Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Pháp luật việt nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.68 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ HƯỜNG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 50

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƯƠNG

Hà nội – 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................1
CHƯƠNG 1..............................................................4
KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
..............................................................................4
1.1Tổng quan về Doanh nghiệp tư nhân...................4
1.1.1Lịch sử phát triển của Doanh nghiệp tư nhân....4
1.1.2Vai trò và ý nghĩa của Doanh nghiệp tư nhân....4
1.1.3Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân.....................5
1.1.4Đặc trưng pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân. . .5
1.2Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân...........6


1.2.1Khái niệm và bản chất pháp lý của Hợp đồng mua bán
Doanh nghiệp tư nhân.............................................6
1.2.2Pháp luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp
tư nhân..................................................................6
1.2.3Hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
..............................................................................7
1.2.4Đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
..............................................................................7
1.2.5Chủ thể trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
..............................................................................8
1.2.6Nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp
tư nhân..................................................................9
1.2.7Vi phạm Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và
các chế tài..............................................................9
CHƯƠNG 2..............................................................9
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN........................................9
2.1Cấu trúc và nguồn pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp tư
nhân và Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân. 10


2.2Thực trạng pháp luật Việt Nam về hình thức của Hợp đồng
mua bán Doanh nghiệp tư nhân.............................10
2.3Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng của Hợp đồng
mua bán Doanh nghiệp tư nhân.............................11
2.4Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể của Hợp đồng
mua bán Doanh nghiệp tư nhân.............................12
2.5Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung cơ bản của
Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân..............14
2.6Thực trạng pháp luật Việt Nam về vi phạm nghĩa vụ Hợp

đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài14
CHƯƠNG 3............................................................16
ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
............................................................................16
3.1Những định hướng cơ bản.................................16
3.1.1Chỉnh sửa và xây dựng những quy phạm pháp luật có
tính chặt chẽ và phù hợp trên cơ sở rà soát và nghiên cứu
thực trạng mua bán Doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam.....16
3.1.2Đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp
luật......................................................................16
3.1.3Đảm bảo sự quản lý, điều phối của cơ quan quản lý nhà
nước.....................................................................17
3.2Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân..............18
3.2.1Về cách tiếp cận doanh nghiệp tư nhân..........18
3.2.2Về hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân....................................................................18
3.2.3Về đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân....................................................................19
3.2.4Về chủ thể của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân....................................................................19


3.2.5Về nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tư nhân.....................................................20
3.2.6Về vấn đề lao động trong Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tư nhân.....................................................21
3.2.7Về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán Doanh nghiệp
tư nhân và các chế tài...........................................21

3.2.8Về lựa chọn luật áp dụng...............................22
KẾT LUẬN.............................................................23


MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra cho các
Doanh nghiệp trong nước nhiều cơ hội đầu tư, kinh doanh nhưng cũng đem lại
không ít những khó khăn, thách thức trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp
nước ngoài có quy mô và tiềm năng về vốn, về kỹ thuật, về năng lực quản lý....
Tương lai gần, việc mua bán doanh nghiệp hay chuyển nhượng vốn góp sẽ ngày
càng phát triển và trở thành xu hướng tất yếu của thị trường.
Trong bức tranh chung về mua bán doanh nghiệp, thì có lẽ vấn đề mua bán
doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình) là vấn đề đầu tiên được pháp luật ghi nhận
chính thức tại Luật Doanh nghiệp Tư nhân được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21 tháng 12 năm
1990 (“Luật Doanh nghiệp Tư nhân 1990”). Tuy nhiên, từ đó đến nay khung
pháp lý điều chỉnh hoạt động này còn hạn chế, chưa nêu bật được bản chất mua
bán doanh nghiệp tư nhân, sự khác biệt của hoạt động mua bán doanh nghiệp tư
nhân với các hoạt động mua bán doanh nghiệp khác.
Từ những lý luận và thực tế trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài
“Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân” làm đề tài
nghiên cứu thạc sĩ của mình nhằm tiếp cận, phân tích và giải quyết những vấn đề
có liên quan trực tiếp đến hợp đồng mua bán DNTN.
2 Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, có một số công trình luận án, Luận văn, sách chuyên khảo, các
bài viết tạp chí (báo) Việt Nam và Quốc tế có đề cập đến tổng quan về hoạt động
mua bán doanh nghiệp nói chung như lịch sử ra đời và phát triển hoạt động mua
bán doanh nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam, khái niệm, vai trò, ý nghĩa của

hoạt động mua bán doanh nghiệp.... hoặc dừng lại ở việc nghiên cứu những đặc
trưng pháp lý của DNTN mà chưa đi vào phân tích cụ thể những vấn đề pháp lý
liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN. Do vậy, có thể nói hiện nay chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc đầy đủ chi tiết về hợp đồng mua
bán DNTN theo pháp luật Việt Nam.
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
1


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là: (i) Thứ nhất, nghiên
cứu đặc trưng pháp lý của loại hình DNTN và những vấn đề lý luận về hợp đồng
mua bán DNTN; (ii) Nghiên cứu, phân tích những quy định pháp luật hiện hành
về hợp đồng mua bán DNTN; (iii) Đánh giá, bình luận về những ưu điểm, hạn
chế của quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán DNTN; (iv) Đưa ra
những kiến nghị cụ thể góp phần khắc phục những hạn chế, thiếu sót và hoàn
thiện hành lang pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói
chung và mua bán doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn tiến hành nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về
việc mua bán DNTN (có sự đối chiếu, so sánh với một số quy định của pháp luật
Việt Nam từ năm 1990 trở lại đây). Ngoài ra, DNTN được đề cập tại Luận văn
chính là DNTN theo nghĩa hẹp, tức một loại hình doanh nghiệp được quy định
tại Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2005 (“Luật Doanh nghiệp 2005”), là DNTN do một cá nhân làm chủ và chịu
trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình. Luận văn không nghiên cứu
DNTN theo nghĩa rộng, tức không nghiên cứu toàn bộ các loại hình doanh
nghiệp có nguồn vốn đầu tư từ tư nhân.
5 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thiện Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu như: (i) phương pháp duy vật biện chứng, phân tích lịch sử, phân
tích, tổng hợp, mô hình hóa, điển hình hóa... để phân tích lý giải, lập luận những
vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán DNTN; (ii) Phương
pháp so sánh để so sánh những sự khác nhau giữa hợp đồng mua bán tài sản của
doanh nghiệp và hợp đồng mua bán DNTN, sự khác biệt của hợp đồng mua bán
DNTN với hợp đồng mua bán các loại hình doanh nghiệp khác, so sánh pháp
luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới…; và (iii) các phương
pháp nghiên cứu riêng của khoa học pháp lý như: phân tích qui phạm, phân tích
hệ thống, công thức hóa qui tắc pháp lý...
6 Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn

2


Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên nghiên cứu
một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán
DNTN trên cơ sở nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của DNTN và hệ thống
các vấn đề pháp lý có liên quan đến Hợp đồng mua bán DNTN.
Thứ hai, trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về
hợp đồng mua bán DNTN, đã xây dựng được những định hướng và giải pháp
mang tính đặc thù để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện thời
về hợp đồng mua bán DNTN.
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Thứ nhất, Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách bao quát,
có hệ thống lý luận pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN.
Thứ hai, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản về
hợp đồng mua bán DNTN tại Việt Nam và đánh giá một cách tương đối có hệ
thống thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN.
Thứ ba, Luận văn, trong phần kiến nghị những định hướng và giải pháp
hoàn thiện, đã đưa ra được những định hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp

phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN
nói riêng và mua bán doanh nghiệp nói chung cũng như góp phần cung cấp
những nền tảng pháp lý cho các chủ thể khi tìm hiểu hay tham gia vào hoạt động
mua bán DNTN tại Việt Nam.
8 Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Mục
lục, Luận văn chia ra thành 3 chương như sau: Chương 1: Khái luận về Hợp
đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân; Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam
về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân; Chương 3: Định hướng và các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân.

3


CHƯƠNG 1
KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1 Tổng quan về Doanh nghiệp tư nhân
1.1.1 Lịch sử phát triển của Doanh nghiệp tư nhân
Tháng 5/1999, Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2000. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999 là bước đợt phá cả về tư duy
lẫn kỹ năng quản lý đối với khối kinh tế tư nhân. Do yêu cầu của kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế nên các doanh nghiệp tư nhân của nước ta đã
gia tăng nhanh chóng. Cho đến nay, với cơ chế mở cửa, chính sách hội nhập
quốc tế và sự phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp cho thương nhân lựa
chọn, loại hình DNTN dù không tiếp tục phát triển rầm rộ như những năm trước,
nhưng xu hướng mua bán DNTN vẫn tồn tại phát triển. Do đó, cùng với quá
trình này, việc bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định mới về doanh nghiệp
tư nhân cũng được dần hoàn chỉnh.
1.1.2 Vai trò và ý nghĩa của Doanh nghiệp tư nhân

1.1.2.1. Doanh nghiệp tư nhân - quy luật phát triển tất yếu của kinh tế hộ
gia đình ở Việt Nam
1.1.2.2. Ý nghĩa của doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển kinh tế đất
nước
Thứ nhất, loại hình DNTN ra đời mang theo những ưu thế nhất định và vì
vậy DNTN là sự lựa chọn phù hợp đối với những kế hoạch kinh doanh có quy
mô nhỏ và vừa.
Thứ hai, loại hình DNTN là phương thức huy động vốn tối đa trong nhân
dân, huy động vốn từ những cá thể đơn lẻ có số lượng vốn nhỏ và vừa vào trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, các DNTN đã góp phần giải quyết một số lượng lớn việc làm cho
dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Thứ tư, các DNTN góp phần làm năng động nền kinh tế bởi những lợi thế
mà loại hình DNTN mang lại như quy mô sản xuất, kinh doanh nhỏ gọn, tính
năng động, linh hoạt trong sáng tạo kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh
doanh có sự kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa mềm dẻo, hòa nhịp với đòi
hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường.
4


Thứ năm, các DNTN có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, đặc biệt là khu vực nông thôn.
Thứ sáu, các DNTN góp phần thực hiện đô thị hóa phi tập trung và thực
hiện các phương châm “ly nông bất ly hương”.
Thứ bảy, các DNTN là nơi đào tạo tài năng kinh doanh, là loại hình
doanh nghiệp có quy mô nhỏ giúp các nhà doanh nghiệp làm quen với môi
trường kinh doanh.
1.1.3 Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân
Để có một cái nhìn tổng quan về DNTN, tác giả Luận văn nghiên cứu sơ
lược các cách phân loại doanh nghiệp khác nhau và các đặc trưng pháp lý đi kèm

với từng cách phân loại. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu các cách tiếp cận và
nhìn nhận loại hình DNTN của các quốc gia khác trong sự đối chiếu so sánh với
pháp luật Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu sơ lược về các cách phân loại doanh nghiệp cho thấy
hầu hết các họ pháp luật và hệ thống pháp luật của các nước, một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp, đều ghi nhận sự tồn tại của loại hình kinh doanh cá thể tức loại
hình kinh doanh do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về hoạt động kinh doanh của cá nhân đó. Nói cách khác, đó cũng
chính là DNTN theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc
và một số quốc gia theo hệ pháp luật Châu Âu – Lục Địa.
Từ đó, một cách khái quát nhất, có thể định nghĩa DNTN là một thực thể
kinh doanh không có tư cách pháp nhân do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về toàn bộ hoạt động của DNTN (trách
nhiệm vô hạn).
1.1.4 Đặc trưng pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân
Thứ nhất, DNTN là một thực thể kinh doanh có tư cách chủ thể pháp lý
độc lập nhưng không có tư cách pháp nhân.
Thứ hai, DNTN do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ.
Thứ ba, chủ DNTN chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của DNTN (trách nhiệm vô hạn)
Thứ tư, về nghĩa vụ thuế của DNTN, pháp luật Việt Nam coi DNTN là một
loại hình doanh nghiệp, thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho
5


nên chủ DNTN không phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Trong khi đó, trên cơ sở
quan điểm coi DNTN như một thể nhân kinh doanh (một thương gia độc lập),
cho nên pháp luật các nước (Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp, Đức… hay thậm chí là
Singapore) quy định DNTN là đối tượng của thuế thu nhập cá nhân. Theo đó,
DNTN không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ người chủ DNTN phải

đóng thuế thu nhập cá nhân như những cá nhân khác.
1.2 Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
1.2.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tư nhân
Hợp đồng mua bán DNTN là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán về
việc bên bán chuyển giao quyền sở hữu phần tài sản có mà chủ sở hữu doanh
nghiệp đã đưa vào DNTN cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ
tiếp nhận tất cả tài sản trên và thanh toán giá chuyển nhượng cho bên bán. Các
tài sản nợ của DNTN vẫn đương nhiên gắn liền với người chủ cũ, trừ khi giữa
người chủ cũ, các chủ nợ và bên nhận chuyển nhượng DNTN có một thỏa thuận
đặc biệt gọi là thỏa thuận ba bên về chuyển giao nghĩa vụ. Thực chất hợp đồng
mua bán DNTN là hợp đồng phức hợp để chuyển nhượng các loại tài sản có cho
bên mua mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý.
1.2.2 Pháp luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán DNTN ở mỗi quốc gia
thuộc các họ pháp luật khác nhau sẽ khác nhau. Có thể thấy được điều này từ
việc phân tích về sự phân loại giữa thương nhân thể nhân và thương nhân pháp
nhân. Theo đó, đối với các nước coi DNTN như một thương nhân thể nhân thì
pháp luật điều chỉnh sẽ là hệ thống pháp luật dân sự, pháp luật hợp đồng và các
luật chuyên ngành đóng vai trò điều chỉnh các đối tượng chuyên biệt của hợp
đồng (các tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, bất động sản, cho thuê tài chính…),
luật thuế thu nhập cá nhân. Đối với các nước coi DNTN như một thương nhân
pháp nhân (một loại hình doanh nghiệp thì hợp đồng mua bán DNTN lại chịu sự
điều chỉnh của pháp luật công ty, luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Mô hình pháp luật của Việt Nam hiện đang đi theo xu hướng coi DNTN là
một loại hình doanh nghiệp và chịu sự điều chỉnh chung của hệ thống pháp luật
doanh nghiệp. Theo đó, với các vấn đề chung nhất của hợp đồng mua bán DNTN
6



thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Với những vấn đề liên quan đến
đăng ký doanh nghiệp, chuyển đổi địa vị pháp lý của chủ doanh nghiệp, quyền
và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp…thì chịu sự điều chỉnh của pháp Luật Doanh
nghiệp. Với những vấn đề riêng trong hợp đồng (lao động, tài chính, chuyển giao
đất đai, tài sản trí tuệ, tài sản có đăng ký quyền sở hữu…) thì chịu sự điều chỉnh
của pháp luật chuyên ngành (pháp luật lao động, pháp luật đất đai, pháp luật tài
chính…).
1.2.3 Hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Hình thức của hợp đồng mua bán DNTN, theo nguyên tắc chung nhất, có
thể lập bằng ngôn từ (bằng miệng), bằng hành vi cụ thể nhưng do bản chất của
hợp đồng mua bán DNTN là một hợp đồng phức hợp, chứa đựng nhiều loại tài
sản khác nhau (bao gồm cả những tài sản đặc thù như đất đai, tài sản trí tuệ, các
loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu khác) nên hợp đồng mua bán DNTN trên
thực tế vẫn được các bên lựa chọn lập dưới hình thức văn bản. Hơn nữa, tùy vào
quy định của mỗi hệ thống pháp luật, hợp đồng mua bán DNTN chứa đựng các
tài sản đặc thù còn phải được công chứng công theo quy định của pháp luật hoặc
nếu pháp luật không có yêu cầu phải công chứng công thì các bên có thể lựa
chọn tư chứng thư hoặc chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2.4 Đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Đối tượng của hợp đồng mua bán DNTN chính là phần tài sản có của
DNTN, khối tài sản nợ tính đến thời điểm chuyển nhượng DNTN không đương
nhiên được chuyển giao sang cho bên mua, ngược lại bên bán vẫn phải chịu
trách nhiệm đối với phần tài sản nợ đó. Tuy nhiên, với quy định này, các bên rất
khó chấp nhận và khó triển khai trên thực tế. Vì vậy, giải pháp pháp lý đưa ra là
các bên và chủ nợ có thể thỏa thuận ba bên về việc chuyển giao khoản nợ
và/hoặc nghĩa vụ từ bên bán sang cho bên mua.
Nói cách khác, với quy định về việc tài sản nợ không đương nhiên chuyển
giao từ bên bán sang bên mua và bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm về phần tài
sản nợ chỉ là cơ sở để các bên đàm phán giá trị chuyển nhượng, là nền tảng để
đánh giá giá trị của DNTN, là nền tảng để các bên có ý thức trong việc chuyển

giao nghĩa vụ. Quan điểm này cũng xuất phát từ việc coi DNTN như một thể
nhân kinh doanh (do DNTN không có tư cách pháp nhân) và nguyên tắc dân sự
7


chung nhất đó là việc chuyển giao nghĩa vụ chỉ có thể thực hiện khi được các
chủ nợ, các trái chủ chấp thuận.
1.2.5 Chủ thể trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Bên bán trong hợp đồng mua bán DNTN phải đáp ứng những điều kiện
sau (i) phải là chủ sở hữu hợp pháp của DNTN và tùy vào chế độ tài sản vợ
chồng, bên bán có thể chỉ là người vợ hoặc người chồng (tức chủ DNTN) nhưng
cũng có thể yêu cầu cả hai vợ chồng cùng đứng tên (tức yêu cầu cả chủ DNTN
và người vợ hoặc người chồng của chủ DNTN); và (ii) bên bán còn phải đáp ứng
các điều kiện chung về chủ thể theo pháp luật như phải có đầy đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi.
Bên mua trong Hợp đồng mua bán DNTN có thể là thương nhân hoặc
không phải thương nhân, với nhu cầu mua doanh nghiệp để tiếp tục đầu tư sản
xuất kinh doanh hoặc kiếm lời. Trong quan hệ mua bán DNTN nếu bên mua chỉ
đơn thuần mua lại với mục đích mua lại khối tài sản để kiếm lời thì cá nhân chỉ
cần có đủ năng lực hành vi dân sự và có khả năng về tài chính là có thể mua.
Nếu mua lại doanh nghiệp nhằm tiếp tục hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh
thì phải xét đến những điều kiện luật định về thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Việc bán DNTN không có nghĩa là sau khi hoàn tất thủ tục mua bán, bên
mua có thể sử dụng tư cách pháp lý của DNTN đã mua để tiến hành các hoạt
động kinh doanh. Bên mua phải đăng ký kinh doanh lại mới có thể tiến hành
hoạt động kinh doanh trên cơ sở DNTN đã mua, như vậy người mua không nhất
thiết phải thực hiện mục đích kinh doanh bằng cơ sở DNTN sẵn có. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc bán DNTN thực chất là việc chuyển nhượng các tài
sản của doanh nghiệp mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý.
Như vậy, mục đích mua lại DNTN là để tiếp tục tiến hành các hoạt động

kinh doanh thông qua DNTN đó nên điều kiện để một chủ thể tham gia vào quan
hệ mua DNTN phải đáp ứng các điểu kiện (i) bên mua phải là cá nhân không
thuộc các đối tượng bị cấm quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp; (ii) phải đáp
ứng các điều kiện chung khi ký hợp đồng như phải có đủ năng lực pháp luật,
năng lực hành vi dân sự đầy đủ; và (iii) hiện không phải là chủ của một DNTN
khác vì theo pháp luật Việt Nam thì mỗi cá nhân chỉ có thể thành lập một
DNTN.
8


1.2.6 Nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Hợp đồng là sự tự do ý chí của các bên. Về nguyên tắc, pháp luật không
ràng buộc hay hạn chế thỏa thuận của các bên (trừ khi có lý do xác đáng như để
bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba, bảo hộ quan hệ hợp đồng và theo đó
đảm bảo trật tự công cộng, đạo đức xã hội). Với hệ thống pháp luật của Pháp,
nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán cơ sở kinh doanh là một trong những
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (bên cạnh các điều kiện về chủ thể, về hình
thức của hợp đồng).
Tóm lại, tùy vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, nội dung cơ bản của
Hợp đồng mua bán DNTN cũng có thể trở thành một trong những điều kiện có
hiệu lực của Hợp đồng (bên cạnh các điều kiện về hình thức hợp đồng, về chủ
thể của hợp đồng).
1.2.7 Vi phạm Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài
Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán DNTN, cũng không nằm ngoài lý
luận về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nói chung, được hiểu là hành vi có lỗi của
một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều
khoản trong hợp đồng mua bán DNTN và các chế tài có thể được áp dụng khi có
hành vi vi phạm hợp đồng mua bán DNTN bao gồm: (i) Buộc thực hiện đúng
nghĩa vụ hợp đồng; (ii) Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại; (iii) Đơn phương
chấm dứt hợp đồng; (iv) Đình chỉ thực hiện hợp đồng; (v) Hủy bỏ hợp đồng; và

(vi) Vô hiệu hợp đồng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Tại chương này, tác giả Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng pháp
luật Việt Nam và trên cơ sở đối chiếu, so sánh với pháp luật các nước, tác giả
Luận văn kỳ vọng sẽ đưa ra được những phân tích xác đáng về các ưu điểm và
các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành liên quan đến hợp đồng mua bán
DNTN, như cấu trúc và nguồn pháp luật về DNTN và Hợp đồng mua bán
DNTN, đối tượng, chủ thể, hình thức của Hợp đồng mua bán DNTN, các vi
phạm Hợp đồng mua bán DNTN và các chế tài.
9


2.1 Cấu trúc và nguồn pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp tư nhân
và Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Xuất phát từ đặc trưng hợp đồng mua bán DNTN là một loại hợp đồng
phức hợp, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các vấn đề liên quan đến Hợp
đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân đang được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản
luật chuyên ngành khác nhau (luật lao động, luật đất đai, luật về tài sản trí tuệ,
luật đầu tư, luật cạnh tranh, luật thuế, luật ngân hàng, luật tài chính…). Tuy
nhiên, bộ phận pháp luật quan trọng nhất để điều chỉnh hợp đồng mua bán
DNTN vẫn là các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng và doanh nghiệp.
Như vậy, các quy định liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN hiện đang
nằm rải rác và chịu sự điều chỉnh bởi nhiều luật khác nhau. Có thể nói, đây là
một điểm hạn chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến hợp đồng
mua bán DNTN, thể hiện sự lúng túng, thiếu nhất quán trong quan điểm pháp lý
của các nhà làm luật.
2.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về hình thức của Hợp đồng mua
bán Doanh nghiệp tư nhân

Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy định cụ thể về hình thức của hợp
đồng mua bán DNTN, nhưng xuất phát từ các các quy định gián tiếp của pháp
luật và đặc trưng về đối tượng của hợp đồng mua bán DNTN, hình thức của hợp
đồng mua bán DNTN cần tuân thủ các quy định sau đây:
Hợp đồng mua bán DNTN được xác lập bằng văn bản: Luật Doanh nghiệp
2005 quy định người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh lại theo quy
định của pháp luật (Khoản 4, Điều 145) và hợp đồng mua bán DNTN là một văn
bản cần thiết để hoàn tất hồ sơ đăng ký kinh doanh lại doanh nghiệp.
Hợp đồng mua bán DNTN được công chứng, chứng thực theo quy định
của pháp luật: Bộ luật Dân sự quy định hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập
thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác (Điều 450). Như vậy, hợp đồng mua bán DNTN mà có đối tượng là
nhà ở, bất động sản thì ngoài việc lập thành văn bản còn phải tuân thủ quy định
về công chứng, chứng thực hợp đồng.

10


2.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng của Hợp đồng mua
bán Doanh nghiệp tư nhân
Để hiểu rõ hơn đối tượng của Hợp đồng mua bán DNTN, có thể xem xét
đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản thông thường. Theo Điều 429, Bộ luật
dân sự 2005, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản thông thường chính là các
tài sản được phép giao dịch, nếu tài sản là vật thì vật phải được xác định rõ,
trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là quyền tài sản thì phải có
giấy tờ hoặc các bằng chứng khác chứng minh quyền đó thuộc sở hữu của bên
bán. “Tài sản được phép giao dịch”, theo Điều 163, Bộ luật Dân sự 2005, được
tiếp cận theo hướng liệt kê các loại tài sản. Điều 174, Bộ luật Dân sự 2005 lại
tiếp cận khái niệm tài sản theo hướng phân loại tài sản thành bất động sản và
động sản.

Có quan điểm cho rằng Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam đã đưa ra rất
nhiều cách phân loại tài sản nhưng thực tế Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam đã
phân vân giữa nhiều cách phân loại tài sản và đã không có một quan điểm nhất
quán.
Chính điểm hạn chế này của Bộ luật Dân sự 2005 gây một số những khó
khăn nhất định trong thực tế xác định các loại tài sản trong giao dịch cũng như
thủ tục pháp lý kèm theo. Hơn nữa, luật dân sự là ngành luật nền tảng cho các hệ
thống pháp luật chuyên ngành nên cần xem xét và thống nhất quan điểm tiếp cận
về cách phân loại tài sản cũng như các quy định pháp lý có liên quan là điều hết
sức quan trọng.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, khi bán DNTN, các khoản nợ, các nghĩa
vụ tài sản của chủ DNTN không đương nhiên được chuyển nhượng sang cho
người mua. Do đó, tùy vào thỏa thuận của các bên, đối tượng của hợp đồng mua
bán DNTN có thể là (i) toàn bộ sản của DNTN bao gồm cả các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản của chủ DNTN; hoặc (ii) chỉ bao gồm các tài sản có, không bao
gồm các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của DNTN. Việc các bên lựa chọn mua
bán toàn bộ tài sản của DNTN hay chỉ mua tài sản có là yếu tố đóng vai trò
quyết định trong việc định giá giá trị tài sản mua bán cũng như thủ tục pháp lý
cần thiết để hoàn thành giao dịch mua bán DNTN.

11


Qua đây cho thấy, việc phân loại tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định khối tài sản của DNTN hay chỉ phần tài sản có trong khối tài sản của
DNTN.
Từ các phân tích trên đây cho thấy, đối tượng được giao kết trong hợp
đồng mua bán DNTN và thủ tục pháp lý đi kèm đều tương đối phức tạp. Do đó,
khi tham gia vào quan hệ hợp đồng mua bán DNTN, các bên cần chú ý liệt kê
chi từng loại tài sản, tình trạng của tài sản chuyển giao điều này vừa thuận lợi

cho việc định giá tài sản vừa thuận lợi cho quá trình các bên thực hiện hợp đồng,
đặc biệt là những tài sản cần có yêu cầu xác nhận sở hữu từ phía cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc những tài sản nợ (nghĩa vụ về tài sản) của chủ sở hữu
DNTN phát sinh trong quá trình kinh doanh, mà các bên có thỏa thuận chuyển
giao. Đối với các khoản nợ, nếu muốn chuyển giao cần có sự thỏa thuận của bên
mua, bên bán và chủ nợ, chủ nợ đồng ý thì mới có thể chuyển giao. Trường hợp
các bên bán muốn chuyển giao trái quyền như quyền đòi nợ (quyền yêu cầu con
nợ trả tiền vay) cho bên mua thì không nhất thiết phải cần có sự đồng ý của con
nợ trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; bên
chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn
bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu. Nếu tài sản chuyển giao bao gồm cả
quyền sử dụng đất thì cần chú ý trình tự, thủ tục chuyển nhượng theo pháp luật
đất đai để chủ thể mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp.
Đối với tài sản chuyển giao là quyền sở hữu trí tuệ thì cần chú ý trình tự, thủ tục
chuyển nhượng riêng của pháp luật sở hữu trí tuệ để bên mua được công nhận là
chủ sở hữu mới của văn bằng bảo hộ. Về thủ tục chuyển giao DNTN, trước khi
chuyển giao, chủ DNTN phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh
doanh và người mua mới thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh lại cho DNTN
dưới tên của chủ sở hữu mới.
2.4 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể của Hợp đồng mua
bán Doanh nghiệp tư nhân
Chủ thể chính tham gia vào hợp đồng mua bán DNTN là bên mua và bên
bán. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền
bán hoặc sáp nhập doanh nghiệp của mình vào doanh nghiệp khác. Tuy nhiên,
pháp luật lại không có quy định cụ thể để xác định chủ doanh nghiệp tư nhân.
12


Căn cứ vào thủ tục thành lập doanh nghiệp thực tế, có thể thấy thông tin
của người chủ DNTN được ghi nhận ngay tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh của DNTN. Do đó, dù pháp luật không có quy định nhưng thực tế, người
ta rất dễ dàng xác định được người chủ DNTN, tức bên bán trong hợp đồng mua
bán DNTN.
Tuy nhiên, đứng trên khía cạnh pháp lý, người chủ DNTN là cá nhân. Do
đó, chế định hôn nhân và tài sản chung của vợ chồng là điều đáng quan tâm
trong trường hợp này. Nếu người chủ DNTN đã kết hôn, thì việc quyết định bán
DNTN liệu có thuộc quyền quyết định của duy nhất người chủ DNTN đó không,
vai trò của người vợ (hoặc chồng) của chủ DNTN trong trường hợp này sẽ như
thế nào. Pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ về vấn đề này.
Bên mua trong hợp đồng mua bán DNTN lại càng “vắng bóng” trong các
quy định của pháp luật hiện hành cũng như pháp luật các thời kỳ trước. Dựa vào
mục đích của hợp đồng mua bán DNTN là việc chuyển nhượng DNTN từ bên
bán cho bên mua để bên mua tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh DNTN và
quy định gián tiếp tại Luật Doanh nghiệp 2005 về việc bên mua phải đăng ký lại
doanh nghiệp (Khoản 4, Điều 145, Luật Doanh nghiệp 2005, trước đây là Điều
103, Luật Doanh nghiệp 1999 và Điều 24, Luật Doanh nghiệp 1990), ta có thể
suy đoán, bên mua trong hợp đồng mua bán DNTN phải đáp ứng điều kiện là đối
tượng không bị cấm quyền kinh doanh và đáp ứng điều kiện được thành lập
DNTN.
Ngoài các căn cứ nêu trên, chủ thể của hợp đồng mua bán DNTN còn phải
đáp ứng các điều kiện chung nêu tại Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 122), như: (i)
người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; (ii) người tham gia giao
dịch hoàn toàn tự nguyện. Sự tự nguyện của các chủ thể được hiểu là sự thống
nhất ý chí, cùng bàn bạc thỏa thuận đi đến ý kiến chung thống nhất mà không bị
chi phối bởi bất kỳ một yếu tố ngoại nhập nào. Một hợp đồng được xác lập mà
thiếu sự tự nguyện của một trong các bên tham gia hợp đồng thì hợp đồng thì bị
coi là vi phạm pháp luật và không làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất
định.

13



2.5 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung cơ bản của Hợp
đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Pháp luật Việt Nam không có các quy định trực tiếp về các nội dung cơ
bản của Hợp đồng mua bán DNTN. Bộ luật Dân sự 2005 cũng chỉ quy định về
nội dung của hợp đồng dân sự nói chung (Điều 402).
Căn cứ vào thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành, có thể hiểu nội dung
cơ bản của hợp đồng không phải là yêu cầu bắt buộc để xác định hợp đồng có
hiệu lực hay không. Tuy nhiên, trên thực tế, một hợp đồng chỉ có thể có hiệu lực
thi hành nếu hợp đồng đó đạt được những thỏa thuận cơ bản nhất, cốt lõi nhất
của giao dịch, những vấn đề khác không được thỏa thuận tại hợp đồng thì có thể
áp dụng theo quy định của pháp luật hoặc áp dụng tương tự theo thông lệ, án lệ.
Nói cách khác, hợp đồng sẽ không thể có hiệu lực ràng buộc các bên nếu hợp
đồng không thỏa thuận về những vấn đề cơ bản, cốt lõi mà nếu thiếu các thỏa
thuận này các bên cũng không thể áp dụng theo quy định của pháp luật hay áp
dụng tương tự theo thông lệ, án lệ. Việc không quy định những nội dung cốt yếu
của Hợp đồng mua bán DNTN là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng là một trong những bất cập của pháp luật Việt Nam, chưa đáp ứng được đời
sống giao dịch thực tiễn.
2.6 Thực trạng pháp luật Việt Nam về vi phạm nghĩa vụ Hợp đồng
mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài
2.6.1 Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
Pháp luật Việt Nam không có các quy định trực tiếp về các trường hợp
được coi là vi phạm hợp đồng mua bán DNTN. Do đó, việc xác định hành vi vi
phạm nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán DNTN được căn cứ vào các quy định về
vi phạm hợp đồng và vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung.
Vi phạm hợp đồng, theo Luật Thương mại 2005, là việc một bên không
thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả
thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật Thương mại 2005 (Khoản 12,

Điều 3).
Bộ luật Dân sự 2005 tuy không quy định trực tiếp về vi phạm nghĩa vụ
nhưng khoản 1, Điều 302 có quy định về hậu quả pháp lý do vi phạm hợp đồng
là bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
14


Luật Thương mại 2005 đi theo quan điểm phân loại vi phạm hợp đồng
thành vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản. Tuy nhiên, thực tế tranh chấp
kinh doanh thương mại cho thấy không dễ dàng xác định đâu là vi phạm cơ bản.
Còn đối với Luật Thương mại 2005 thì cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn chi
tiết về vi phạm cơ bản.
2.6.2 Các chế tài do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
Về hậu quả pháp lý của vi phạm hợp đồng, Luật Thương mại 2005 có sự
phân biệt hậu quả pháp lý (tức chế tài) tương ứng với từng loại vi phạm, cụ thể:
với các vi phạm cơ bản, bên bị vi phạm có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng
(Điều 308), đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điều 310) hoặc hủy hợp đồng (Điều
312); với những vi phạm không cơ bản, bên bị vi phạm không được áp dụng chế
tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ
thực hiện hợp đồng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Điều 293).
Ngoài các chế tài quy định tại Luật Thương mại 2005 như nêu trên, Bộ
luật Dân sự 2005 còn quy định các chế tài sau: bồi thường thiệt hại, buộc thực
hiện đúng nghĩa vụ, thỏa thuận phục hồi nghĩa vụ bằng chi phí của chủ nợ, phạt
vi phạm.
Như đã phân tích cấu trúc và nguồn pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua
bán DNTN, việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán DNTN sẽ dẫn
đến bên vi phạm không chỉ phải chịu các chế tại nêu tại luật dân sự, luật thương
mại mà có thể phải chịu cả các chế tài tương ứng được quy định tại các quy định
pháp luật khác có liên quan như luật doanh nghiệp, luật đất đai, luật sở hữu trí
tuệ…

Trong phạm vi Luận văn, tác giả không đi sâu phân tích thực trạng pháp
luật về tất cả các chế tài mà chỉ tập trung vào một số chế tài điển hình như phạt
vi phạm, bồi thường thiệt hại, đơn phương chấm dứt hợp đồng, vô hiệu hợp
đồng. Ngoài ra, tác giả tập trung phân tích các quy định về miễn trừ trách nhiệm
khi có vi phạm hợp đồng.

15


CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
3.1 Những định hướng cơ bản
3.1.1 Chỉnh sửa và xây dựng những quy phạm pháp luật có tính chặt
chẽ và phù hợp trên cơ sở rà soát và nghiên cứu thực trạng mua bán Doanh
nghiệp tư nhân tại Việt Nam
Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật mới nhằm hoàn
thiện chế định giao dịch mua bán doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng,
những quy định của pháp luật hạn chế quyền lợi của các nhà đầu tư. Song song
với đó là việc ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể vấn đề này cho các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư như điều kiện giao dịch, các thủ tục hành chính
kèm theo. Việc xây dựng các văn bản pháp luật về mua bán doanh nghiệp nói
chung và mua bán DNTN nói riêng cần phải quan tâm đến việc bảo đảm quyền
và lợi ích của các bên cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia
quan hệ hợp đồng.
Bên cạnh đó pháp luật cần có những quy định cụ thể hơn về mặt bản chất
của giao dịch này như thế nào là mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán
DNTN nói riêng, những nội dung chính yếu của hợp đồng mua bán DNTN. Nhờ
đó, các bên sẽ bớt lúng túng, ngần ngại khi tham gia giao dịch và hiểu được bản
chất của hoạt động mình đang tham gia. Hoàn thiện pháp luật về vấn đề này cần

có sự tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn trong thời gian vừa qua liên quan
đến việc thống kê các con số về số lượng các giao dịch, tỷ lệ thành công hay thất
bại của các thương vụ, nguyên nhân của sự thành công và thất bại. Có như vậy,
việc điều chỉnh hay ban hành bổ sung các văn bản pháp lý mới trở nên chặt chẽ,
thuyết phục và sát với đời sống thực tiễn hơn.
3.1.2 Đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật
Hiện nay nguồn pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán DNTN nằm rải
rác ở nhiều chế định pháp luật khác nhau. Nguồn pháp luật điều chỉnh trực tiếp
chỉ có duy nhất Luật Doanh nghiệp 2005, cụ thể là Điều 145 về quyền bán doanh
nghiệp của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, điều luật này mới chỉ mang tính
khái quát hóa mà chưa cụ thể hóa những vấn đề pháp lý liên quan. Bên cạnh đó
16


một loạt các hoạt động quan trọng để tiến hành giao dịch như: hợp đồng, định
giá tài sản cơ bản phải dựa trên những quy phạm pháp luật gián tiếp tại Bộ luật
Dân sự 2005 và các chế định luật chuyên ngành khác.
Mua bán doanh nghiệp là một giao dịch phức tạp, không đơn thuần như
chuyển giao các tài sản thông thường mà nó liên quan đến việc chuyển giao
quyền sở hữu của một thực thể kinh doanh. Trong khi đó Bộ luật Dân sự 2005 là
đạo luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự và các vấn đề hợp đồng nói chung,
không thể điều chỉnh cụ thể quan hệ hợp đồng mua bán doanh nghiệp, Luật
Doanh nghiệp 2005 thì lại thiên về điều chỉnh hoạt động thành lập, quản lý, điều
hành các loại hình doanh nghiệp trong đó có DNTN, Điều 145 Luật Doanh
nghiệp 2005 thiên về khẳng định quyền quản lý, điều hành của chủ sở hữu doanh
nghiệp nên cũng không thể điểu chỉnh được hết giao dịch mua bán doanh
nghiệp.
Do đó, nên chăng cần xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật riêng
về mua bán doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng trên nền tảng của luật
dân sự và luật thương mại để đảm bảo tính đồng bộ của văn bản, để thống nhất

sự điều chỉnh đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán
DNTN nói riêng.
3.1.3 Đảm bảo sự quản lý, điều phối của cơ quan quản lý nhà nước
Tăng cường sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước sẽ giúp các giao dịch
được thực hiện đúng pháp luật, minh bạch, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên. Theo đó, ngoài việc chỉnh sửa các quy định bất cập hiện hành, ban
hành bổ sung khung pháp lý còn thiếu, cần xây dựng cơ chế quản lý và kiểm
soát của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp nói
chung và hoạt động mua bán DNTN nói riêng, nhất là sự quản lý của cơ quan
quản lý cạnh tranh. Với sự tham gia quản lý sát sao, cơ quan quản lý nhà nước sẽ
có được những số liệu sát sao về các giao dịch thành công, không thành công,
nguyên nhân, hạn chế…Dựa trên những số liệu thống kê đó, cơ quan nhà nước
sẽ có một cái nhìn tổng hợp cũng như kinh nghiệm toàn diện về hoạt động mua
bán doanh nghiệp nói chung và mua bán DNTN nói riêng tại Việt Nam. Điều
này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong quá trình hoàn thiện khung pháp luật về lĩnh
vực này.
17


3.2 Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng
mua bán Doanh nghiệp tư nhân
3.2.1 Về cách tiếp cận doanh nghiệp tư nhân
Pháp luật Việt Nam đang tiếp cận DNTN theo hướng coi DNTN là một
loại hình doanh nghiệp, chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp và là đối
tượng của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi đó, DNTN lại không
có tư cách pháp nhân, chủ DNTN phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài
sản của chủ DNTN. Điều này phần nào không đúng với bản chất pháp lý của
một doanh nghiệp và phần nào vô hình tạo thành rào cản, hạn chế sự phát triển
của DNTN. Trên thực tế, số lượng DNTN ngày càng giảm mạnh và dường như
loại hình DNTN không phải là một loại hình doanh nghiệp được các cá nhân ưu

tiên lựa chọn khi bắt đầu một kế hoạch kinh doanh của mình.
Cần tham khảo cách tiếp cận của một số nước trên thế giới, quy DNTN về
loại hình cá thể kinh doanh, một thương gia độc lập và là đối tượng của pháp
luật thuế thu nhập cá nhân.
Việc tiếp cận DNTN theo hướng là một thương gia độc lập có phần đúng
với bản chất pháp lý của nó hơn. Hơn nữa, việc chủ DNTN chỉ phải chịu thuế
thu nhập cá nhân sẽ là chính sách thuế có lợi cho loại hình DNTN. Đây cũng là
điều hợp lý và là chính sách đúng đắn để khuyến khích các cá nhân tham gia
hoạt động kinh doanh cũng như tạo đà cho DNTN phát triển.
3.2.2 Về hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Pháp luật Việt Nam nên xây dựng quy định pháp luật hướng dẫn cụ thể về
hình thức của hợp đồng mua bán DNTN. Theo đó, một cách chung nhất, hợp
đồng mua bán DNTN cần phải được lập thành văn bản và trong trường hợp đối
tượng của hợp đồng mua bán DNTN chứa đựng những tài sản đặc thù như bất
động sản, tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng mua bán DNTN còn
phải được công chứng nhà nước.
Hơn nữa, để thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện giao dịch mua
bán DNTN, pháp luật Việt Nam về công chứng, chứng thực cũng cần được sửa
đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế, bất cập đã nêu tại chương 2 của Luận
văn, như cần có quy định hướng dẫn cụ thể về hồ sơ công chứng, thủ tục công
chứng, thụ lý hồ sơ công chứng, bổ sung các quy định về "tư chứng thư"...
18


3.2.3 Về đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Đối tượng của hợp đồng mua bán DNTN, như đã phân tích tại Luận văn,
là một tổ hợp tài sản phức tạp, bao gồm tài sản vô hình và tài sản hữu hình, bất
động sản và động sản, tài sản có và tài sản nợ. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật
Việt Nam là chưa tìm được một quan điểm thống nhất về "tài sản" và điều này
cũng xuất phát từ việc pháp luật Việt Nam chưa tìm được một quan điểm thống

nhất về cách phân loại tài sản, có quan điểm cho rằng pháp luật Việt Nam (cụ thể
là Bộ luật Dân sự 2005) đang phân vân giữa nhiều cách phân loại tài sản.
Do đó, hoặc là (i) các nhà làm luật cần tìm được một quan điểm thống nhất
về nguyên tắc phân loại tài sản cho toàn bộ hệ thống pháp luật và trên cơ sở đó,
xây dựng các quy định pháp lý đi kèm cho phù hợp với từng loại tài sản; hoặc là
(ii) với mỗi chế định pháp luật, các nhà làm luật có thể đi theo một cách phân
loại riêng và xây dựng các quy định pháp luật đi kèm cho phù hợp. Ví dụ: với
quy định về định giá tài sản, có thể phân loại tài sản tài sản hữu hình, tài sản vô
hình; với quy định về nghĩa vụ tài sản, có thể phân loại tài sản thành có và tài
sản nợ….
Ngoài ra, pháp luật cần có những quy định cụ thể và thống nhất về trình tự,
thủ tục chuyển giao từng loại tài sản đặc thù trong DNTN, các quy định cụ thể
về nguyên tắc định giá tài sản.
3.2.4 Về chủ thể của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Điều 145 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định chủ sở hữu DNTN có quyền
bán doanh nghiệp của mình, theo đó trong quan hệ mua bán DNTN đã xác định
rõ bên bán là chủ sở hữu DNTN, nhưng pháp luật chưa có quy định rõ ràng về
bên mua trong quan hệ mua bán DNTN. Cần có quy định pháp luật hướng dẫn
cách xác định chủ thể mua và chủ thể bán trong giao dịch mua bán DNTN trong
đó nhấn mạnh trường hợp những chủ thể không thể trở thành thương nhân thì
cũng không được tham gia giao dịch mua bán DNTN, tránh trường hợp bị cấm
quyền kinh doanh, nhưng không bị cấm quyền mua lại doanh nghiệp nên sau khi
mua lại, tiếp tục đem bán sản nghiệp thương mại vì mục đích lợi nhuận.
Đồng thời cần thống nhất việc xác định chủ thể mua lại DNTN theo Luật
Doanh nghiệp và luật cạnh tranh. Luật cạnh tranh cho rằng bên mua lại doanh

19


nghiệp là doanh nghiệp, như vậy hạn chế quyền mua lại doanh nghiệp của các cá

nhân.
Đối với các chủ thể tham gia giao dịch mua bán DNTN đang trong thời kỳ
hôn nhân và chịu sự điều chỉnh của chế định pháp luật về tài sản chung vợ
chồng, pháp luật cần có quy định hướng dẫn cụ thể và phương án xử lý thấu đáo
để tránh trường hợp giao dịch bị vô hiệu, tranh chấp hoặc gây lúng túng cho các
bên trong quá trình tham gia giao dịch mua bán DNTN.
Pháp luật đầu tư mới đưa ra và giải quyết việc nhà đầu tư nước ngoài mua
lại doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần đang hoạt
động tại Việt Nam với ba trường hợp trên. Vấn đề đặt ra là nhà đầu tư nước
ngoài có thể mua lại DNTN hay không. Nguyên tắc của pháp luật đầu tư là các
nhà đầu tư trong và ngoài nước đều được bình đẳng về quyền tự do kinh doanh.
Tuy nhiên, với đặc trưng của DNTN là DNTN do một cá nhân làm chủ và chịu
trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của chủ DNTN thì liệu có thể kiểm soát
tài sản và tình trạng của một cá nhân nước ngoài để áp dụng cơ chế trách nhiệm
vô hạn hay không. Do đó, trên thực tế, loại hình DNTN với các cá nhân nước
ngoài là một ý niệm xa vời, chưa có một cá nhân nước ngoài nào đầu tư vào Việt
Nam dưới hình thức DNTN.
Pháp luật Việt Nam cần có quy định hướng dẫn cụ thể cho trường hợp nhà
đầu tư nước ngoài thành lập, mua lại DNTN, những điều kiện nhà đầu tư nước
ngoài cần đáp ứng là gì, cơ chế quản lý, kiểm soát của nhà nước đối với nhà đầu
tư nước ngoài trong trường hợp này.
3.2.5 Về nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân
Pháp luật Việt Nam không có quy định về những nội dung cốt yếu của Hợp
đồng mua bán DNTN. Đây có thể coi là một trong những bất cập của pháp luật
Việt Nam và phần nào chưa đáp ứng được đời sống giao dịch thực tiễn.
Hợp đồng mua bán DNTN là một hợp đồng phức hợp, có đối tượng mua
bán đặc thù là DNTN. Do đó, pháp luật cần có quy định hướng dẫn về những nội
dung cốt yếu mà hợp đồng mua bán DNTN cần đạt được. Nói cách khác, nếu
hợp đồng mua bán DNTN không thỏa thuận về một trong những nội dung cốt


20


yếu đó, hợp đồng mua bán DNTN có thể bị tuyên vô hiệu một phần hoặc vô hiệu
toàn bộ, tùy trường hợp cụ thể.
3.2.6 Về vấn đề lao động trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân
Hợp đồng mua bán DNTN có hiệu lực, làm phát sinh những hậu quả pháp
lý nhất định đối với các bên trong đó có việc thực hiện nghĩa vụ đối với người
lao động. Điều 145, Luật Doanh nghiệp 2005 có quy định bên bán và bên mua
doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật lao động. Luật lao động nhấn mạnh, người
sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm “tiếp tục” thực hiện hợp đồng lao
động với người lao động, chịu trách nhiệm trả lương và các quyền lợi khác cho
người lao động. Pháp luật doanh nghiệp cần có quy định rõ về việc bên bán và
bên mua cần thỏa thuận về phương án sử dụng lao động khả thi và việc tiếp nhận
hay không những nghĩa vụ đối với người lao động mà bên bán chưa thực hiện,
còn phương án sử dụng lao động như thế nào, nghĩa vụ của bên mua sau khi trở
thành người lao động kế tiếp như thế nào, sẽ do pháp luật lao động quy định,
tránh quy định chung chung là “tuân thủ các quy định của pháp luật về lao
động”.
3.2.7 Về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và
các chế tài
Về miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, nên tham khảo án lệ của Pháp
để xây dựng quy định pháp lý liên quan đến nguyên tắc xác định các trường hợp
điều khoản miễn trách nhiệm theo thỏa thuận được chấp nhận, những trường hợp
cơ quan tài phán có quyền can thiệp để hạn chế, giới hạn mức độ của điều khoản
miễn trách nhiệm, những trường hợp mà thỏa thuận về điều khoản miễn trách
nhiệm bị coi là vô hiệu.
Về chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, cần thống nhất quy định

về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Theo đó, các bên có
quyền thỏa thuận áp dụng cả hai chế tại phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
cũng như có quyền thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại cũng như mức
phạt vi phạm.
Về chế tài vô hiệu hợp đồng, đây là một trong những vấn đề tương đối
phức tạp và bất cập của pháp luật Việt Nam nói chung. Liên quan đến hợp đồng
21


×