành chăn nuôi, từng bước đưa giá trị sản lượng ngành chăn nuôi tương xứng với
trồng trọt, phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, gắn tăng
trưởng và phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong đó ưu tiên cho
công tác xoá đói giảm nghèo nâng cao dân trí và xây dựng kết cấu hạ tầng nông

thôn. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toan xã hội, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch vững mạnh trong giai đoạn mới

II / MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU ĐẾN NĂM 2005:
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2002-2005 = 9%năm.
Trong đó:
- Khu vực 1:tăng 10%/năm.
- Khu vực 2:tăng 4%/năm.
- Khu vực 3:tăng 13%/năm.
GDP/người:từ 400-500USD(tính theo giá cố định 1994)
*Tổng diện tích cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày:13000ha.
- Diện tích cây mía 6500 ha.
- Tổng đàn heo22000 con.
- Tổng đàn bò 500 con (trong này: Bò Laisind 200 con).
- Tổng sản lượng thuỷ sản(Gồm đánh bắt, nuôi trồng ) 5000 tấn.
- 30% hộ dân tham gia các hình thức kinh tế hợp tác-hợp tác xã.
*Giá trị tổng sản lượng công nghiệp 120 tỷ.
- Tỷ lệ hộ dân có điện sử dụng 70%.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh 70%.
*Thu ngân sách từ 1,7 tỷ đến 2 tỷ đồng/năm.
- Vận động nhân dân đóng góp quỹ xây dựng CSHT từ 3-5tỷ đồng/năm(Tiền
mặt 1,5 tỷ /năm).
- Có 2 xã cơ bản
Có 2 xã cơ bản hoàn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 18


Tiểu luận tốt nghiệp


Cao Cấp LLCT

- Xoá 100%phòng học che lá.
- Huy động học sinh ra lớp :Tiểu học :99-100%, Trung học cơ sở : 60-70%,
Trung học phổ thông 35-40%.
- Tỷ lệ phát triển dân số 1,3%.
- Xây dựng nhà tình nghĩa 15-20 căn.
- Tỷ lệ hộ nghèo 17%(Mỗi năm giảm tương đương 3%).
- Giải quyết việc làm 1000lao động/năm.
- 85% cơ sở Đảng trở lên đạt trong sạch, vững mạnh, không có chi, Đảng bộ
yếu kém
- Phát triển 210 Đảng viên mới
- Đảng bộ huyện đạt vững mạnh.
III / CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:
1/ Phát Triển Kinh Tế:
Đẩy mạnh công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, phát triển sản xuất theo hướng toàn diện và theo quy hoạch gắn
với làm tốt công tác thuỷ lợi, phòng chống lụt bão, nhanh chóng giải quyết những
tồn đọng về tranh chấp đất đai, tạo sự ổn định chính trị, xã hội ở nông thôn để nhân
dân an tâm và tập trung đầu tư sản xuất. Đa dạng hoá sản phẩm ngành nông nghiệp
địa phương, gắn sản xuất với tiêu thụ và chế biến. Làm tốt công tác chuyển giao
khoa học kỹ thuật,ưu tiên chọn và bố trí giống cây trồng hiệu quả kinh tế cao, có thị
trường và đầu ra ổn định.
Chỉ đạo thực hiện các mô hình kinh tế VAC, phát triển du lịch sinh thái miệt
vườn. Có kế hoạch bảo vệ tốt nguồn lợi thuỷ sản, tài nguyên rừng. Ổn định diện tích
cây mía ở mức 6.500 ha. Từng bước thay các giống mới có năng suất cao, sạch
bệnh. Đầu tư giống, vốn bảo đảm cải tạo vườn kém hiệu quả đạt 100% KH, bố trí
một số diện tích đất ven thị trấn để trồng rau sạch, cây kiểng…
Hướng dẫn và hổ trợ nhân dân xây dựng các dự án phát triển chăn nuôi gia

đình theo mô hình VAC, từng bước cải thiện chất lượng con giống gia súc, gia cầm
bảo đảm tăng trọng nhanh, nạc hoá và phù hợp thị trường tiêu thụ.
Tăng cường chỉ đạo phong trào nuôi tôm, cá nước ngọt bằng cách tận dụng
sông rạch, ao mương vườn hiện có, nhằm đạt giá trị cao trên cùng một đơn vị diện
tích. Xúc tiến công tác lập dự án và triển khai xây dựng trại giống trồng cây ở An
Thạnh 1.
Quy hoạch, phát triển vùng nuôi thuỷ sản nước lợ ở 2 nông trường và các xã
An Thạnh 3, An Thạnh Nam, Đại Ân 1, mở rộng diện tích nuôi lên 1200 ha(có 200
ha nuôi công nghiệp). Cuối năm 2002, triển khai thực hiện các dự án nuôi tôm nước
lợ ở ấp An Quới,xã An Thạnh 3, ấp Võ Thành Văn, xã An Thạnh Nam,ấp Nguyễn
Tăng, xã Đại Ân 1 và một số nơi có điều kiện. Để bảo đảm yêu cầu phát triển sản
xuất phải làm tốt công tác quy hoạch, hoàn chỉnh hệ thống thu ỷ lợi, hệ thống đê
bao.
Có chính sách đầu tư khuyến khích hộ dân có điều kiện nâng cấp, cải tiến
phương tiện để nâng cao sản lượng đánh bắt. Tranh thủ với tỉnh, Trung ương quy
hoạch vùng neo đậu tàu thuyền chung của tỉnh Sóc Trăng và các tỉnh lân cận.

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 19


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

Thực hiện dự án phát triển rừng ngập nước ven biển do Ngân hàng thế giới
tài trợ. Lập quy hoạch phát triển rừng phòng hộ và kế hoạch quản lý các vùng đất
bãi bồi ven sông theo những hình thức phù hợp như : Cho thuê, giao khoán … phân
cấp quản lý tốt diện tích rừng hiện có và trồng rừng mới, thành lập đội bảo vệ rừng.

Xây dựng dự án du lịch sinh thái rừng tại xã An Thạnh Nam, kêu gọi, mở rộng các
hình thức đầu tư để phát triển loại hình du lịch này ở một số vùng trên địa bàn
Huyện.
Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân hoàn thành kế hoạch trồng
cây phân tán hàng năm trên các lộ trung tâm, đê bao để tạo mỹ quan môi trường,
tăng độ che phủ, phòng chống sạt lở, lũ lụt. Song song với việc thực hiện công tác
khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm phải xây dựng các mô hình điểm để ứng
dụng rộng rãi trong nhân dân.
Gắn công tác củng cố với phát triển và đa dạng hóa các hình thức kinh tế hợp
tác phù hợp với nguồn vốn và trình độ quản lý của kinh tế hộ. Có chính sách hỗ trợ,
khuyến khích các hộ có điều kiện thành lập trang trại, đẩy mạnh công tác đào tạo
cán bộ Ban quản trị HTX, nhất là Chủ nhiệm, Kế toán…. Mặt trận và các Đoàn thể
làm tốt công tác tuyên truyền vận động để nhân dân có ý thức tốt trong việc tham gia
các hình thức kinh tế hợp tác cũng như thấy được tính tất yếu và xu thế phát triển
của kinh tế hợp tác, HTX trong nền kinh tế thị trường.
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhằm thúc đẩy tiến độ công
nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, gắn mục tiêu phát triển công
nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết vấn đề lao động, việc làm và phát
triển đô thị.
Về qui mô, phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, ưu tiên cho ngành công nghiệp
chế biến và các nghề truyền thống. Hướng phát triển phải bảo đảm vùng nguyên liệu
và thu hút nhiều lao động địa phương, hình thành các cụm công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ.
Nghiên cứu đơn giản hoá thủ tục và vận dụng các chính sách ưu đãi về thuế,
vốn tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút nhân dân, các nhà đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn.
Quy hoạch xây dựng khi thương mại tại thị trấn và phát triển chợ nông thôn ở
những nơi có điều kiện, bảo đảm làm tốt vai trò tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, sản
phẩm nông nghiệp. Bằng nhiều nguồn vốn (chủ yếu là xã hội hóa ) xây dựng một số
công trình cơ sở hạ tầng có tính đột phá tạo đà phát triển nền Kinh Tế-Xã Hội của

Huyện như: khu thương mại, chợ thị trấn Cù Lao Dung, phà Long Phú-Đại Ân 1,
cầu Cồn Tròn, Đê bao cồn, Đền thờ Bác, Nghĩa trang liệt sĩ …
Nâng cấp và xây dựng thêm các tuyến đường giao thông liên xã, liên ấp bằng
nhiều hình thức, từng bước tăng dần khối lượng vận tải đường bộ gắn với quy hoạch
sắp xếp hệ thống bến bãi, Có kế hoạch khai thác hiệu quả giao thông thuỷ, đẩy mạnh
công tác giải toả các vi phạm lộ giới, đường sông, lập lại trật tự an toàn giao thông
trong Huyện. Đến cuối năm 2005 xe ô tô đến được trung tâm 7/8 xã, thị trấn, 80%
ấp xe mô tô đi được trong hai mùa.
Xúc tiến công tác chuyển dịch cơ cấu sản xuất, quy hoạch dân cư, chợ ven
các trục giao thông, mở rộng các dịch vụ về vận tải, du lịch để khai thác có hiệu quả
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 20


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

tiềm năng, lợi thế của địa phương khi các dự án Nam Sông Hậu, quốc lộ 60, Cảng cá
và khu công nghiệp Trần Đề hình thành, từng bước đưa Cù Lao Dung trở thành cửa
ngõ giao thông và vùng kinh tế của khu vực.
Xây dựng các trạm cấp nước hợp vệ sinh cho các vùng dân cư tập trung, đẩy
mạnh tiến độ xây dựng các giếng khoan nông thôn theo hướng xã hôi hóa đến cuối
năm 2005 có 70% hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh. Phối hợp với Bưu Điện tỉnh để
nâng cấp Bưu cục An Thạnh 2 thành Bưu Điện huyện, xây dựng Bưu Điện văn hóa ở
các xã, phát triển nhanh các phương tiện thông tin, dịch vụ bưu chính, tăng cường
chất lượng phục vụ, bảo đảm thông tin thông suốt, kịp thời và chính xác.
Phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội của Huyện. Cùng với việc quy hoạch phải xây dựng các dự

án về tuyến và điểm tham quan, mở rộng các dịch vụ phục vụ ngành du lịch, khai
thác du lịch xanh, du lịch về nguồn, từng bước đào tạo đội ngũ cán bộ và tăng cường
cơ sở hạ tầng các khu du lịch, hỗ trợ nhân dân có điều kiện phát triển các điểm du
lịch miệt vườn…
Thu ngân sách, đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên, cùng với mở
rộng và khai thác nguồn thu, phải quan tâm, tạo điều kiện để phát triển nhanh chóng
các ngành nghề kinh doanh, sản xuất, dịch vụ thương mại. Có kế hoạch rà soát lắm
lại và đưa vào diện thu thuế đối với các phương tiện giao thông thuỷ, các hộ kinh
doanh có thu nhập ổn định. Trong công tác thu phải bảo đảm công bằng, thu đúng,
đủ, kịp thời theo luật định. Kiên quyết xử lý nghiêm các sai phạm, phấn đấu hoàn
thành nghĩa vụ thu ngân sách hàng năm từ 1,7 đến 2 tỷ đồng. Quan tâm củng cố bộ
máy ngành thuế đủ về số và mạnh về chất.
Lãnh đạo công tác giao chỉ tiêu Kinh tế - Xã hội hàng năm cho các xã, thị
trấn, các ngành Huyện một cách công khai, dân chủ và hợp lý. Bảo đảm công tác chi
đúng nguyên tắc, tiết kiệm, ngăn chặn tình trạng bội chi, toạ chi với mọi hình thức.
Thực hiện tốt phương châm “Dân biết,dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong việc
chi các nguồn quỹ do nhân dân đóng góp.
Ngân hàng tập trung huy động và ưu tiên các nguồn vốn, nhất là vốn trung và
dài hạn phục vụ công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, kinh doanh,
mở rộng ngành, nghề bảo đảm yêu cầu tăng nguồn thu cho ngân sách. Riêng vốn
ngân hàng phục vụ người nghèo, vốn 120 và các nguồn vốn của Mặt trận đoàn thể
phải đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo thống nhất của ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo
Huyện và tập trung cho vay các dự án mang tính khả thi cao và đúng với quy hoạch,
nguồn vốn phải được phát vay vào đầu vụ sản xuất. Chấm dứt tình trạng phát vay
tràn lan, manh mún, không đúng đối tượng dẫn đến hiệu quả xoá đói giảm nghèo
thấp. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, sử dụng nhiều hình thức khuyến
khích dân gửi tiết kiệm. Bảo đảm hàng năm giảm từ khoảng 350 đến 400 hộ nghèo
(tương đương 3%).
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quy hoạch, kế hoạch nhất là
kế hoạch thu, chi ngân sách, xây dựng cơ bản, tổ chức vận dụng tốt các số liệu thống

kê, điều tra vào các chương trình phát triển Kinh Tế-Xã Hội và các yêu cầu thông tin
khác của Huyện.

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 21


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

2/ Văn hoá-Xã hội:
Mục tiêu cơ bản phát triển Văn Hóa-Xã Hội là nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, trước mắt là hoàn thành công trình xây dựng Trường Trung học phổ
thông thị trấn Cù Lao Dung, có kế hoạch xây dựng các trường Trung học cơ sở ở
những xã mới thành lập, tranh thủ sự đầu tư của tỉnh để cuối nhiệm kỳ hoàn thành
các hồ sơ xây dựng trường Trung học phổ thông An Thạnh 3, xoá 100% phòng học
tre lá, giải quyết đứt điểm tình trạng thiếu giáo viên ở các cấp bằng cách chọn và đào
tạo giáo viên tại chỗ, tiếp tục chuẩn hoá giáo viên, làm tốt công tác tuyển sinh vào
ngành Sư phạm hàng năm. Triển khai kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở,
để cuối năm 2005 có 50% xã, thi trấn được công nhận hoàn thành, chú ý công tác
hướng nghiệp, dạy nghề, phát triển hệ thống trường Mẫu giáo, nhà trẻ ở một số xã,
thị trấn. Cùng với quy hoạch quản lý trường lớp phải đẩy mạnh hơn nữa công tác
khuyến học, có chính sách thu hút và tăng cường giáo viên giỏi cơ sở, giúp đỡ hỗ trợ
học sinh nghèo, hiếu học. Miễn giảm cước phí qua đò cho học sinh đi học hằng
ngày.
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân thực hiện tốt công tác
Dân số.
KHHGĐ để đạt mục tiêu hạ tỉ lệ dân số xuống còn 1,3% vào năm 2005. Triển

khai và hoàn thành đưa vào sử dụng Trung tâm y tế Huyện, Trạm y tế xã, củng cố
mạng lưới y tế ấp. Làm tốt công tác y dược tư nhân, vệ sinh môi trường, chủ động
phòng chống dịch bệnh hằng năm. Đến cuối 2005 100% xã, thị trấn có bác sĩ.
Củng cố hệ thống thông tin, trạm Truyền thanh để làm tốt hơn nữa công tác
tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật cho nhân dân, quản lý tốt các hoạt động
văn hóa, dịch vụ văn hóa, đấu tranh ngăn chặn bài trừ các tệ nạn xã hội. Tập trung
xây dựng khu dân cư văn hoá, khu dân cư an toàn, cơ quan văn hóa, hộ gia đình văn
hóa.
Quy hoạch xây dựng khu văn hóa-thể thao ở trung tâm Huyện, phát động và
duy trì phong trào tập luyện thể dục thể thao, chú ý thể thao học đường, xây dựng
các đội tuyển ở các môn thể thao thành tích cao, thực hiện tốt phương châm xã hội
hoá các hoạt động văn hoá, thể thao Huyện nhà.
Đói nghèo có nhiều nguyên nhân khác nhau do đó xoá đói giảm nghèo phải là
một chương trình lồng ghép. Trước hết đòi hỏi các cấp uỷ Đảng chính quyền, cán bộ
Đảng viên trong huyện phải có kế hoạch chỉ đạo một các tổng hợp và toàn diện tuỳ
theo thời điểm cụ thể mà xác định từng nội dung công tác trong tâm và tâm trung
thực hiện dứt điểm. Phải đặc biệt chú ý đến công tác xây dựng nhà tình nghĩa, nhà
tình thương. Huyện uỷ xác định việc xây dựng và cấp nhà ở cho các đối tượng có
nhu cầu về nhà ở là một việc làm cấp bách và cần thiết, nhằm tiến tới “ an cư lạc
nghiệp “ trong các tầng lớp nhân dân. Từng bước sắp xếp lại dân cư theo hướng quy
hoạch phù hợp với phương thức sản xuất của các vùng trên địa bàn, ổn định dân cư
các vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai ( ảnh hưởng chiều cường ven sông, ven
biển… ) đảm bảo các điều kiện sản xuất, trước hết là đất đai, nước phục vụ sinh hoạt
và sản xuất đặc biệt khó khăn. Tổ chức triển khai và đưa vào sử dụng vùng đất mới
(đất bãi bồi ven sông ven biển…) trong đó tập trung cho mục đích trồng rừng lấn
biển, trồng cây chắn sóng và kết hợp phát triển sản xuất ở những nơi có điều kiện.
Hàng năm phòng tài chánh-kế hoạch, phòng nông nghiệp - địa chính xây dựng các
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 22



Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

dự án cụ thể trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngoài ra cần chú ý các phong
trào như: chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phụ nữ tiết kiệm, thanh niên
giúp nhau lập nghiệp, nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, hỗ trợ cán bộ Đảng viên
nghèo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, phong
trào khuyến học, giúp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, công tác kế hoạch hoá gia đình
vv…
Phát động rộng rãi phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào phụng dưỡng
Mẹ Việt Nam Anh Hùng. Thật sự quan tâm giúp đỡ những người có công với nước
xây dựng cuộc sống vật chất ổn định, tinh thần thoải mái, tin tưởng lạc quan để xứng
đáng với danh hiệu gia đình cách mạng gương mẫu. Nêu cao tinh thần tương thân
tương ái, sẵn sàng giúp đỡ các đối tượng gặp rủi ro trong cuộc sống. Hoàn thành kế
hoạch vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa và kế hoạch xây dựng nhà tình nghĩa, tình
thương hàng năm. Đến cuối nhiệm kỳ cơ bản giải quyết xong các trường hợp bức
xúc về nhà ở.
Giải pháp cơ bản để phát triển văn hóa xã hội Huyện nhà là phải thực hiện tốt
công tác xã hội hóa nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực của xã hội để hoàn thành
các chỉ tiêu đề ra.
3/ An ninh - Quốc phòng:
Tiếp tục thực hiện chỉ đạo thắng lợi kế hoạch bảo vệ an ninh trong tình hình
mới, quan tâm củng cố phát triển lực lượng,tăng cường giáo dục chính trị, rèn luyện
phẩm chất đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chiến sĩ. Nêu cao tinh thần
cảnh giác Cách mạng trong toàn Đảng, quân, dân sẵn sàng đập tan các luận điệu
tuyên truyền phản Cách mạng và các hoạt động gây rối, bạo loạn, kích động của các
thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng hoạt động các phong trào quần chúng bảo vệ

an ninh Tổ quốc, đấu tranh, bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là các tệ nạn như: Cờ bạc,
đá gà, trộm cắp, vi phạm luật giao thông, mại dâm, ma tuý, đặc biệt là các hành vi
xâm phạm trẻ em, các băng nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen. Các ngành chức
năng phối hợp với các trường cấp II, III xây dựng kế hoạch đưa vào giảng dạy luật
giao thông cho học sinh.
Thường xuyên bổ sung, hoàn chỉnh phương án bảo vệ các địa bàn xung yếu,
phòng chống các phần tử xấu xâm nhập từ đường biển, làm tốt công tác xây dựng,
quản lý và huấn luyện dân quân tự vệ, đền cuối năm 2005 phải đạt 2% dân số. Động
viên mọi người thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, hoàn thành công tác
gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm. Xây dựng và lãnh đạo tốt việc thực hiện kế
hoạch liên tịch giữa Công an_Quân sự, Bộ đội biên phòng, Mặt trận - Đoàn thể
nhằm pháp huy sức mạnh tổng hợp, bảo đảm giữ vững chủ quyền, an ninh tổ quốc
và trật tự an toàn xã hội. Tăng cường lãnh đạo xây dựng các cơ quan pháp luật đủ
sức triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật.
4/ Xây dựng hệ thống chính trị:
Phát huy tinh thần đoàn kết, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ý chí cách mạng
tiến công đưa huyện nhà tiến lên một cách vững chắc. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị
quyết Trung ương VI (lần 2). Tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, Đảng viên, chỉ đạo thực hiện tốt
chương trình hành động của Huyện uỷ về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở tập trung vào các nội dung sau:
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 23


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT


Mỗi Đảng viên chấp hành nghiêm Điều lệ, thực hiện tốt Nghị quyết, tuân thủ
luật pháp Nhà nước. Để thực tốt công tác này cần đẩy mạnh việc triển khai học tập
nghị quyết của Đảng một cách thường xuyên, chú trọng đến việc đổi mới nội dung
và phương pháp học tập qua học tập làm cho mỗi cán bộ, Đảng viên nâng cao nhận
thức, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, kiên quyết sử lý nghiêm những
biểu hiện vô kỷ luật. Tiến hành mọi thủ tục để xây dựng và đưa Trung tâm bồi
dưỡng chính trị Huyện vào hoạt động. Cùng với việc tăng cường công tác chính trị
tư tưởng phải làm tốt việc giáo dục về phẩm chất, đạo đức, lối sống, đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm.
Làm tốt công tác qui hoạch, đào tạo gồm: lý luận chính trị, văn hoá, chuyên
môn nghiệp vụ. Đến cuối nhiệm kỳ có 80% cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn tốt
nghiệp cấp III và lý luận chính trị trung cấp. Tất cả Đảng viên được học chương
trình lý luận cơ sở theo qui định. Riêng cán bộ lãnh đạo ban ngành, Mặt trận - Đoàn
thể huyện phải có trình độ văn hoá tốt nghiệp cấp III, 80% có trình độ cử nhân chính
trị hoặc Đại học chuyên ngành. Đánh giá, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ phải
dựa trên tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm
thước đo chủ yếu. Đổi mới, trẻ hóa đội ngủ cán bộ lãnh đạo và nâng cao trình độ
được xem là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của mỗi cán bộ, Đảng viên.
Xây dựng đề án kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị theo hướng
tinh, gọn, hiệu quả. Trên cơ sở rà soát chức năng, nhiệm vụ tiến hành xây dựng đề
án cải cách bộ máy các cơ quan Đảng, mật trận, đoàn thể theo hướng phát huy hết
năng lực, khả năng cán bộ, tăng cường ý thức trách nhiệm, tận tuỵ phục vụ nhân
dân, hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao, có kế hoạch thực hiện công tác luân chuyển
cán bộ, tăng cường chỉ đạo cơ sở, thông qua các phong trào hành động Cách mạng
để tạo nguồn phát triển Đảng viên mới. Coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ,
chính sách cán bộ. Quan tâm hổ trợ cán bộ, Đảng viên nghèo phát triển sản xuất
nâng cao đời sống.
Không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt các chi bộ, thực hiện
nghiêm túc công tác phê bình và tự phê bình, tăng cường chế độ lảnh đạo tập thể đi
đôi với phát huy tinh thần chủ động sáng tạo và trách nhiệm cá nhân của mỗi Đảng

viên.
Xây dựng kế hoạch kiểm tra hàng năm và thực hiện kiểm tra định kỳ, đột
xuất việc Đảng viên chấp hành diều lệ Đảng, chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, kiểm tra việc thực hiện qui định 19 của Bộ Chính Trị nhằm chủ
động ngăn ngừa mọi biểu hiện vi phạm.
Thực hiện tốt công tác phân tích, đánh giá chất lượng Đảng viên và tổ chức
Đảng hàng năm. Đảng bộ huyện phấn đấu đạt vững mạnh 85% cơ sở Đảng đạt trong
sạch, vững mạnh, không có cơ sở Đảng yếu kém.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Thực tiễn cũng như lý luân cho thấy, để có thể làm chủ, nhân dân ta phải tổ
chức ra nhà nước. Nhà nước là công cụ quyền lực của nhân dân để quản lý xã hội, vì
lợi ích “ của dân ” Nhưng trong điều kiện nước ta không có sự lãnh đạo của Đảng
thì Nhà nước không thể là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nếu Đảng Cộng Sản
không lãnh đạo thì sẽ có lực lượng đối lập với Đảng lãnh đạo, lúc đó Nhà nước sẽ
NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 24


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao Cấp LLCT

biến thành công cụ của một thiểu số thống trị, nô dịch và bóc lột nhân dân. Bài học
kinh nghiệm lớn nhất đối với công việc xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng
nước ta 56 năm qua và cũng là bài học xương máu rút ra từ sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng thì Nhà nước mới giữ vững được bản chất
giai cấp công nhân, đảm bảo được quyền lợi thuộc về nhân dân. Nhưng Đảng lãnh
đạo Nhà nước không có nghĩa là bao biện, làm thay Nhà nước, mà để phát huy trách

nhiệm, tính chủ động, sắc bén và hiệu lực trong quản lý, điều hành của Nhà nước
đảm bảo thực hiện đường lối của Đảng trong cuộc sống, Đảng lãnh đạo Nhà nước là
lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân. Chỉ có một Đảng cộng sản vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ
chức, mạnh về đội ngũ cán bộ, Đảng viên, tài giỏi trong phương thức lãnh đạo thì
Đảng mới đủ sức lãnh đạo được Nhà nước, xây dựng một Nhà nước vững mạnh về
mọi mặt ,đủ sức thực hiện đường lối chủ chương, chính sách của Đảng đề ra, Đảng
yếu kém thì không thể có Nhà nước vững mạnh được, vì thế Đại Hội IX nhấn mạnh
“cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng ,chỉnh đốn
Đảng, đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện :
Đảng đề ra đường lối chủ trương, chính sách lớn cho sự phát triển trong từng
thời kỳ, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hoá đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ
chức, Đại Hội IX của Đảng ghi rõ “Chăm lo cho con người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia ” là thể hiện đều đó và cũng là điều
kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân .
Nhà nước ta là Nhà nước “Của dân” nhân dân có quyền tham gia quản lý
Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Vì thế hoàn thiện Nhà nước đảm bảo cho Nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả nhất thiết một mặt phải đề cao, lôi cuốn nhân dân tham
gia vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau, mặt
khác phải bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước
phải có trách nhiệm giải quyết những ý kiến khiếu nại, kiến nghị, tố cáo. Đây đang
còn là vấn đề bức xúc ở xã hội ta hiện nay .Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại Hội
IX chỉ rõ “ Tình trạng khiếu kiện của nhân dân ở nhiều nơi kéo dài phức tạp, chưa
được, các cấp, các ngành giải quyết kịp thời” vì thế Đại Hội nhấn mạnh sắp tới
phải “ Đổi mới cơ chế ,xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công

chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân” .
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nh ân dân, do dân vì dân cần phải
đồng thời xây dựng chế độ dân chủ hay thể chế dân chủ của nhân dân mà cơ bản của
nhân dân lao động .Tuy hình thức tổ chức Nhà nước cũng là hình thức dân chủ, xây
dựng Nhà nước pháp quyền theo nguyên tắc pháp luật là cao nhất sự bình đẳng của
thể nhân và pháp nhân trước pháp luật, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực ngay
bên trong Nhà nước. Chính là thực hiện dân chủ, xong hình thức tổ chức Nhà nước
pháp quyền có thể thực hiện dân chủ của giai cấp tư sản hoặc có thể thực hiện dân

NTH : Ngoâ Minh Ñöùc

Trang: 25


×