Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

(Luận văn thạc sĩ) So sánh Đứa con trai của Hà Thị Cẩm Anh và Nghi lễ của Leslie M.Silko từ góc nhìn phên bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ TRANG

SO SÁNH ĐỨA CON TRAI CỦA HÀ THỊ CẨM ANH
VÀ NGHI LỄ CỦA LESLIE M.SILKO TỪ GÓC
NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN, 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ TRANG

SO SÁNH ĐỨA CON TRAI CỦA HÀ THỊ CẨM ANH
VÀ NGHI LỄ CỦA LESLIE M.SILKO TỪ GÓC
NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGÔN NGỮ VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Hướng dẫn khoa học: TS. BÙI LINH HUỆ

THÁI NGUYÊN, 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan những luận điểm được trình bày trong Luận văn này là kết
quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước những luận điểm khoa học mà tôi nêu ra trong Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ của

nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Bùi Linh Huệ đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Khoa học Thái Nguyên,
khoa Báo chí truyền thông và các thày cô trong khoa đã đào tạo và tạo điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn đơn vị công tác, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã
khuyến khích, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn!
Ngày 12 tháng 11 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 12

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 12
6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 13
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................................... 14
1.1. Khái lược về tác giả Hà Thị Cẩm Anh và Đứa con trai .......................... 14
1.1.1. Khái lược về tác giả Hà Thị Cẩm Anh .................................................. 14
1.1.2. Khái lược về truyện dài Đứa con trai ................................................... 18
1.2. Khái lược về tác giả Leslie M. Silko và Nghi lễ ...................................... 19
1.2.1. Khái lược về tác giả Leslie M. Silko ..................................................... 19
1.2.2. Khái lược về truyện dài Nghi lễ ............................................................ 20
1.3. Khái lược về phê bình sinh thái ............................................................... 23
1.3.1. Phê bình sinh thái là gì? ....................................................................... 23
1.3.2. Phê bình sinh thái ở Việt Nam .............................................................. 27
1.4. Phê bình sinh thái nữ quyền và việc nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số .. 31
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 36
CHƯƠNG 2: KHÔNG GIAN TRONG ĐỨA CON TRAI VÀ NGHI LỄ TỪ
GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI ............................................................. 37
2.1. Vấn đề không gian trong phê bình sinh thái ............................................ 37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iv

2.1.1. Bước ngoặt không gian trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.... 37
2.1.2. Diễn ngôn về không gian trong phê bình sinh thái ............................... 39
2.2. Sự tương đồng giữa văn minh đô thị và người đàn ông .......................... 41
2.2.1. Sự tương đồng giữa hình ảnh kẻ ác và đô thị ....................................... 41
2.2.2. Sự tương đồng giữa sự suy biến của nông thôn/vùng hoang dã với sự sa

đọa của người đàn ông.................................................................................... 50
2.3. Sự tương đồng giữa người phụ nữ với thiên nhiên .................................. 59
2.3.1. Sự tàn phá thiên nhiên và bi kịch người phụ nữ ................................... 59
2.3.2. Thiên tính nữ và sự bao dung của thiên nhiên ...................................... 63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 75
CHƯƠNG 3: CHẤT LIỆU DÂN GIAN TRONG CỐT TRUYỆN CỦA ĐỨA
CON TRAI VÀ NGHI LỄ TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI ............ 76
3.1. Cốt truyện đơn huyền thoại ...................................................................... 76
3.1.1. Sự tái sinh cốt truyện đơn huyền thoại.................................................. 76
3.1.2. Sự cải biến, sáng tạo cốt truyện đơn huyền thoại ................................. 78
3.2. Sự lồng ghép truyền thuyết và thần thoại ................................................ 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bên cạnh một số khuynh hướng nghiên cứu văn học đã và đang được
quan tâm trong thời gian qua như: phê bình phân tâm học, phê bình ký hiệu
học, nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa, nghiên cứu văn học từ bình
diện xã hội học… hiện nay, các nhà nghiên cứu cũng không ngừng tìm tòi
những cách tiếp cận mới nhằm chiếm lĩnh một cách tối ưu những vỉa tầng giá
trị ẩn chứa trong các tác phẩm văn học. Một trong những cách tiếp cận ấy là
khuynh hướng nghiên cứu văn học dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Bởi lẽ,

chưa bao giờ con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái như hiện nay.
Cùng với các vấn đề nóng của thế giới hiện đại (quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hóa, nạn phân biệt chủng tộc, sự dịch chuyển dân cư, chiến tranh…), môi
trường cũng đang là vấn đề nóng bỏng được người dân trên toàn cầu đặc biệt
quan tâm. Nhân loại sửng sốt bởi chưa bao giờ phải đối mặt với những thảm
họa nặng nề từ môi trường đến thế. Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống,
do vậy ngày càng có nhiều văn nghệ sĩ đưa những vấn đề liên quan tới môi
trường vào trong tác phẩm của mình với mong muốn thay đổi nhận thức, thức
tỉnh hành động của con người trước các vấn đề liên quan đến thảm họa môi
trường và biến đổi khí hậu.
Theo tác giả Cheryll Glotfelty: “Bản chất của phê bình sinh thái là nghiên
cứu mối quan hệ giữa văn học với môi trường tự nhiên”. Trào lưu này được
khởi phát từ Anh – Mĩ và trở thành một trào lưu năng động, thu hút sự quan tâm
của không chỉ các nhà nghiên cứu phương Tây mà còn cả các quốc gia ở Châu Á
(trong đó có Việt Nam). Sống ở một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với
những đổi thay lớn lao của môi trường, các nhà văn Việt Nam cũng không tránh
được những xúc cảm trắc ẩn, suy tư khi nghĩ về môi trường và sự sống. Đây là lý
do hình thành khuynh hướng tìm về biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




2

nhiên trong lối tư duy sinh thái. Lối tư duy này được các tác giả sử dụng khi nhìn
nhận, phân tích và thể hiện những nỗi đau môi trường, số phận con người trong
cuộc khủng hoảng môi sinh cũng như hướng con người sống có trách nhiệm với
thiên nhiên, cân bằng trong cuộc sống trong các tác phẩm văn học giàu giá trị…
1.2. Nếu như văn học là tấm gương phản ánh đời sống thì văn hoá lại được

coi là tấm gương nhân loại. Bởi đặc trưng tâm hồn, tính cách của mỗi quốc gia,
dân tộc đều được in dấu trong các khía cạnh vănhóa. Dù ở lãnh thổ nào, phương
Tây hay phương Đông, khi xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của quốc gia càng có ý nghĩa cấp thiết. Không
ai có thể phủ nhận việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc có liên quan mật
thiết tới sự tồn tại và phát triển của một dân tộc nói riêng và của một quốc gia
nói chung. Đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc thì nền văn học của dân tộc đó
cũng không thể tồn tại. Vì vậy, một trong những tiêu chí quan trọng để xác định
giá trị của tác phẩm văn học đó chính là bản sắc dân tộc của nó.
1.3. Như đã phân tích ở trên, môi trường sinh thái có sự chi phối trực tiếp
và lâu dài đến sự sống của toàn nhân loại. Đó là lý do mà các nhà văn tuy sống
ở những nền văn hóa khác nhau, vùng lãnh thổ cách xa nhau nhưng vẫn có thể
gặp gỡ nhau trong quan điểm và cách nhìn về những vấn đề nhân bản có tính
chất thời đại. Đây cũng là lý do chúng tôi lựa chọn so sánh tác phẩm Đứa con
trai của Hà Thị Cẩm Anh và Nghi lễ của Leslie M. Silko dưới góc nhìn phê
bình sinh thái nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong hai khía
cạnh nổi bật đó là: cách nhìn nhận và thể hiện không gian, kết cấu cốt truyện
để thể hiện những triết lý sinh thái mà mỗi nhà văn muốn gửi gắm trong tác
phẩm của mình. Có thể nói, Hà Thị Cẩm Anh tuy là nhà văn thuộc thế hệ sau
nhưng đã mang một phong cách sáng tác rất riêng, đậm hương sắc Mường. Tác
phẩm Đứa con trai là một trong những truyện ngắn tái hiện không gian sinh
thái núi rừng của người Mường cùng những quan niệm nhân sinh về môi trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




3

sinh thái được gửi gắm kín đáo trên từng trang viết. Còn Leslie Marmon Silko

– nhà văn Mỹ gốc da đỏ lại lấy phong cảnh tuyệt đẹp của quê hương New
Mexico làm bối cảnh cho tiểu thuyết Nghi lễ (Ceremony) – một tác phẩm mê
hoặc được đông đảo bạn đọc và được giới phê bình đánh giá rất cao. Nghi lễ
là một cuốn “tiểu thuyết đầy nhạc tính” được cấu trúc trên nền các nghi thức
chữa bệnh của người Da đỏ. Nó cũng ẩn chứa trong mình những hình ảnh về
không gian sinh tồn của cộng đồng người Da đỏ cùng những triết lý sâu xa của
tác giả cũng như cộng đồng này với vấn đề môi trường sinh thái nói trên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về sự nghiệp của Hà Thị Cẩm Anh và tác phẩm “Đứa
con trai”
Hà Thị Cẩm Anh là một nhà văn Việt Nam đương đại và là một nhà văn
nữ dân tộc thiểu số tiêu biểu với nhiều tác phẩm được giải thưởng văn học. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về tác phẩm của bà chưa nhiều kể cả về số lượng và chiều
sâu nội dung.
Trong một số bài viết đăng trong lời tựa Khi đá cũng được giải oan, hay
tập truyện ngắn Nước mắt của đá, Lã Thanh Tùng nhận xét: những niềm vui và
nỗi đau cũng mang nét riêng biệt trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh. Tác giả
viết: “Trên tay các bạn đang là máu thịt chị, bảy truyện ngắn tròn trịa, ấm nóng,
bảy tiếng thở dài và bảy bài ca u buồn…Bảy truyện ngắn trong tập Nước mắt
của đá giống như bảy chú lùn siêng năng kết đoàn cùng xây đắp một tổ ấm ngăn
nắp mời gọi, để mỗi độc giả khi lạc vào có thể tự mình thể nghiệm một vai
Bạch Tuyết ê chề mà hạnh phúc” [4].
Tác giả Hoả Diệu Thuý đã nhận xét: “Quả là tình yêu đối với văn chương
của cô thôn nữ này rất lớn. Tình yêu đã dẫn đường cho chị. Tình yêu đã khiến
chị nỗ lực. Và chị đã rất nỗ lực để trở thành một nhà văn như bây giờ” [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





4

Nguyên Tĩnh trong bài “Hà Thị Cẩm Anh và thung lũng Si Dồ” nhận định
rằng: “Có một thung lũng Sì Dồ trong tác phẩm của Hà Thị Cẩm Anh đang rõ
nét được khắc họa. Nó là hình bóng quê nhà bản Mường mà nhà văn gửi gắm.
Là những câu chuyện của trai Mường yêu gái Mường gặp bao trắc trở phản bội
nhưng vượt lên số phận để có tình yêu hồn hậu thủy chung của người Mường.
Hà Thị Cẩm Anh đã có thung lũng Sì Dổ trong tác phẩm của mình đó là quê
hương không có ở ngoài đời” [57]. Nguyên Tĩnh đã chỉ ra “cái Mường trong
văn học” rất riêng của Hà Thị Cẩm Anh. Ông cho rằng Hà Thị Cẩm Anh rời
quê hương Cẩm Sơn của mình từ khá sớm nhưng cái sợi dây nối kết con
người và văn hoá cội nguồn truyền thống giữa nhà văn với quê hương chưa
bao giờ đứt. Theo tác giả, chính vốn sống phong phú của nữ nhà văn đã khiến
cho những câu chuyện của bà đậm chất văn hoá Mường mà không hề gượng
ép, khiên cưỡng.
Khi đọc tập truyện ngắn Một nửa người đàn bà của Hà Thị Cẩm Anh, Thy
Lan đã nhận xét :“Văn chương chị trong trẻo, tự nhiên như nước suối, lại phong
phú mượt mà như lá rừng, dung dị như nhà sàn, bếp lửa, đôi khi cũng dữ dội
như suối dâng, thác đổ và trần trụi, hoang dã như cây cổ thụ ngàn năm. Đọc
truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh ta có được cái say của hương rượu cần, ta nhìn
thấy cái bảng lảng của gió thổi, mây bay, cái trùng điệp và vững trãi của núi
cao, rừng rậm” [29]: “Chín truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh trong tập Một
nửa của người đàn bà là chín cung bậc tình yêu núi rừng, yêu con người. Nhà
văn đã phóng bút bằng tâm hồn, ký ức và trải nhiệm” [29].
Nghiên cứu về phong cách của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh, tác giả Đỗ Đức
trong lời tựa Đọc truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh viết cho tập truyện Bài xường
ru từ núi đã nhận xét: “Chị viết dữ dội, không mập mờ và luôn rạch ròi giữa
thiện và ác. Thái độ của chị là thẳng băng rõ ràng. Trong truyện ngắn của chị,
cái ác không ít lần thắng thế, nhưng chỉ là thắng thế nhất thời. Cái thiện nhỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





5

nhoi nhiều khi bị lép vế, bị bóp nghẹt nhưng cái thiện luôn là mầm sống bất
diệt”[2].
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong bài viết “Văn học hiện đại dân tộc
Mường: những khuôn mặt” đã khẳng định sức sáng tạo bất ngờ và mạnh mẽ,
dữ dội của Hà Thị Cẩm Anh như sau: “Năm 1998, Hà Thị Cẩm Anh cầm bút
trở lại và lần này thì quyết liệt. Có ai ngờ người phụ nữ đã bước vào tuổi “lục
thập hoa giáp” lại có một trận maratông trong văn chương và gây bất ngờ như
vậy. Những gì chất chứa trong con người chị đã bung như nham thạch núi lửa
tuôn trào. Chị viết liên tục, sôi động và trầm lắng những gì đã quan sát, trải
nghiệm, để những Đêm Khua Luống dành cho người chết, Ngôi nhà sàn cũ kĩ,
Gốc gội xù xì…để lại nhiều dư ba trong bạn đọc” [19].
Trong bài viết “Nhìn ra được mất - nhận xét về tập truyện Một nửa của
người đàn bà”, Trọng Miễn cũng có những nhận định chính xác về giọng văn
của Hà Thị Cẩm Anh: “Văn của Hà Thị Cẩm Anh thấm đẫm hồn cốt của người
Mường…Phải là người hiểu văn hoá Mường, yêu quý văn hoá Mường mới viết
được như thế” [5; 8]. Hoả Diệu Thuý trong bài viết “Hà Thị Cẩm Anh với những
chuyện ở thung lũng Si Dồ” đã nhận định: “Người con của xứ sở mụ Dạ Dần
của ậu mo, 5 của Xường của Rang cũng đã gánh vác sứ mệnh mà tổ tiên và cội
nguồn giao phó. Đó là phô diễn vẻ đẹp của sức sống quê hương bằng những tác
phẩm văn chương”.
Trong luận án Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi (2010),
Phạm Duy Nghĩa đã có những đánh giá về Hà Thị Cẩm Anh từ một khía cạnh
nội dung cụ thể đó là thông điệp bảo vệ thiên nhiên trong các sáng tác của bà:
“Trong văn xuôi miền núi, cùng với Nguyễn Huy Thiệp, La Quán Miên và

Hoàng Thế Sinh, Hà Thị Cẩm Anh là cây bút có ý thức tuyên ngôn về mối quan
hệ hoà hợp con người - tự nhiên và đặt ra vấn đề bảo vệ thiên nhiên một cách
rõ ràng, kiên quyết. Truyện ngắn của nhà văn dân tộc Mường này có môtíp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6

Con người đến với thiên nhiên để tìm một chỗ dựa tinh thần khi bản thân bị
cộng đồng xa lánh, hắt hủi và khi đó họ trở thành người tình nguyện bảo vệ
thiên nhiên” [36; 94].
Đề tài cấp Bộ Bản sắc dân tộc trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc
thiểu số và sau này phát triển thành cuốn sách Bản sắc văn hóa dân tộc trong
văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số (2014) do tác giả Đào Thủy Nguyên
(chủ biên) là công trình công phu và có nhiều ý nghĩa. Cuốn sách đề cập một
cách hệ thống về các vấn đề lí luận, lý thuyết cơ bản làm cơ sở khoa học cho
công trình nghiên cứu rồi từ đó đi đến việc nghiên cứu sự thể hiện bản sắc văn
hóa tộc người trong các tác phẩm văn xuôi dân tộc thiểu số ở phương diện nội
dung và nghệ thuật. Trong sách, nhóm tác giả đã đề cập đến những tên tuổi
quen thuộc đã làm nên diện mạo của văn xuôi dân tộc thiểu số trong đó có nhà
văn Hà Thị Cẩm Anh.
Tuyển tập Văn xuôi Hà Thị Cẩm Anh do tác giả Trần Thị Việt Trung và
Hà Thị Cẩm Anh biên soạn cũng được coi là một công trình công phu tập hợp
các tác phẩm và phê bình về tác phẩm của Hà Thị Cẩm Anh. Cuốn sách gồm 2
phần: phần I là tuyển tập các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh; phần II là những
ý kiến, đánh giá, phê bình về sáng tác của bà. Cuốn sách tập trung giới thiệu
những sáng tác văn xuôi của Hà Thị Cẩm Anh, đó là những sáng tác mang đậm
bản sắc Mường. Trong tác phẩm, bản sắc Mường được nhà văn thể hiện ở ba

mạch nguồn cảm hứng cơ bản: (1). Con người mang đặc trưng tâm hồn, tính
cách dân tộc Mường (đặc biệt là qua hình tượng nhân vật người phụ nữ
Mường); (2). Những phong tục, tập quán truyền thống mang đậm bản sắc văn
hóa Mường; (3). Thiên nhiên tươi đẹp mang đặc trưng vùng miền.
Luận văn Bản sắc văn hóa Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
của tác giả Nguyễn Thị Bích Dậu đã tiến hành khảo sát 7 tập truyện của Hà Thị
Cẩm Anh từ đó phân tích làm rõ những nét đặc sắc của văn hoá Mường trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




7

sáng tác của bà ở các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Chẳng
hạn, luận văn đã chỉ ra các khía cạnh của phương diện nội dung (cảm hứng về
con người, phong tục tập quán, thiên nhiên mang đặc trưng, tính cách dân tộc
Mường), phương diện nghệ thuật (cốt truyện, yếu tố ngoài cốt truyện, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật ngôn từ). Nguyễn Thị Bích Dậu đã nhận
xét: “Có thể nói các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đậm đà bản sắc văn hoá
Mường. Những trang viết của nhà văn chan chứa nỗi niềm đối với mảnh đất
quê hương. Tuy bây giờ Hà Thị Cẩm Anh đã sống ở thành phố nhưng mảnh đất
xứ Mường vẫn gắn bó máu thịt với nhà văn. Hình bóng của quê hương bản
Mường in dấu trong tuổi thơ của tác giả ngày nào vẫn hiện lên tươi nguyên chất
sống. Phải nặng tình với quê hương sâu sắc đến mức nào thì trang viết của nhà
văn mới đằm sâu tình cảm đến thế khi viết về cuộc sống, con người và thiên
nhiên xứ Mường Thanh Hoá” [9; 25]. Luận văn là công trình nghiên cứu đầu
tiên có tính chất hệ thống toàn diện và khái quát sâu sắc về vấn đề bản sắc văn
hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh. Kết quả nghiên cứu đã góp
phần khẳng định những nét riêng trong cách khám phá và thể hiện bản sắc văn

hoá dân tộc của nhà văn so với nhiều nhà văn dân tộc thiểu số khác cũng như
vị trí của nữ nhà văn trong nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Hầu hết những tác giả nghiên cứu về Hà Thị Cẩm Anh đều có một quan
điểm trùng hợp đó là họ đều nhận ra chất văn hoá Mường rất riêng và một sức
hút diệu kì trong trang văn của bà. Đọc những truyện ngắn của Hà Thị Cẩm
Anh, những ai chưa từng đặt chân đến mảnh đất của xứ sở người Mường đều ít
nhiều hiểu được cuộc sống và phong tục của con người nơi đây. Chính vì có
một tình yêu máu thịt với quê hương mà những trang viết của bà đậm đà bản
sắc dân tộc đến thế. Nhìn chung các ý kiến nghiên cứu đều khẳng định vị trí
của nữ nhà văn Hà Thị Cẩm Anh - nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu, có những
đóng góp đối với nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Giá trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




8

nổi bật làm nên dấu ấn Hà Thị Cẩm Anh đó là chất văn hoá Mường rất riêng sức hút diệu kì trong những trang văn của bà.
2.2. Những nghiên cứu về tác phẩm của Leslie M. Silko và Nghi lễ
Ở Việt Nam, có rất ít nghiên cứu về tác phẩm của Leslie M. Silko nói
chung và tác phẩm Nghi lễ nói riêng. Qua tìm hiểu, tác giả luận văn xin được
điểm qua một số nghiên cứu về vấn đề này như sau:
Trần Hữu Thục trong bài viết Nhìn qua một số nền văn học da màu ở
Hoa Kỳ: Văn chương thổ dân có đề cập đến một số sáng tác và đóng góp của
nhà văn Leslie M. Silko trong nền văn học da màu ở Mỹ. Điều này cũng được
thể hiện trong bài viết “Văn xuôi Mỹ từ 1845: Chủ nghĩa hiện thực và sự thể
nghiệm” của tác giả [63].
Bài viết Chủ nghĩa hiện thực trong văn chương Mỹ đương đại cũng đưa
ra một số nhận định khẳng định giá trị nội dung cũng như sức ảnh hưởng của

tác phẩm Nghi lễ trong dòng chảy văn chương Mỹ đương đại: "một đất nước
mà sự kì thị và phân biệt chủng tộc lớn như Mỹ, nhưng văn chương của các tộc
người thiểu số Da đen, Da đỏ vẫn có đất để tồn tại và phát triển là một điều hết
sức ngạc nhiên. Không những thế nó còn là nguồn lực quí báu bổ sung vào sự
phong phú đa dạng vốn có của dòng văn học hiện thực Mỹ đương đại. Nghi lễ
(Ceremony) là cuốn tiểu thuyết viết về người Mỹ Da đỏ của nữ nhà văn Da đỏ
Leslie Marmon Silko đã được giới phê bình đánh giá rất cao và đã được dịch
ra tiếng Việt” [79].
Dịch giả Linh Thụy trong bài giới thiệu của cho cuốn Lễ hội mặt trời (một
cách dịch khác tên tác phẩm Nghi lễ) cũng đã khái quát một số giá trị tư tưởng,
hình thức của tác phẩm này như: nhân sinh quan lành mạnh, đầy nhân văn của
người da đỏ thể hiện trong mối quan hệ với tự nhiên, với cái ác và giữa con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




9

người với nhau; nghệ thuật tả cảnh xuất sắc, nghệ thuật phân tích tâm lý nhân
vật tinh tế, nghệ thuật phối hợp tài tình giữa thơ và văn [48].
Cuốn Phác thảo Văn học Mỹ của tác giả Kathryn Vanspanckeren do Lê
Đình Sinh và Hồng Chương dịch đã ca ngợi “chất thơ” và tính nhạc của cuốn
tiểu thuyết cũng như chỉ ra nghi lễ là một nhân tố cấu trúc tác phẩm. Tác giả
cũng đã đưa ra nhận định về phong cách của Leslie Marmon Silko đó là: “Leslie
Marmon Silko có một phần gốc gác là bộ lạc Laguna. Bà ưa sử dụng ngôn ngữ
nói và những câu chuyện truyền thống để sáng tác những bài thơ trữ tình, có
sức ám ảnh khó quên” [72].
Trong bài giới thiệu cuốn Văn xuôi hư cấu Mỹ hậu hiện đại – Tuyển tập

của Norton (Postmodern American Fiction: A Norton Anthology) của Paula
Geyh, Fred G. Leebron và Andrew Levy, Phan Tấn Hải nhiều lần dẫn chứng
tiểu thuyết Nghi lễ như một tác phẩm hậu hiện đại Mỹ đặc thù và chỉ ra một
đặc điểm cấu trúc của tiểu thuyết này: “Văn chương hậu hiện đại Mỹ ảnh hưởng
từ các nền văn hóa hợp chủng, bên cạnh các quan tâm về bút pháp phi truyền
thống… Khi văn hóa Mỹ càng trở nên phân mảnh hơn, văn chương của nó càng
thêm đa dạng… Cuốn Ceremony của Silko kết hợp hình thức của một cuốn tiểu
thuyết với hình thức của một bài ca Laguna Pueblo” [12; 9]. Các tác giả cuốn
tuyển tập cũng khẳng định sự phối kết những chất liệu và kĩ thuật kể chuyện
truyền thống và hiện đại, châu Âu và văn hóa ngoài châu Âu là nét đặc sắc của
dòng văn học mới mẻ này.
Trong luận văn Kết cấu tiểu thuyết Pháp lễ của Leslie Marmon Silko,
tác giả Bùi Linh Huệ đã có những đánh giá và nhận định về vị trí cũng như
phong cách sáng tác của nữ tác giả này như sau: “Leslie M. Silko (1948 - ) được
coi là một trong những người tiên phong mở ra một thời kỳ “Phục hưng” cho
văn học của cộng đồng mình – nền văn học dưới những áp lực của văn minh
châu Âu trên đất Mỹ đã bị lãng quên và cớm nắng” [27; 1]. Trong luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




10

này, tác giả Bùi Linh Huệ đã phân tích nghệ thuật kết cấu tiểu thuyết này để chỉ
ra sự tiếp thu và sáng tạo từ sự kết hợp truyền thống văn hóa, văn học Mỹ da
đỏ và châu Âu. Qua đó, luận văn góp phần hình dung thế giới sống động của
văn học đa văn hóa hiện đại – muôn màu sắc và đầy nhựa sống. Đây cũng là
những gợi dẫn cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Cũng trong
luận văn này, tác giả Bùi Linh Huệ đã có công trong việc hệ thống hóa một số

nghiên cứu khác (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) về tác giả L. M. Silko và tiểu
thuyết Pháp lễ - một trong những tác phẩm rất nổi tiếng của nữ nhà văn.
2.3. Những nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số từ góc nhìn phê bình
sinh thái
Phê bình sinh thái gần đây đã được giới thiệu và bước đầu ứng dụng vào nghiên
cứu văn học Việt Nam. Tuy nhiên, việc ứng dụng phương pháp phê bình này
vào nghiên cứu văn học thiểu số Việt Nam vẫn còn rất hạn chế.
Luận văn thạc sĩ Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư) (2012,
Đại học Sư phạm Hà Nội) của Đặng Thị Thái Hà là một trong những nghiên
cứu chuyên sâu đầu tiên ứng dụng phương pháp phê bình sinh thái vào nghiên
cứu văn học Việt Nam [14].
Luận án Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975
từ góc nhìn phê bình sinh thái (2015) của Trần Thị Ánh Nguyệt và sau này
được tác giả phát triển lên thành cuốn sách Con người và tự nhiên trong văn
xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (2018) đã hệ thống
hóa khuynh hướng và phương pháp phê bình sinh thái cũng như diện mạo sự
thể hiện vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam. Công trình tuy có đề cập tới
một số nhà văn dân tộc thiểu số nhưng mới mở mức độ giới thiệu mà chưa có
sự phân tích sâu sắc về tác phẩm của các nhà văn này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




11

Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu văn học
dân tộc thiểu số Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái. Một trong những

công trình ít ỏi đó là luận văn thạc sĩ Tiểu thuyết Vi Hồng từ góc nhìn phê bình
sinh thái. Luận văn này đã phân tích sự thể hiện sinh thái tự nhiên và sinh thái
nhân văn trong tiểu thuyết Vi Hồng cũng như những thủ pháp nghệ thuật góp
phần thể hiện triết lí sinh thái trong tiểu thuyết của ông.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào có tính hệ thống về văn
xuôi của Hà Thị Cẩm Anh từ góc nhìn phê bình sinh thái nói chung và so sánh
tác phẩm Đứa con trai của bà với tác phẩm Nghi lễ của Leslie Marmon Silko
từ góc nhìn này. Đây là một trong những lý do để chúng tôi quyết định lựa chọn
đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Băn khoăn với câu hỏi: “Liệu các nhà văn dân tộc thiểu số, đặc biệt là các nhà
văn nữ người dân tộc thiểu số trên thế giới có găp gỡ nhau trong cách nhìn tự
nhiên và cũng như trong cách thể hiện vấn đề đó?”, chúng tôi đã lựa chọn so
sánh một tác phẩm tiêu biểu của Hà Thị Cẩm Anh và Leslie Silko là Đứa con
trai và Nghi lễ. Luận văn của chúng tôi sẽ làm rõ ảnh hưởng của văn hóa dân
tộc thiểu số và thiên tính nữ tới cách nhìn nhận và thể hiện vấn đề mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong hai tác phẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát hai tác phẩm Đứa con trai của Hà Thị Cẩm Anh và Nghi lễ của
Leslie M. Silko từ đó vận dung phương pháp phê bình sinh thái để tiến hành so
sánh, phân tích sự giống và khác nhau trong cách quan niệm và thể hiện vấn đề
sinh thái trong hai tác phẩm.
- Khẳng định giá trị của hai tác phẩm cũng như vị trí của hai nhà văn trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




12


dòng chảy văn học của mỗi dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác phẩm Đứa con trai của Hà Thị Cẩm Anh và Nghi lễ của Leslie
M.Silko từ góc nhìn phê bình sinh thái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát 2 bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái được thể hiện
trong hai tác phẩm Đứa con trai của Hà Thị Cẩm Anh và Nghi lễ của Leslie
M.Silko: Đó là sự tổ chức không gian và sử dụng chất liệu dân gian trong cốt
truyện trong hai tác phẩm này từ góc nhìn của phê bình sinh thái.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu diễn ngôn: Từ góc nhìn văn bản văn học là
những diễn ngôn, chúng tôi nghiên cứu hai tác phẩm Đứa con trai của Hà Thị
Cẩm Anh và Nghi lễ của Leslie M.Silko trong bối cảnh văn hóa, chính trị và
đặc biệt là cuộc khủng hoảng sinh thái và bản sắc văn hóa mà tác phẩm ra đời.
- Phương pháp phê bình sinh thái: Tác giả luận văn sử dụng phương pháp
này để chỉ ra cái nhìn sinh thái đã chi phối cách hai nhà văn tổ chức không gian,
cốt truyện và các yếu tố kì ảo như thế nào. Từ đó, luận văn đưa ra những nhận
định về giá trị của tác phẩm từ góc nhìn phê bình sinh thái.
- Phương pháp của văn học so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để
so sánh những điểm tương đồng và khác biệt về sự tổ chức không gian và sử
dụng chất liệu dân gian trong cốt truyện và các yếu tố kỳ ảo được thể hiện thông
qua hai tác Đứa con trai của Hà Thị Cẩm Anh và Nghi lễ của Leslie M.Silko.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để đạt được được mục đích
nghiên cứu, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





13

kết hợp góc nhìn của các lĩnh vực văn học, xã hội học, lịch sử, địa lý,văn hóa
học để soi chiếu hai tác phẩm.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Tổng thuật các nghiên cứu về phê bình sinh thái và triển vọng ứng dụng
phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học thiểu số Việt Nam.
- Phân tích không gian, cốt truyện từ góc độ diễn ngôn và phê bình sinh thái
- Chỉ ra sự gặp gỡ và khác biệt của hai nhà văn nữ dân tộc thiểu số thuộc
hai quốc gia khác nhau trong sự quan niệm và cách thể hiện vấn đề sinh thái
dưới ảnh hưởng văn hóa dân tộc trong bối cảnh đa văn hóa.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Không gian trong Đứa con trai và Nghi lễ từ góc nhìn phê bình sinh
thái
Chương 3: Chất liệu dân gian trong cốt truyện của Đứa con trai và Nghi lễ từ
góc nhìn phê bình sinh thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




14

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái lược về tác giả Hà Thị Cẩm Anh và Đứa con trai
1.1.1. Khái lược về tác giả Hà Thị Cẩm Anh
Hà Thị Cẩm Anh (tên thật là Hà Thị Ngọ) sinh ngày 10 tháng 10 năm
1948, Quê ở Cẩm Sơn, Cẩm Thủy, Thanh Hóa, bà là nữ nhà văn dân tộc
Mường cả cuộc đời gắn bó sâu nặng với quê hương xứ Mường yêu dấu. Bà
công tác tại Hội Văn học – Nghệ thuật Thanh Hoá, là hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam, hội viên Hội Văn học – Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Nữ nhà văn được biết đến như một cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học
DTTS Việt Nam thời kỳ Đổi mới với mười tập truyện ngắn và ký đã xuất
bản. Hà Thị Cẩm Anh thể hiện là người có năng khiếu sáng tác từ nhỏ. Tác
phẩm đầu tay - Thím Cò Khoai được ra đời khi nữ văn sĩ mới 13 tuổi. Sau
đó, bà đã theo học lớp Bổ túc văn hoá Công Nông và được giới thiệu đi học
khoá VI Trường Viết văn Nguyễn Du. Nhưng sau một thời gian, vì hoàn
cảnh quá khó khăn, bà không thể tiếp tục theo học nữa. Khi trở về quê nhà,
bà được giới thiệu vào Ban vận động thành lập Hội Văn nghệ Thanh Hoá và
trở thành một trong những hội viên tham gia sáng lập của Hội Văn học Nghệ
thuật Thanh Hoá.
Từ năm 2000 đến nay, khi công tác tại Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh
Thanh Hoá, Hà Thị Cẩm Anh cầm bút trở lại và đã cho ra đời nhiều tác phẩm
chứa đựng những nét đặc trưng hồn cốt của một cây bút Mường hiện đại. Bà
được đánh giá là một trong những gương mặt tiêu biểu của xứ Mường đã có
nhiều tác phẩm đề lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Với cảm hứng bất
tận về thiên nhiên, con người quê hương xứ Mường, bà không chỉ xuất bản sách
mà còn viết cả kịch bản điện ảnh. Có thể kể đến các tác phẩm chính của bà như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




15


Thím Cò khoai (tập truỵên ngắn, 1964); Người con gái Mường Biện (tập truyện
và ký, NXB Văn hoá dân tộc, 2002); Những đứa trẻ mồ côi (truyện dài, NXB
Kim Đồng, 2003); Bài xường ru từ trong hang núi (tập truyện ngắn, NXB Văn
hoá dân tộc, 2004); Nước mắt của đá (tập truyện ngắn, NXB Văn hoá dân tộc,
2005); Lão thần rừng nhỏ bé (truyện dài, NXB Kim Đồng, 2007); Mưa bụi (tập
truyện ngắn NXB Văn hoá dân tộc, 2008); Một nửa của người đàn bà (tuyển
tập truyện ngắn, NXB Văn hoá dân tộc, 2014); Chẫu chàng Cóc tía và Cư dân
xóm Bờ Ao (truyện thiếu nhi NXB Kim Đồng, 2014); Bình Minh Xanh (tập
truyện ngắn NXB QĐND, 2017).
Ngoài ra, bà còn viết các tác phẩm kịch bản điện ảnh như: Con đường dài
lắm (kịch bản phim truyện, đề tài thiếu nhi năm 2005); Bài xường ru từ trong
hang đá (kịch bản phim truyện nhựa - Cục điện ảnh Việt Nam đã sản xuất năm
2007); Huyền thoại Hàm rồng (kịch bản phim truyện nhựa, phát sóng ngày 4
tháng 4 năm 2015); Ngọc trạo mùa thu 1941 (kịch bản phim truyện nhựa, đề
tài chiến tranh về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ, sản xuất
năm 2017).
Các các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh thường đi sâu phản ánh cuộc sống
của con người xứ Mường Thanh Hoá. Bà không chỉ say sưa viết về vẻ đẹp văn
hoá truyền thống, về cảnh sắc thiên nhiên, về phong tục tập quán của dân tộc
mình bằng một tình yêu mãnh liệt, thẳm sâu “Tác giả vẫn đi về cùng quê hương,
quan sát lắng nghe, chia sẻ. Trái tim của tác gải thấp thỏm quặn thắt mỗi lần
chứng kiến một phong tục, một tập quán – một nét văn hoá của dân tộc mình
đang dần dần bị mai một, bị biến dạng đi” [5] mà khi viết về cuộc sống con
người nơi xứ Mường, bà còn kín đáo gửi gắm đó thái độ trân trọng, tấm lòng
yêu thương, cảm thông sâu sắc với từng hoàn cảnh, từng số phận của những
con người bất hạnh nhưng lúc nào cũng giàu nghị lực sống. Nhà văn viết nhiều
về hình tượng người phụ nữ Mường những người luôn phải chịu nhiều nỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





16

buồn, nỗi khổ đau cùng bao oan khuất trong cuộc đời; về những đứa trẻ sống
vất vưởng tuy ít tuổi nhưng đã phải lăn lộn với cuộc sống thậm chí trở thành
chỗ dựa cho mế khi mế của em bị bệnh... Các truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh
đi sâu khẳng định vẻ đẹp của lòng nhân ái, vị tha, đức hy sinh và tình đoàn kết
của đồng bào dân tộc Mường. Dường như chính những câu chuỵên cổ tích của
người Mường do người mẹ gieo vào tâm hồn từ thời thơ bé đã thấm sâu vào
máu thịt của nhà văn để mỗi trang viết của bà sau này luôn chứa chan niềm tin
vào những điều kì diệu trong cuộc sống như lời chia sẻ của chính tác giả: “Khi
các em tôi đã ngủ say. Mẹ bắt đầu dọn cho tôi một mâm cơm đầy và những
món ăn thịnh soạn mà mẹ biết tôi rất thích: Đó là những câu chuyện cổ tích có
hậu của bà” [3; ?],“Tôi tin tưởng vào cuộc sống này. Tôi tin tưởng vào bạn bè.
Tôi tin tưởng từ lẽ công bằng” [2; ?].
Truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh có lời văn tự nhiên giàu hình ảnh, giàu
chất thơ. Trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện và khắc hoạ nhân vật, nhà văn
vừa kể thừa những yếu tố truyền thống của văn học các dân tộc thiểu số (DTTS)
(sử dụng ngôn ngữ theo lối diễn đạt của dân tộc mình), vừa có sự bứt phá để
sáng tạo. Đó là trong cách xây dựng cốt truyện được sắp xếp theo lối kết cấu
thời gian đảo ngược, (kết thúc có hậu hoặc không có hậu). Nhiều truyện ngắn
dựa trên các tình huống xác thực nên cốt truyện của nhà văn thường rõ ràng và
lôi cuốn người đọc. Trong cách xây dựng nhân vật, sự phân cực giữa cái thiện
và cái ác cũng được coi là một nét đặc sắc trong truyện ngắn của bà bởi nó
chứng tỏ lối viết mạnh bạo, bản lĩnh, khai thác hiện thực ở cả hai mảng sáng –
tối, bộc lộ thẳng thắn quan điểm của chính nhà văn. Ngoài ra, cách xây dựng
nhân vật của bà cũng thể hiện sự ảnh hưởng của thi pháp xây dựng nhân vật
của các cây bút văn xuôi DTTS giai đoạn trước đổi mới ở chỗ: chú ý khắc hoạ

miêu tả nội tâm nhân vật vừa chân thực vừa sinh động vừa đa chiều. Trong cách
dựng truyện và xây dựng tình huống truyện, nhà văn Hà Thị Cẩm Anh cũng có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




17

những dấu ấn sáng tạo riêng. Đó là những tình huống truyện hấp dẫn, ly kỳ, lôi
cuốn người đọc với nhiều cảm xúc cung bậc khi đi theo tiến trình, diễn biến của
câu chuyện.
Đặc biệt, Hà Thị Cẩm Anh đã khẳng định phong cách riêng của mình qua
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ lấy chất liệu từ sử thi dân gian. Đó là việc sử dụng
các câu những câu thành ngữ, tục ngữ, những câu hát dân ca (xường), cách sử
dụng biện pháp tu từ so sánh, phóng đại và câu văn trùng điệp, sóng đôi trong
nghệ thuật sử thi. Chính cách sử dụng đầy sáng tạo và hiệu quả những nét đặc
trưng của ngôn ngữ dân tộc và cách tư duy, cách diễn đạt theo lối nói của dân
tộc mình đã giúp bà viết lên những trang văn đầy duyên dáng và hấp dẫn…
Hàng loạt giải thưởng của Trung ương và địa phương dưới đây đã khẳng
định vị trí của nữ nhà văn Hà Thị Cẩm Anh trong nền văn học các dân tộc thiểu
số hiện đại: Giải thưởng của Hội Nhà văn và Uỷ ban toàn quốc các Hội VHNT
Việt Nam. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2004- 2005, Giải B cuộc thi viết về môi trường: Qua thơ và truyện:
Hành tinh xanh mãi xanh do Hội Nhà văn Việt Nam cùng Báo Thiếu niên Tiền
Phong tổ chức năm 2001, Giải thưởng đặc biệt của UBTQ các hội Văn học –
nghệ thuật Việt Nam tặng cho tác giả là Hội viên Hội Văn học – nghệ thuật các
Dân tộc Thiểu số Việt Nam (đạt giải cao nhất – giải A) cho tập truyện ngắn
Một nửa người đàn bà, Giải B cuộc vận động Sáng tác và công bố các tác phẩm
Văn học – Nghệ thuật có tư tưởng và chất lượng cao về hai cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giai đoạn 1930 – 1975 do UBTQ các Hội
VH – NT Việt Nam phát động năm 2014 – 2015. Giải thưởng của Hội VHNT
các dân tộc thiểu số Việt Nam: Giải B năm 2000, Giải C năm 2002, Giải B năm
2003, Giải B năm 2004, Giải B năm 2005, Giải C năm 2007, Giải B năm 2008,
Giải A năm 2014. Giải thưởng của bộ ngành Trung ương: Giải C cho kịch bản
Phim truyện Tiếng hát 20 trong hang núi của Bộ Văn hoá thông tin, Giải B cuộc
thi viết về: “Sự hy sinh thầm lặng” của bộ Y tế, năm 2012, Giải B cuộc thi viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




18

về Giao thông vận tải của Bộ Giao thông vận tải, năm 2014. Giải thưởng của
Hội Văn học – Nghệ thuật & các ban ngành tỉnh Thanh Hoá: Giải thưởng 5
năm của UBND tỉnh Thanh Hoá về VHNT năm 2005, Giải thưởng Lê Thánh
Tông của Hội VHNT Thanh Hoá năm 2003, 2004, 2007, 2008...
Bằng ngòi bút sáng tạo đầy say mê, Hà Thị Cẩm Anh được đánh giá là
gương mặt nữ hiếm hoi, tiêu biểu của người dân tộc thiểu số trong làng văn
xuôi Việt Nam đương đại. Đặc biệt, bà là một trong những nhà văn dân tộc
Mường hiện đại đã có những khám phá độc đáo về hiện thực cuộc sống và con
người miền núi. Các truyện ngắn của bà được viết nên thật tự nhiên - như hơi
thở - như là chính cuộc sống vậy.
Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình nhà văn Hà Thị Cẩm Anh đã
để lại ấn tượng sâu sắc về không gian, thời gian, con người vùng đất xứ Mường,
để những chất men làm say lòng người cứ thể ngầm dần, ngấm dần vào những
ai đang bước vào nơi ấy. Với những dòng chữ, những câu văn giản dị nhưng
lại để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
1.1.2. Khái lược về truyện dài Đứa con trai

Đứa con trai là một truyện dài được sáng tác năm 2006, in trong tập
truyện ngắn Mưa bụi của Hà Thị Cẩm Anh, xuất bản năm 2008. Câu chuyện kể
về cuộc đời của cậu bé In. In là kết quả tình yêu giữa một chàng trai miền núi
nhưng lại say mê nghề thủy sản với một cô gái xinh đẹp, khỏe khoắn. Họ đến
với nhau, xây dựng cuộc sống sung túc, đủ đầy. Nhưng sự đời nghiệt ngã, việc
nhanh chóng thành công, chóng vánh trở nên giàu có đã biến bố In thành một
con người tha hóa, biến chất, bị những cám dỗ làm cho xa đọa. Ông lấy người
phụ nữ khác, mang theo tất cả tài sản và đẩy mẹ con In vào cuộc sống khốn
cùng, đau khổ. Mẹ In tuyệt vọng, đau đớn đến phát điên. Chứng kiến gia cảnh
chia lìa, gia đình khánh kiệt, bố bỏ đi, mẹ phát bệnh, cậu bé In nghỉ học, tìm
mọi cách kiếm sống để nuôi mẹ qua ngày. Ở Mường Dồ có Ông Gấu Ngựa- kẻ
luôn tỏ ra thương người, giúp người nhưng trong thâm tâm luôn mưu đồ lợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




19

dụng từ người già đến thanh niên, trẻ nhỏ ở Mường Dồ để thực hiện những mưu
đồ làm giàu bất chính của hắn. Tàn ác hơn, hắn thò mãi bàn tay như móng vuốt
để bóc lột sức lao động của người dân trong bản, để khai thác đến cạn kiệt
nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên sông suối, tài nguyên đất đai ở Mường Dồ.
Hắn không từ bất kỳ một thủ đoạn nào hòng bóc lột được nhiều nhất sức lao
động, khai thác được nhiều nhất nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hắn biết cậu bé
In khó khăn lại hiếu thảo nên đã đưa cho mẹ con cậu bé ít gạo, ít cá sau đó đe
dọa và bắt cậu phải làm theo yêu cầu của hắn. Cậu bé In không bằng lòng cung
cấp các thông tin về nơi trú ẩn của các muông thú, nơi ấn chứa nguồn khoáng
sản quý hiếm vì cậu yêu rừng, yêu muôn loài. Tuổi thơ của cậu, kỷ niệm của
cha mẹ cậu gắn với với vẻ đẹp của núi rừng nơi đây. Cậu hiểu rằng, rừng không

chỉ là nơi trú ngụ của muôn loài mà rừng còn là nơi nuôi sống con người, mất
rừng, mất sông là mất đi sự sống. Cậu bé In đã cố gắng gạt đi nỗi sợ hãi, cả
những cơn đói cồn cào cùng lòng thương mẹ đến quặn thắt để không tiết lộ
những tin “tốt lành” về rừng cho Ông Gấu Ngựa. Vượt qua những đau khổ và
thù hận, In và Mế đã quyết định ra đi để nhường lại căn nhà cho bố, Dì hai và
cô em gái cùng cha khác mẹ về sinh sống. Nhờ sự giúp đỡ của Bá chẻm Cao
mà Mế con In đã có những ngày yên ổn ở Rừng Pù Có. Kết thúc tác phẩm là
khung cảnh nghi lễ ăn mừng của bầy voọc chào đón sự ra đời của chú voọc con
và những xúc cảm nghẹn ngào của mẹ con In cũng như Bá chẻm Cao khi chứng
kiến khung cảnh ấy!
1.2. Khái lược về tác giả Leslie M. Silko và Nghi lễ
1.2.1. Khái lược về tác giả Leslie M. Silko
Leslie M. Silko (1948 -) sinh ra và lớn lên tại vùng đất Albuquerque, New
Mexico, miền Tây Nam nước Mỹ, vùng đất tự trị (reservation) mà chính phủ
Mỹ đã cắt cho các bộ lạc da đỏ còn sót lại của vùng này cư ngụ. Bà mang trong
mình cả dòng màu da đỏ Laguna, da nâu Mexico và da trắng. Dường như chính
điều đặc biệt này đã góp phần hình thành trong văn chương của bà cảm hứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×