BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÊ BÁ VƯƠNG
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG
(THẾ KỈ XVII - XVIII)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
`
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÊ BÁ VƯƠNG
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG
(THẾ KỈ XVII - XVIII)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 6220313
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THUẬN
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
sử liệu trích dẫn, sử dụng trong luận án là trung thực, được chú thích nguồn gốc rõ
ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ...................... 7
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ cơ bản dùng trong luận án ............................... 7
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................ 16
1.3. Nhiệm vụ và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu........................................ 32
1.3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 32
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục làm rõ ...................................................... 33
1.3.3. Những vấn đề mới luận án đặt ra và giải quyết........................................ 35
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 38
Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG (THẾ KỈ
XVII - XVIII) ..................................................................................... 39
2.1. Bối cảnh Đàng Trong (thế kỉ XVII - XVIII) ................................................... 39
2.1.1. Các chúa Nguyễn dựng nghiệp ở Đàng Trong ......................................... 39
2.1.2. Tổ chức chính quyền Đàng Trong ............................................................ 49
2.1.3. Kinh tế – xã hội Đàng Trong .................................................................... 51
2.1.4. Bức tranh văn hóa, tôn giáo Đàng Trong ................................................. 55
2.2. Nhận thức của các chúa Nguyễn về vai trò của tôn giáo ................................. 67
2.2.1. Trong mục tiêu xây dựng nền chính trị và thiết chế xã hội ...................... 67
2.2.2. Trong mục tiêu thu phục nhân tâm, ổn định xã hội.................................. 73
2.2.3. Trong việc tạo dựng nền văn hóa mới ...................................................... 79
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 82
Chương 3. CHÍNH SÁCH CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN
ĐỐI VỚI
MỘT SỐ TÔN GIÁO CỤ THỂ Ở ĐÀNG TRONG (THẾ KỈ
XVII - XVIII)................................................................................... 83
3.1. Nội dung và phương thức ban hành chính sách ............................................... 83
3.1.1. Nội dung chính sách ................................................................................. 83
3.1.2. Phương thức ban hành .............................................................................. 85
3.2. Chính sách đối với từng tôn giáo cụ thể .......................................................... 87
3.2.1. Đối với Nho giáo ...................................................................................... 87
3.2.2. Đối với Phật giáo .................................................................................... 100
3.2.3. Đối với Đạo giáo .................................................................................... 116
3.2.4. Đối với Thiên Chúa giáo ........................................................................ 123
3.2.5. Đối với Islam và Ba-la-mon giáo ........................................................... 135
Chương 4 MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ CHÍNH
SÁCH TÔN GIÁO CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG
(THẾ KỈ XVII - XVIII) ................................................................................... 142
4.1. Đặc điểm trong chính sách tôn giáo của chúa Nguyễn.................................. 142
4.1.1. Chú trọng phát triển dòng Nho giáo bình dân ........................................ 142
4.1.2. Chính sách của các chúa Nguyễn thể hiện tinh thần viên dung
tôn giáo .................................................................................................. 149
4.1.3.Chú trọng phát triển Tam giáo của người Việt trên lãnh thổ Champa
và Chân Lạp ........................................................................................... 159
4.1.4. Linh hoạt và thực dụng trong đối sách với Thiên Chúa giáo ................. 163
4.2. Hệ quả từ chính sách tôn giáo của các chúa Nguyễn .................................... 168
4.2.1. Tác động tích cực ............................................................................... 168
4.2.2. Tác động tiêu cực ............................................................................... 174
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 183
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 193
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ............................................................................................................ 208
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Tiếng nước ngoài
STT Ký hiệu
1
AMEP Archives des Missions Étrangères de Paris
Tiếng Việt
Trung tâm lưu trữ của
Hội Truyền giáo nước
ngoài Paris
2
ARSI
Archumum Romanum Societatis Iesu
Thư viện – Trung tâm
lưu trữ của dòng Tên
3
BEFEO Bulletin de l'École française d'Extrême - Bản tin của Trường
Orient
4
B.A.V.H Bulletin des Amis du Vieux Hué
Viễn Đông của Pháp
Tập san Hội Những
người bạn Cố đô Huế
5
Cb
Chủ biên
6
HN
Hà Nội
7
HCM
8
KHXH
Hồ Chí Minh
Khoa học xã hội và
nhân văn
&NV
9
MEP
La Société des Missions Étrangères de Paris
Hội Truyền giáo nước
ngoài Paris
10
Nxb
Nhà xuất bản
11
Tk
Thế kỉ
12
Tp
Thành phố
13
TT
Thị trấn
14
Tx
Thị xã
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Về lý luận
Tôn giáo là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc có tác động đến hầu như
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, chi phối trực tiếp tình cảm, tư tưởng con người. Tôn
giáo được coi như một thực thể khách quan gắn liền với đời sống văn hóa – xã hội,
thể chế chính trị trong từng giai đoạn của lịch sử dân tộc Việt Nam. Là một thành tố
tạo dựng ra nền văn hóa dân tộc, tôn giáo từ xưa đến nay luôn gắn liền và thể hiện
đậm nét trong đời sống tâm linh, phong tục, tập quán của nhiều người. Tìm hiểu
hoặc theo một tôn giáo, tín ngưỡng nào đó đã và đang là nhu cầu của một bộ phận
không nhỏ người Việt Nam hiện nay.
Việt Nam thế kỉ XVI - XVIII là giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nhà Hậu Lê
bước vào giai đoạn suy vong, hậu quả kéo theo là những cuộc chiến tranh giành
quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến dẫn đến cục diện Nam – Bắc triều, tiếp đó
là Trịnh – Nguyễn phân tranh (chưa kể các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra liên
miên). Cuộc khủng hoảng, suy thoái diễn ra trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế và
văn hóa – xã hội đúng vào lúc Đại Việt đối diện với làn sóng văn minh từ phương
Tây tràn sang. Những cơ sở tồn tại cho chế độ quân chủ đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Tìm kiếm hướng phát triển mới cho dân tộc trở thành một đòi hỏi bức thiết. Một
trong những hướng đi đó là phát triển lãnh thổ về phương nam. Thực tế trong thời
kỳ này đã có những cuộc thiên di của người Việt tới khai phá vùng đất mới, mở
rộng lãnh thổ quốc gia về phía nam. Đồng thời với quá trình này, lịch sử dân tộc
cũng chứng kiến những tôn giáo mới du nhập vào Việt Nam trong khi một số tôn
giáo truyền thống có sự biến đổi mạnh mẽ. Tất cả các tôn giáo ấy đều tác động tới
tình hình chính trị và văn hóa – xã hội Đàng Trong. Việc tiếp nhận tôn giáo mới
hoặc duy trì các tôn giáo truyền thống ở vùng đất phương Nam một phần phụ thuộc
vào những chính sách của chính quyền các chúa Nguyễn. Vì vậy, nghiên cứu về các
tôn giáo ở Đàng Trong thế kỉ XVII - XVIII là một việc làm có ý nghĩa trong việc
dựng lại bức tranh lịch sử trong tiến trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm,
đồng thời có thể cung cấp những kiến thức đầy đủ hơn cho những ai đang và sẽ
2
quan tâm tìm hiểu về các tôn giáo ở Việt Nam nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.
Bên cạnh đó, thế kỷ XVII - XVIII là một giai đoạn lịch sử mà cho đến nay vẫn
còn những nhận định chưa thống nhất, chưa đầy đủ. Trong đánh giá và nhận định về
các chúa Nguyễn vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Nghiên cứu các
chính sách tôn giáo của chính quyền Đàng Trong sẽ góp thêm các luận cứ, phương
diện giúp cho việc nhận thức một cách khách quan và toàn diện hơn về thời kỳ lịch
sử này. Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học đáng tin cậy để kiến giải,
ghi nhận những cống hiến tích cực của các chúa Nguyễn đối với lịch sử dân tộc.
1.2. Về thực tiễn
Trong hai thế kỉ XVII - XVIII, các cuộc chiến tranh và khởi nghĩa nông dân
diễn ra liên tục làm cho đời sống chính trị Đại Việt biến động phức tạp, chi phối các
mặt khác của đời sống xã hội. Điều này làm cho nhân tố chính trị nổi lên và thu hút
sự chú ý nhiều hơn của các nhà nghiên cứu. Những thông tin về văn hóa, tôn giáo,
tư tưởng bị rút gọn hoặc mất mát, để lại những “khoảng trống” trong việc khôi phục
bức tranh quá khứ của lịch sử dân tộc. Đề tài này tập trung tìm hiểu chính sách của
các chúa Nguyễn đối với tôn giáo ở Đàng Trong. Tiếp cận theo hướng nghiên cứu
này là việc làm cần thiết giúp chúng ta có thêm một cơ sở khoa học để nhận thức
toàn diện hơn về lịch sử dân tộc nói chung và sự nghiệp của dòng họ Nguyễn nói
riêng ở thế kỉ XVII - XVIII. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ thêm được một mảnh
ghép góp phần lấp đầy khoảng trống của lịch sử Việt Nam giai đoạn nhiều biến
động này.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, công tác nghiên cứu về tôn giáo và văn hóa
– tư tưởng được coi là một trong những nội dung quan trọng của khoa học lịch sử.
Với nhiệm vụ và mục tiêu tìm hiểu về quá khứ để trả lời hiện tại, dự báo cho tương
lai, nghiên cứu các vấn đề cơ bản về chính sách tôn giáo Đàng Trong, từ đó đề xuất
một số giải pháp là việc làm cần thiết. Trên cơ sở đó góp phần vào hoạt động bảo vệ
và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, góp phần
bảo đảm ổn định xã hội, an ninh chính trị quốc gia. Nghiên cứu về chính sách tôn
giáo thế kỉ XVII - XVIII thông qua những chính sách cụ thể được chính quyền các
chúa Nguyễn đã thực thi ở Đàng Trong sẽ có ý nghĩa thực tiễn giúp nhìn nhận về sự
3
biến đổi của các tôn giáo nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung trong lịch sử trên
cả phương diện tích cực và tiêu cực của nó. Nghiên cứu, đánh giá về cách thức điều
hành chính sự của các nhà quản lý trong lịch sử, hậu thế sẽ có thêm nhận thức khoa
học về các yếu tố truyền thống và hiện đại trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, qua
đó có thể vận dụng vào thực tiễn của đất nước. Bài học lịch sử rút ra từ kết quả
nghiên cứu của luận án sẽ là những luận chứng khoa học đủ tính thuyết phục, giúp
các nhà quản lý thông qua những tham chiếu từ quá khứ để hoạch định các chính
sách phù hợp với tình hình tôn giáo Việt Nam hiện nay.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Chính sách tôn giáo của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong (thế kỉ XVII - XVIII)” làm luận án nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tác giả luận án nghiên cứu chính sách của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong
(thế kỉ XVII - XVIII) nhằm hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về chính sách cai trị của các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong, góp phần vào việc nhận thức đúng đắn về một thời kỳ
đầy biến động trong lịch sử dân tộc – thời khai phá và tạo dựng vùng đất mới Đàng
Trong. Trên cơ sở đó, có những nhận định, đánh giá một cách thỏa đáng đối với các
chúa Nguyễn đồng thời rút ra một số bài học lịch sử làm cơ sở khoa học cho việc
tham khảo, hoạch định chính sách tôn giáo và dân tộc hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối đượng nghiên cứu của luận án là những chính sách tôn giáo của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong giai đoạn thế kỉ XVII - XVIII. Chính sách tôn giáo của chính
quyền Đàng Trong bao gồm những quan điểm, chủ trương, đường lối tôn giáo của
các chúa Nguyễn. Đây đồng thời là thái độ ứng xử của những người đứng đầu phủ
chúa đối với tôn giáo, thể hiện qua các chiếu, lệnh, sắc,… do các chúa Nguyễn đã
ban hành và thực thi. Theo hướng tiếp cận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về
các chính sách của những người đứng đầu chính quyền Đàng Trong đối với Phật
giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Islam và Ba-la-mon giáo.
4
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi thời gian
Thuật ngữ Đàng Trong và Đàng Ngoài (hai bên lấy sông Gianh làm mốc giới
nên một số tài liệu còn gọi là Nam Hà và Bắc Hà) được dùng để chỉ hai chính quyền
tồn tại bởi cục diện chính trị Đại Việt giai đoạn từ sau khi cuộc chiến giữa hai tập
đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn (1627 - 1672) không phân thắng bại đưa đến hệ
quả là từ năm 1672 đất nước bị chia làm hai phần lãnh thổ gồm Đàng Trong và
Đàng Ngoài, trong đó các chúa Nguyễn thống trị vùng Đàng Trong. Chính quyền
của các chúa Nguyễn tồn tại đến hết thế kỉ XVIII. Truy nhiên, để làm rõ những luận
điểm mà luận án đặt ra, tác giả xác định phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài từ
giữa thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVIII.
4.2. Phạm vi không gian
Tác giả giới hạn phạm vi không gian nghiên cứu của luận án là Đàng Trong
thuộc không gian địa lý do các chúa Nguyễn đã quản lý và xác lập chủ quyền từ
sông Gianh của tỉnh Quảng Bình trở vào hết vùng đất Nam Bộ ngày nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Tác giả đứng trên lập trường, quan điểm, cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin để nghiên cứu. Cụ thể, tác giả dựa chủ yếu vào lý
thuyết về hình thái ý thức xã hội, hình thái kinh tế – xã hội, chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm cơ sở lý luận trong việc tiếp cận, nhận
diện các vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng
sản Việt Nam về lịch sử và tôn giáo cũng trang bị cơ sở lý luận cho tác giả giải
quyết các vấn đề khoa học đặt ra trong luận án.
Hệ thống lý luận này sẽ giúp người nghiên cứu có phương pháp luận khoa học,
khách quan, có quan điểm đúng đắn, toàn diện trong việc nhìn nhận, đánh giá các sự
kiện, hiện tượng lịch sử trong mối quan hệ biện chứng của nó mà cụ thể ở luận án
này là những chính sách tôn giáo của các chúa Nguyễn cũng như tác động và ảnh
hưởng qua lại giữa những chính sách đó đối với Đàng Trong nói riêng, tiến trình
lịch sử dân tộc nói chung.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic được tác giả sử dụng chủ yếu trong
quá trình nghiên cứu đề tài này. Phương pháp lịch sử sẽ giúp tác giả tìm hiểu các sự
kiện, hiện tượng lịch sử, chính sách của các chúa Nguyễn theo chiều lịch đại cũng
như đồng đại. Bên cạch đó, phương pháp logic được kết hợp sử dụng để nhìn nhận
sự liên hệ giữa các chính sách, sự kiện, hiện tượng lịch sử ở Đàng Trong thời kỳ này
nhằm đưa ra được một số nhận định, đánh giá về hệ thống các chính sách của những
người đứng đầu phủ chúa Nguyễn trong mối liên hệ biện chứng giữa các sự kiện,
hiện tượng lịch sử, từ đó có thể tìm ra quy luật vận động của lịch sử và bài học kinh
nghiệm.
Đồng thời với hai phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp
so sánh, thống kê, điền dã dân tộc học, khảo sát thực địa, v.v… để hỗ trợ quá trình
nghiên cứu và trình bày luận án.
6. Nguồn tài liệu nghiên cứu
Để hoàn thành luận án này chúng tôi dựa vào hệ thống sắc, lệnh, chỉ,… của
các chúa Nguyễn và vua Nguyễn. Các bi kí, minh chung,… dù là hiếm hoi và ít
thông tin nhưng cũng được tác giả khai thác để phục vụ luận án. Bên cạnh đó,
những bộ sử của triều Lê – Trịnh và triều Nguyễn viết về thời kỳ này cũng được tác
giả chú ý tham chiếu. Các công trình nghiên cứu, tham luận từ các hội thảo khoa
học liên quan về đến đề tài này sẽ được sử dụng nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu
các vấn đề đặt ra của luận án. Ngoài ra, các bài viết đăng trên các tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, Nghiên cứu tôn giáo, Xưa & Nay, Hán Nôm, Khoa học xã hội, Triết học
và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, v.v… đề cập hoặc liên quan đến đề tài
nghiên cứu cũng được sử dụng làm nguồn tài liệu chính để phục vụ cho việc nghiên
cứu những vấn đề đặt ra trong luận án.
7. Đóng góp của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ khuyết một số khoảng trống
của sử học Việt Nam về lịch sử Đàng Trong nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung ở
thế kỉ XVII - XVIII. Mặt khác, trên phương diện tôn giáo, từ việc đi sâu nghiên cứu
về những chính sách tôn giáo của các chúa Nguyễn, tác giả luận án sẽ nêu ra đặc
6
điểm, quy luật vận động và phát triển của lịch sử tôn giáo nói riêng, lịch sử Đàng
Trong nói chung qua giai đoạn đầy biến động này.
Bài học lịch sử sẽ được nêu ra từ kết quả nghiên cứu của luận án với những
luận chứng khoa học đủ tính thuyết phục có thể giúp hậu thế thêm những tham
chiếu từ quá khứ trong việc hoạch định các chính sách phù hợp với tình hình tôn
giáo Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, kết quả nghiên của luận án sẽ là nguồn tài
liệu tham khảo đáng tin cậy và bổ ích cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu
những vấn đề tôn giáo trong lịch sử dân tộc. Trong quá trình thực hiện luận án,
chúng tôi còn sưu tầm được những tài liệu gốc có giá trị, đồng thời hệ thống hóa các
nguồn tài liệu, lập nên một thư mục và phụ lục khá phong phú có thể phục vụ cho
các công trình nghiên cứu có liên quan.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
án được bố cục trong 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chương 2. Cở sở hình thành chính sách tôn giáo của các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong (thế kỉ XVII - XVIII)
Chương 3. Chính sách của các chúa Nguyễn đối với một số tôn giáo cụ thể ở
Đàng Trong (thế kỉ XVII - XVIII)
Chương 4. Một số nhận định và đánh giá về chính sách tôn giáo của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong (thế kỉ XVII - XVIII)
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ cơ bản dùng trong luận án
Đàng Trong
Vùng đất do các chúa Nguyễn cai trị được gọi với nhiều tên gọi khác nhau.
Người Phương Tây khi qua lại truyền đạo buôn bán với vùng đất này thường gọi
với nhiều tên như: Cochinchine, Cochinchina, Cauchy China, Quảng Nam quốc, An
Nam Quốc, Cảng Khẩu quốc,... để chỉ vùng đất này. Chúa Nguyễn trong các văn
bản ngoại giao thương xưng là Quốc vương An Nam hoặc lấy tước hiệu của vua Lê
phong (Đô nguyên soái, Quốc công).
Các sử gia thường dùng thuật ngữ Đàng Trong để chỉ vùng đất thuộc quản lí
của các chúa Nguyễn nhằm phân biệt với vùng đất Đàng Ngoài do vua Lê – chúa
Trịnh cai quản trong giai đoạn từ khi bắt đầu cuộc chiến Trịnh – Nguyễn diễn ra,
vùng đất của các chúa Nguyễn quản lý trở thành một thực thể độc lập, đến khi chính
quyền của các chúa Nguyễn chạy khỏi kinh đo Phú Xuân (1627 - 1775).
Thực tế từ năm 1558, họ Nguyễn đã vào đất Thuận – Quảng dựng nghiệp. Mặt
khác, mặc dù sau năm 1775 họ Nguyễn bị đánh khỏi kinh đô Phú Xuân, Nguyễn
Phúc Thuần (Định Vương) phải chạy vào Gia Định và chưa bị sụp đổ hoàn toàn.
Đến năm 1776, Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho hoàng tôn Nguyễn Phúc
Dương (Tân Chính Vương) thì chính quyền Đàng Trong vẫn còn tồn tại. Sau khi
Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương đều bị quân Tây Sơn bắt giết (1777),
Nguyễn Phúc Ánh tiếp tục duy trì sự nghiệp, dùng ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa
Vĩnh trấn chi bảo” để hiệu triệu lực lượng kháng cự lại Tây Sơn. Cuối thế kỉ XVIII,
Nguyễn Phúc Ánh từ vùng Nam Bộ ngày nay từng bước củng cố lực lượng, tiến ra
Bắc lật đổ triều đại Cảnh Thịnh và lập nên vương triều Nguyễn vào năm 1802. Vua
Gia Long đã kế thừa và tiếp nối chính sách tôn giáo của các chúa Nguyễn trước đó.
Vì vậy, trong luận án này tác giả dùng thuật ngữ “Đàng Trong” với chủ ý nhằm
nhấn mạnh phạm vi thời gian chủ yếu ở giai đoạn lịch sử từ khi họ Nguyễn tách
khỏi chính quyền Lê – Trịnh, thống trị vùng đất từ sông Gianh trở vào phía nam cho
đến khi chính quyền của họ Nguyễn chạy khỏi kinh đô Phú Xuân.
8
Tôn giáo
Cho đến nay có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về tôn giáo, phụ
thuộc vào quan niệm của từng quốc gia, từng vùng, từng cộng đồng người cụ thể về
các hoạt động tôn giáo. Theo nghĩa hẹp, nhiều người thường hiểu tôn giáo là sự
sùng bái của con người với các đấng thần linh, là hệ thống niềm tin với thánh thần,
Chúa (God) và những lời răn dạy của các đấng linh thiêng.
Dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng, trong bài Góp phần phê phán triết
học của Hê-ghen, C. Mác và PH. Ăng-ghen (2004) nhấn mạnh về nguồn gốc và bản
chất của tôn giáo như sau:
Con người làm ra tôn giáo chứ tôn giáo không làm ra con người. Cụ thể là: tôn giáo
là sự tự ý thức và tự cảm giác của con người chưa tìm thấy bản thân mình hoặc đã lại
đánh mất mình một lần nữa. Nhưng con người không phải là một sinh vật trừu tượng,
ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước,
là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, từ thế giới quan lộn ngược vì
bản thân chúng là thế giới quan lộn ngược. Tôn giáo là lý luận của thế giới ấy, cương
yếu bách khoa của nó, là logic dưới hình thức phổ cập của nó, là point d’honneur duy
linh luận của nó, là nhiệt tình của nó, là chuẩn y về mặt đạo đức của nó, là bổ sung
trang nghiêm của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an ủi và biện hộ. Tôn giáo
biến bản chất con người thành tính hiện thực ảo tưởng, vì bản chất con người không
có tính hiện thực thật sự. Do đó, đấu tranh chống tôn giáo là gián tiếp đấu tranh
chống thế giới mà lạc thú tinh thần của nó là tôn giáo. Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa
là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn
hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân (tr. 569-570).
Ở Việt Nam nhiều người thường dùng chữ “đạo” để chỉ một tôn giáo hoặc một
tập đoàn người có cùng một tín ngưỡng, tôn giáo. Theo Lê Thanh Bình – Đỗ Thanh
Hải (2012), “tôn giáo là một hệ thống những niềm tin, nghi lễ và biểu tượng dẫn dắt lời
nói, suy nghĩ và hành động của những cá nhân chấp nhận giáo lý của tôn giáo” (tr.16).
9
Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2004 công nhận một tổ
chức tôn giáo khi có đủ 5 điều kiện sau:
a) Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi
không trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
b) Có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó
với dân tộc và không trái với quy định của pháp luật;
c) Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
d) Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;
đ) Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận. (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2017).
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày
18/11/2016 định nghĩa: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống
quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ
chức” (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2017).
Theo một số quan điểm và định nghĩa nêu trên, khi được coi là một tôn giáo ít
nhất nó phải hội tụ 3 yếu tố cơ bản:
Thứ nhất, có ý thức tôn giáo (gồm tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ tư tưởng
tôn giáo). Đây là yếu tố quan trọng nhất của một tôn giáo;
Thứ hai, có giáo thuyết (tức hệ thống giáo lý, giáo luật, nghi lễ,…);
Thứ ba, có tổ chức giáo hội, tăng đoàn và những người hoạt động tôn giáo
chuyên nghiệp.
Trong luận án này, tác giả sử dụng khái niệm Tôn giáo theo Luật tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2016 để làm phương tiện và công cụ nghiên cứu về các chính sách tôn
giáo của chính quyền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Chính sách tôn giáo
Chính sách tôn giáo bao gồm những quy chế, quy phạm pháp luật, quan điểm,
chủ trương, đường lối tôn giáo của tổ chức nhà nước, của những người đứng đầu
nhà nước đề ra trong việc quản lý và điều hành quốc gia. Khái niệm “Chính sách
tôn giáo” trong luận án này được dùng để chỉ những quy định của nhà nước đối với
10
tôn giáo nhằm điều chỉnh, hướng dẫn các hành vi, hoạt động tôn giáo của tổ chức
hoặc cá nhân diễn ra theo quy định của chính quyền nhà nước. Chính sách tôn giáo
của các chúa Nguyễn là những quan điểm, chủ trương, đường lối, quy định về tôn
giáo của từng vị chúa trên cương vị nắm quyền của mình nhằm điều chỉnh, hướng
dẫn các hành vi, hoạt động tôn giáo của tổ chức hoặc cá nhân diễn ra theo quy định
của phủ chúa Nguyễn. Chính sách tôn giáo của chính quyền Đàng Trong được thể
hiện chủ yếu thông qua các chiếu, chỉ, lệnh, sắc,… do các chúa Nguyễn ban hành và
thực thi, biểu hiện thái độ ứng xử của các chúa Nguyễn đối với các tôn giáo.
Ba-la-mon giáo
Ba-la-mon giáo được hình thành ở Ấn Độ thời cổ đại. Ba-la-mon là từ phiên
âm theo tiếng Phạn của thuật ngữ Brahma. Ba-la-mon giáo được hình thành trên cơ
sở của Veda giáo. Kinh điển của Ba-la-mon giáo chủ yếu được thể hiện trong các bộ
kinh Veda (gồm Rig Veda, Yajur Veda, Atharva Veda), Brahmanas (kinh Ba-lamon), Upannishad,...
Đạo Ba-la-mon thờ 3 vị thần tối thượng: Brahma là thần sáng tạo, được gọi là
Đấng Tối Cao, linh hồn của vũ trụ; Vishnu là thần bảo tồn; Shiva là thần hủy diệt,
tranh đấu. Bên cạnh đó, Ba-la-mon giáo còn thờ các vị thần khác như thần Sấm
(Indra), thần Mặt Trời (Surya), thần Mặt Trăng (Mosa), thần Lửa (Agni), thần Gió
(Vayu), thần Không Trung (Varuna),… Theo lịch sử phát triển, Ba-la-mon giáo
phân thành nhiều chi phái, trong đó có những phái lớn như Vishnu giáo, Shiva giáo,
Vedanta giáo, Yoga giáo. Ở Việt Nam, người Champa tiếp thu chủ yếu là Shiva
giáo.
Đạo giáo
Đạo giáo còn được gọi là Lão giáo, Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão hay Đạo Lão
Trang, ra đời từ thời cổ đại ở Trung Quốc. Hiểu theo chiết tự, chữ Đạo là một danh
từ triết học nguyên nghĩa là “con đường”. Nhưng khi ở trong Đạo giáo nó được
mang nghĩa là “phương tiện”, “nguyên lí”. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức
là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ.
Đạo giáo là tôn giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm giáo chủ, coi ông là hóa
thân của “Đạo”. Đạo giáo là tôn giáo đa thần, thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, kế đến
11
là Thái Thượng Lão Quân và một hệ thống thần tiên nhiều ít tùy theo quy định của
từng hệ phái khác nhau. Mục đích chủ yếu của tôn giáo giáo này hướng tới “vô vi”,
tìm cách để trường sinh, diệt tà ma. Kinh sách của Đạo giáo cơ bản gồm Đạo Đức
kinh của Lão Tử và Nam Hoa kinh của Trang Tử. Đạo giáo có hệ thống Đạo pháp
chỉ tất cả các pháp thuật, thường khái quát thành 3 lĩnh vực gồm các phương thuật
luyện dưỡng, tịch cốc, thủ quyết để đạt đến trường sinh bất tử, thành tiên; các
phương thuật trừ tà ma, phù chú chữa bệnh; các phương thuật chiêm nghiệm dự trắc
như tướng địa, tướng trạch,...
Nơi hành lễ của Lão giáo gọi là Thiên đình đạo giáo hoặc Đạo quán. Trong hệ
thống tổ chức có các chức danh như nguyên sĩ, cao sĩ, cư sĩ, ẩn sĩ,... Người theo
Đạo giáo thường tự xưng là đạo sĩ, cư sĩ, chân nhân, đạo nhân.
Những tín đồ Đạo giáo thường dùng danh xưng Thiên Tôn để biểu thị sự uy
linh tối thượng. Các vị Thiên Tôn trong Đạo giáo ở Việt Nam như Ngọc Hoàng
Thiên Tôn Cao Thượng Đế, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Ngọc Thanh Nguyên Thủy
Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (Lão Tử),… Các vị tiên thánh của Đạo
giáo như Quan Đế, Huyền Đế, Văn Xương Đế Quân,… được đông đảo nhân dân
thờ cúng. Bên cạnh đó, nhiều vị thần ảnh hưởng từ Đạo giáo như Long Vương,
Thần Lửa, Thổ Địa, Thần Tài, Thành Hoàng,... cũng được tín thờ trong các đền
quán. Có khi các vị tiên thánh cũng được phối thờ trong các đình, đền, chùa.
Đạo giáo du nhập vào Việt Nam với cả hai hệ phái Thần tiên và Phù thủy.
Thực tế cho thấy, Đạo giáo phù thủy dần dần bị đồng hóa vào hệ thống tín ngưỡng
dân gian, đậm nét nhất ở tục thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu (Tam phủ và
Tứ phủ). Đặc biệt, Đạo giáo này khi du nhập vào Việt Nam đã sớm được kết hợp
với Phật giáo và Nho giáo thành “Tam giáo đồng nguyên”, ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống tín ngưỡng của nhiều thế hệ người dân Việt Nam.
Nho giáo
Nho giáo còn được gọi là Khổng giáo. Ra đời và phát triển ở Trung Quốc thời
cổ đại, sau đó Nho giáo được truyền sang nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, hàn
Quốc Việt Nam,… Thuật ngữ Nho giáo có hai nghĩa cơ bản:
12
Thứ nhất, Nho giáo có nghĩa là đem Nho học để giáo hóa con người. Với quan
niệm này, Nho giáo được coi là một hệ thống đạo đức, triết lý giáo dục và triết lý
chính trị do Khổng Tử để xướng. Những người thực hành theo Nho giáo được gọi là
các nhà nho, nho sĩ, nho sinh hoặc sĩ phu. Cơ sở tư tưởng, lý luận của Nho giáo
được hình thành trước thời Xuân Thu. Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng
và tri thức trước đó thành học thuyết. Hệ thống kinh sách, giáo lý của Nho giáo cơ
bản gồm có Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu) và Tứ Thư (Đại Học, Trung
Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử). Ở Việt Nam thời các chúa Nguyễn, tài liệu học tập,
giảng dạy và thi cử của Nho giáo có thêm Bắc sử (sử Trung Quốc), Cương mục (sử
Việt Nam) và tình hình Đàng Ngoài.
Thứ hai, Nho giáo là một tôn giáo cùng với Phật giáo, Đạo giáo hợp thành
Tam giáo. Trên phương diện này, Nho giáo chứa đựng tính tôn giáo của nó gồm hệ
thống nghi lễ từ trung ương đến địa phương gắn liền với những đền thờ Khổng Tử
như Văn miếu, Văn chỉ mà ở đó các nhà nho được coi là những tín đồ của Nho giáo.
Đặng Nghiêm Vạn (2003) cho rằng, “Nho giáo, với những nghi lễ từ trung ương
đến địa phương, với những đền thờ Khổng Tử, có đủ tiêu chuẩn là một tôn giáo,
mặc nhiên các nhà nho được coi là những tín đồ” (tr. 16). Nguyễn Đức Sự (2003)
cũng khẳng định “khía cạnh tôn giáo của Nho giáo ở Việt Nam trước hết biểu hiện
ở quan điểm thần học về Trời của các nhà nho và những người cầm quyền tin theo
đạo Nho” (tr. 39).
Không thể phủ nhận tính tôn giáo của Nho giáo ở Việt Nam. Nho giáo khi du
nhập vào Việt Nam đã được kết hợp với Phật giáo và Đạo giáo thành “Tam giáo
đồng nguyên”. Khía cạnh tôn giáo của Nho giáo biểu hiện rõ nhất ở quan điểm về
Trời, mệnh Trời. Niềm tin vào sức mạnh của Thượng Đế, quỷ thần,… Các hình
thức bói toán trong nhân dân đã có từ trước khi Nho giáo thâm nhập, nhưng nó đã
được Nho giáo bổ sung thêm lý thuyết thần học và những hình thức nghi lễ. Đặc
biệt, Nho giáo không những thâm nhập vào việc thờ trời, tế thần mà còn thâm nhập
sâu vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt rất đa dạng, phong phú về hình
thức. Mặc dù vậy, Nho giáo vẫn không hội đủ các yếu tố để được coi là một tôn
13
giáo. Trong luận án này, tác giả quan niệm Nho giáo là một học thuyết chính trị –
xã hội, đạo đức mang tính tôn giáo.
Phật giáo
Phật giáo là tôn giáo vô thần do Siddhattha (Tất Đạt Đa) họ Gautama (Cồ Đàm)
thuộc bộ tộc Sakyiya sáng lập vào thế kỉ VI trước Công Nguyên. Ông xưng là
Sakiyamuni (Thích Ca Mâu Ni). Người Việt Nam thường gọi là Phật Như Lai hay Phật,
Phật Đà hay Bụt (Buddha) nghĩa là tự giác, giác tha, giác hạnh, giác ngộ, sáng suốt. Kinh
điển, giáo lý của Phật giáo cơ bản nằm trong Tam Tạng kinh: Tạng kinh (Sutra pitaka –
những cuốn kinh nói về giáo lý của đạo Phật), Tạng luật (Vinaya pitaka – những cuốn
sách đề cấp về luật lệ của Phật giáo) và Tạng luận (Abhidharma pitaka – những sách
dùng để giải thích nội dung những lời dạy của Phật tổ và giáo lý của đạo Phật).
Quá trình phân phái của Phật giáo diễn ra bắt đầu từ khi Phật tổ nhập diệt, kéo
dài qua nhiều thế kỉ, đã hình thành nên các bộ phái: Sthaviravada (Thượng tọa bộ)
còn gọi là phái Hinayana (Tiểu thừa) và Mahasamghikah (Đại chúng bộ) còn gọi là
phái Đại thừa (Mahayana). Từ sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ tư (đầu thế kỉ II), hai
phái bộ này phân liệt thành nhiều phái khác nhau.
Phái Tiểu thừa (Therevada) vì chủ yếu truyền đến các nước phía Nam nên còn
gọi là Phật giáo Nam tông, kinh điển dùng trong phái này hiện nay chủ yếu được viết
bằng chữ Pali nên còn được gọi là Phật giáo Pali. (Nguyễn Thanh Xuân, 2007) cho
rằng, “trong nhiều trường hợp Phật giáo Tiểu thừa tự xưng là Phật giáo Nguyên thủy
(tr. 68). Từ Phật giáo Therevada hình thành một số tông phái như Câu xá tông, Thành
thực tông, Luật tông,…
Phái Đại thừa (Mahayana) còn được gọi là Phật giáo Bắc tông. Kinh tạng chủ
yếu được viết bằng văn tự Sanskrit. Từ Phật giáo Bắc tông du nhập vào Việt Nam
đã hình thành một số tông phái như Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Tịnh độ
tông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử, Tào Động,…
Islam
Islam là tôn giáo độc thần thờ Allah ra đời vào thế kỉ thứ VII ở bán đảo Ả Rập.
Tín đồ Islam cho rằng danh từ Islam được Thánh Allah dùng để gọi tôn giáo mà
Ngài ban xuống. Vì vậy họ đã lấy tên Islam để gọi tên tôn giáo của mình.
14
Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “vâng mệnh, tuân phục ý muốn
của thánh Allah”. Danh từ “Hồi giáo” xuất xứ từ việc chỉ tôn giáo của dân tộc Hồi
Hột truyền bá vào Trung Quốc. Đời Minh (1368 - 1644), cụm từ “người Hồi Hồi”
dần dần đổi nghĩa để chỉ tín đồ Islam. Ở Việt Nam, nhiều người dùng danh từ đạo
Islam hay đạo Ixlam. Tuy nhiên, nhiều tín hữu Islam ở Việt Nam hiện nay vẫn dùng
danh từ Hồi giáo vì đã quen dùng danh từ này một cách tôn kính. “Hồi Hột” là tên
tộc người, không phải dịch nghĩa của chữ Islam hay một tôn chỉ của Islam. Do đó,
trong luận án này tác giả hạn chế dùng danh từ Hồi giáo hay đạo Hồi.
Những kinh sách quan trọng nhất của Islam gồm: Kinh Qur’an, sách Sunna và
sách Hadith. Người theo Islam được gọi theo tiếng Arap là Muslim. Các tín đồ của
Islam thừa nhận Muhammad là vị Thiên sứ cuối cùng được Allah phái xuống trần
gian qua Thiên thần Jibrael.
Năm tôn chỉ mà tín đồ Islam phải thực tâm thi hành và coi đây là nghĩa vụ
thiêng liêng gồm: Tin và biểu lộ đức tin về Thánh Allah, đồng thời tin vào sứ mạng
của giáo chủ Muhammad; Hành lễ mỗi ngày 5 lần; Ăn chay ở tháng Ramadan; Bố
thí giúp đỡ 1/10 lợi tức hằng năm cho người nghèo; Ði hành hương đến thánh địa
Macca nếu có thể.
Thiên Chúa giáo
Thiên Chúa giáo là tên gọi của tất cả các tôn giáo thờ Chúa Jesus Christo ra
đời vào thế kỉ I ở vùng Galilee thuộc Jerusalem. Thuật ngữ Chritianisme được
dùng theo hai cách hiểu: thứ nhất, tên tôn giáo gọi theo danh xưng của giáo tổ Jesus
– Yesu – Yehoshua – Yeshua – Giêsu – Giêu hoặc Giatô ghĩa là Đấng Cứu Độ; thứ
hai, là tên tôn giáo gọi theo biệt hiệu của Jesus Christo. Christos phiên âm theo
tiếng Hy Lạp là Masia, tức là người mà Thiên Chúa phái xuống để cứu độ. Christos
phiên âm theo tiếng Latinh là Jilisitu hoặc Kilisitu, phiên âm Hán – Việt thành Cơ
Lợi Tứ Đốc, gọi tắt thành Cơ đốc. Biệt hiệu Christos còn được phiên âm thành
Khirixitô hay Kirixitô gọi tắt là Kitô. Do đó, đạo Kitô, đạo Gia tô hoặc Cơ đốc giáo,
Công giáo đều chỉ Thiên Chúa giáo. Ở Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, các giáo
sĩ còn phiên âm sang Việt ngữ từ Thiên Chúa thành Chúa Trời hoặc Chúa Blời.
15
Đạo Thiên Chúa tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi (Cha – Con – Thánh Thần) cùng
một bản thể (substance), cùng quyền năng. Giáo lý Thiên Chúa giáo được chứa
đựng trong kinh Thánh gồm hai phần Cựu ước (Old Testament) và Tân ước (New
Testament).
Công giáo: Từ Cathoilicism (Catholicisme, Cathoilica, Catholique, hay
Catholicos) có nguồn gốc trong tiếng Hy Lạp: Katholicos, có nghĩa là phổ quát
(universel), tôn giáo chung, nhằm chỉ Thiên Chúa giáo là một tôn giáo phổ quát cho
tất cả mọi người, mọi dân tộc. Công giáo là thuật ngữ được dịch từ chữ Religio
Cathoilica có nghĩa là tôn giáo chung cho mọi người.
Hội Truyền giáo nước ngoài Paris (La Société des Mission Étrangères de
Paris – MEP): Còn được gọi với tên Hội Thừa sai Paris hay Hội Truyền giáo hải
ngoại Paris. Đây là một tổ chức các tu sĩ Công giáo chuyên thực hiện việc truyền
giáo tại châu Á. Hội này chính thức ra đời năm 1664.
Thánh Bộ truyền bá Tin Mừng: còn được gọi là Thánh Bộ truyền giáo,
Thánh Bộ rao giảng Tin Mừng hoặc Hội Truyền giáo đức tin (Pontificl Society for
The Propagatinon ò The Faith). Tổ chức này được Tòa thánh Rome thành lập năm
1622 nhằm kiểm soát toàn bộ hoạt động truyền giáo trên thế giới và cung cấp những
phương tiện truyền giáo như mở nhà in, hỗ trợ tài chính, gửi các sách giáo lý, lập
chủng viện, đào tạo chủng sinh, lập chức Giám quản Tông tòa cho các giám mục,
trực thuộc Tòa thánh Roma.
Dòng Dominico (Ordre de Dominicains – OD) hay còn gọi là dòng Đa Minh,
gọi theo tiếng Latinh là Dominicanus, phiên sang Việt ngữ đọc thành Đô mi ni cô.
Đây là dòng tu do Dominique sáng lập năm 1206 ở Pháp.
Dòng Phanxico (Ordre Francicains OF) còn gọi là Dòng Anh em Phan Sinh
hay Dòng Anh em Hèn mọn được thành lập năm 1209 tại Assisi (Italya).
Dòng Tên (Ordre de Jesuites, Jésuites hoặc Jesus): Là dòng tu được giáo sĩ
Inhaxiô (tên gốc: Ignacio López), một quý tộc xứ Loyola (Tây Ban Nha) lập năm
1534 ở Tây Ban Nha. “Dòng này theo thuyết chiến đấu hăng hái,... Những người
theo dòng này, ngoài ba điều nguyện thường của các tu sĩ, lại còn nguyện xin theo
mệnh lệnh của đức Giáo hoàng” (Cadière L. và Nguyễn Văn Tố,1944, tr. 162).
16
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều học giả tìm hiểu và công bố các kết quả qua một số
công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu liên quan về chính sách của các chúa
Nguyễn đối với Phật giáo:
Thích Đức Nhuận (1984) trong công trình Đạo Phật và dòng sử Việt (Nxb.
Phương Đông, Tp. HCM), khi nghiên cứu về lịch sử phát triển các thiền phái Phật
giáo ở Việt Nam đã đưa ra nhận định rằng, Phật giáo đời Nguyễn, từ chúa Nguyễn
Hoàng đến Bảo Đại, trong hơn ba trăm năm (1600 - 1954), tuy các vua, chúa hết
lòng sùng kính Đạo Phật nhưng Phật Giáo trong giai đoạn này vẫn chỉ thu hình
trong phạm vi tín ngưỡng cổ truyền chứ thực chất thì giản ước. Trong công trình
này, tác giả không đi sâu nghiên cứu về các chính sách cụ thể của chính quyền
Đàng Trong để từ đó tìm ra đặc điểm cũng như vai trò của các chúa Nguyễn đối với
Phật giáo. Trong khi đó, Thích Minh Tuệ (1993) với Lược sử Phật giáo Việt Nam
(Thành Hội Phật giáo Tp. HCM ấn hành) đã đề cập sơ lược về hoạt động xây dựng,
trùng tu chùa Thiên Mụ của những người đứng đầu phủ chúa để khẳng định sự sùng
mộ của các chúa Nguyễn đối với Phật giáo.
Đáng chú ý có Nguyễn Hiền Đức với Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tập 1
(Nxb. Tp. HCM, 1994) và Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tập 1 (Nxb. Tp. HCM,
1995). Trong hai công trình nghiên cứu khá công phu về lịch sử Phật giáo Đàng
Trong trên phương diện lịch sử phát triển của các dòng phái Phật giáo nơi đây. Bên
cạnh đó, tác giả cũng trình bày sơ lược về các chúa Nguyễn với Phật giáo ở Đàng
Trong, qua đó đề cập một số chính sách của các chúa Nguyễn đối với Phật giáo.
Tuy nhiên tác giả chỉ mới chú trọng đến ảnh hưởng của Phật giáo trong nền văn học
Đàng Trong chứ chưa trình bày toàn diện ở các lĩnh vực khác, đặc biệt vai trò của
Phật giáo trong đời sống chính trị – xã hội Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII cũng
như nhận thức của các chúa Nguyễn đối với tôn giáo này trong việc thực hiện mục
tiêu xây dựng, củng cố và phát triển chế độ.
Cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (Nxb. Thuận Hóa, 1999)
và cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (Nxb. Văn học, 2000), hai
17
nhà nghiên cứu đã trình bày khái quát toàn bộ tiến trình lịch sử Phật giáo từ khi du
nhập vào Việt Nam đến nay, trong đó có đề cập tới tình hình Phật giáo thời Trịnh –
Nguyễn. Hai công trình này tập trung nghiên cứu về lịch sử quá trình du nhập các
hệ phái Phật giáo Bắc tông vào vùng đất Đàng Trong, ghi lại dấu ấn của các thiền
sư khai sơn cũng như những người có công phổ bá Phật giáo cùng bước chân Nam
tiến của người Việt trên vùng đất phía nam của Tổ quốc từ thế kỉ XVI.
Thích Thanh Từ (1999) trong Thiền sư Việt Nam (Nxb. Tp. HCM) khi trình bày
quá trình hoạt động của các thiền sư ở vùng Đàng Trong có đề cập đến sự kiện
Nguyễn Phúc Chú tiến hành trùng tu và ban biển ngạch, hoành phi cho chùa Linh
Phong ở Phù Cát, tỉnh Bình Định. Bên cạnh đó, một số thiền sư như Minh Vật Nhất
Tri, Tịnh Giác Thiện Trì, Pháp Thông Thiển Hỷ, Liễu Quán, Nguyên Thiều, Thạch
Liêm Đại Sán, Tử Dung Minh Hoằng đã được những người đứng đầu phủ chúa tạo
điều kiện thuận lợi để phổ biến Phật pháp. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng ở việc liệt
kê một số sự kiện gắn liền với cuộc đời hoạt động của những vị sư tăng nổi tiếng ấy
mà chưa nghiên cứu đầy đủ hệ thống chính sách của chính quyền Đàng Trong.
Trần Hồng Liên ở hai công trình Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam
Bộ - Việt Nam từ thế kỷ XVII đến 1975, (Nxb. Khoa học xã hội, 2000) và Góp phần
tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ (Nxb. Khoa học xã hội, 2004) đã nghiên cứu về sự du
nhập và quá trình phát triển của đạo Phật trong người Việt ở Nam Bộ, trong đó tập
trung vào việc tìm hiểu về lịch sử ra đời và phát triển của các tông phái Phật giáo ở
Nam Bộ trong suốt chiều dài của lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả có đề cập đến việc
Nguyễn Phúc Ánh trong khi chạy nạn đã trú ngụ ở trong chùa Linh Thứu và chùa
Từ Ân. Vua Minh Mạng đã được sinh ra ở chùa Khải Tường. Tuy nhiên, tác giả vẫn
chưa tập trung nghiên cứu về các chính sách của chúa Nguyễn cũng như tác động,
ảnh hưởng của các chính sách đó đối với Phật giáo ở Đàng Trong nói chung, Nam
Bộ nói riêng trong các thế kỉ XVII - XVIII. Hơn nữa, các công trình này chủ yếu
mới dừng lại nghiên cứu về Phật giáo Đại thừa được du nhập từ miền Bắc theo bước
chân của người Việt và theo đoàn người Trung Quốc tị nạn vào thời điểm ấy. Do
vậy, tác giả vẫn chưa có điều kiện nghiên cứu về tình hình Phật giáo Nguyên thủy
vốn đã hiện diện ở vùng đất Nam Bộ từ trước đó.
18
Bên cạnh đó, các bài nghiên cứu “Phật giáo Khánh Hòa thời các chúa Nguyễn
(thế kỷ XVII - XVIII)” của tác giả Phạm Quang Hùng và “Bước đầu tìm hiểu những
ngôi chùa ở Bạc Liêu trong các thế kỷ XVII - XIX” của Trần Thuận in trong Kỷ yếu
hội thảo “Nam Bộ và Nam Trung Bộ – những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XIX” (Đại
học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, 2002) đã nghiên cứu Phật giáo ở Khánh Hòa và Bạc
Liêu, trong đó có đề cập đến chính sách của các chúa Nguyễn đối với Phật giáo ở
hai địa phương này.
Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm (2006) trong Lịch sử Phật giáo xứ Huế (Nxb.
Văn hóa Sài Gòn) đã dành gần hết chương II của tác phẩm để trình bày nghiên cứu
về lịch sử Phật giáo ở vùng Huế thời các chúa Nguyễn. Các tác giả khi nghiên cứu
về chính sách của một số chúa Nguyễn đã đưa ra kết luận: từ thực tế về tư tưởng,
dân Thuận Hóa thời này sống với một triết lý dung hợp cả ba nguồn tư tưởng lớn:
Thích, Khổng, Lão cộng với tín ngưỡng bình dân vốn có. Vì vậy, lúc đầu Nguyễn
Hoàng đã thiên trọng Đạo giáo nhưng về sau ông lại yểm trợ Phật giáo để được lòng
dân (tr. 85). Bên cạnh đó, các tác giả cũng đề cập đến những hoạt động hộ trì Phật
giáo của các chúa Nguyễn ở vùng Thuận Hóa và cho rằng, Nguyễn Phúc Chu (tự
hiệu là Thiên Túng đạo nhân), Nguyễn Phúc Chú (tự hiệu Vân Tuyễn đạo nhân),
Nguyễn Phúc Khoát (tự hiệu Từ Tế đạo nhân) “cả ba vị chúa này đều là những
Phật tử nhiệt thành” (tr. 107). Chúng tôi cho rằng, những tự hiệu mà các tác giả nêu
trên thực tế là đạo hiệu, thể hiện sự ảnh hưởng rất sâu đậm của Đạo giáo đối với
những người đứng đầu Đàng Trong thời kỳ này. Hơn nữa, các tác giả chủ yếu chỉ đề
cập đến Phật giáo và chính sách Phật giáo của phủ chúa ở vùng Phú Xuân.
Lê Nguyễn Lưu (2006) trong công trình Văn hóa Huế xưa, tập 2: Đời sống
văn hóa làng xã (Nxb. Lao động, HN) khi nghiên cứu về đời sống văn hóa Phật
giáo ở xứ Huế đã đưa ra nhận định rằng, đến thế kỉ XVII - XVIII, các chúa Nguyễn
rất sùng mộ đạo Phật. Tuy nhiên, càng phát triển bề rộng, Phật giáo càng thiếu bề
sâu, và không ít phần tử sư tăng thoái hóa, biến chất. Đến thế kỉ XVII - XVIII, Phật
giáo xứ Thuận Hóa đã đi đến chỗ suy đồi (tr. 376). Đây là một nhận định dựa trên
phản ánh của Thích Đại Sán trong Hải ngoại kỷ sự. Vì vậy cần phải tiếp tục đi sâu
nghiên cứu cụ thể hơn về vai trò của Phật giáo ở vùng Thuận Hóa đương thời, đặc
19
biệt về các chính sách Phật giáo của những người đứng đầu phủ chúa và hệ quả của
các chính sách đó đối với Thuận Hóa nói riêng, Đàng Trong nói chung.
Nguyễn Ngọc Quỳnh (2006) có bài nghiên cứu “Dòng họ Mạc và Phật giáo ở
Hà Tiên thời chúa Nguyễn” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2). Qua bài nghiên
cứu này, tác giả bàn luận về đóng góp và vai trò của họ Mạc trong việc hoằng
dương Phật giáo từ Trung Quốc sang vùng đất Hà Tiên. Tuy nhiên, những nhận
định, đánh giá này cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu thêm.
Cùng với đó là một số bài tham luận in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Chúa
- Bồ tát Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) và sự nghiệp mở mang bờ cõi, phát triển
đất nước” (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và Viện Nghiên cứu tôn giáo,
2011) như: “Chúa – Bồ tát Minh Vương Nguyễn Phúc Chu với công nghiệp mở
mang phát triển đất nước” của Đặng Hùng Anh; “Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu,
người mở cõi phương Nam” của nhà nghiên cứu Vu Gia; “Chúa Nguyễn với Phật
giáo xứ Huế” của nhà nghiên cứu Lê Đức Hạnh; “Các chúa Nguyễn với sự phát
triển Phật giáo ở Đàng Trong” của Lê Thị Thu Hiền; “Phật giáo với đất phương
Nam” của Thích Vân Phong; “Tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo Đàng Trong
(thế kỷ XVII - XVIII)” của Trần Thuận; “Tinh thần vì đạo pháp và dân tộc của
Minh Vương Nguyễn Phúc Chu” của Thích Đại Đạo, các tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu Phật giáo ở Đàng Trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Chu nắm quyền.
Trong luận văn thạc sĩ Phật giáo Quảng Trị từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX,
(Lê Thị Huyền Trang, 2012, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế) khẳng định:
Tại Quảng Trị cũng vậy, các chúa Nguyễn đã chăm lo xây dựng, trùng tu chùa
chiền, trọng đại sư tăng, nhờ đó mà phái Thiên Trúc Lâm phục hưng và Phật giáo
Quảng Trị có bước phát triển mới (tr. 36). Luận văn của tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu một số chính sách Phật giáo của các chúa Nguyễn ở vùng Quảng Trị nên không
có điều kiện tìm hiểu toàn bộ chính sách tôn giáo của chính quyền Đàng Trong.
Tạ Quốc Khánh trong bài “Minh Vương Nguyễn Phúc Chu và công nghiệp mở
mang bờ cõi, phát triển Phật giáo Đàng Trong” (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6,
2012) và Hoa Duyên trong bài “Thái độ “cư Nho mộ Thích” của các chúa Nguyễn”