Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.85 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN TỰ HIẾU

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬTHÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI - 2 01 9


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Tiến sỹ Đinh Thị Mai. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn
Thạc sĩ Luật học “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận Long Biên, thành
phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài trong cùng lĩnh
vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc, đảm bảo
độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

TRẦN TỰ HIẾU



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử


HTND

Hội thẩm nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

XXST

Xét xử sơ thẩm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chương 1 ............................................................................................................................ 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................. 5
1.1. Xét xử sơ thẩm hình sự - giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự .............................. 5
1.2. Nội dung và hình thức của xét xử sơ thẩm hình sự ...................................................... 9
1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm ........................................................................................... 12
1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về xét xử sơ thẩm hình sự và kinh
nghiệm cho Việt Nam ........................................................................................................ 16
Chương 2 ........................................................................................................................... 30
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HIỆN HÀNH VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI.............................................................................................................................. 30
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ... 30
2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội .......................... 51
Chương 3 ........................................................................................................................... 65
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ THẨM

HÌNH SỰ TẠI QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................ 65
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm hình sự tại quận Long Biên, thành
phố Hà Nội ......................................................................................................................... 65
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm ...................... 70
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm hình sự ....................................... 74
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự là giai đoạn trọng tâm trong giai đoạn
tố tụng và trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử thì sự
thật khách quan của vụ án sẽ được làm rõ, xác định một người có tội hay không có
tội và xác định các chế tài đối với người phạm tội. Ở giai đoạn này có thể nói là một
giai đoạn phức tạp, đa dạng bởi tính chất công việc xét xử liên quan đến vụ án để
đưa ra phán quyết cuối cùng đúng người, đúng tội của Tòa án. Đối với luật sư,
người bào chữa thì trong hoạt động xét xử thực hiện toàn bộ các quyền hợp pháp
nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của người được bào chữa, bảo vệ … bên cạnh đó đối
với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác thực hiện giai đoạn
xét xử được tốt làm góp phần làm cho vụ án được xét xử nhanh chóng, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của những người khác tham gia tố tụng. Nhận thức
rõ vai trò quan trọng của giai đoạn này Tòa án nhân dân các cấp, cơ quan tiến hành
tố tụng đã chú trọng hơn để đảm bảo việc xét xử được hiệu quả, đảm bảo công
bằng, dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội và bảo vệ tối cao quyền con người.
BLTTHS năm 2015 đã có những điểm mới bổ sung rõ ràng, chi tiết hơn so với
Bộ luật hình sự năm 2003. Đối với việc thực hiện giai đoạn xét xử của BLTTHS năm
2015 đã góp phần cho việc đảm bảo nguyên tắc: Chỉ những người thực hiện hành vi
phạm tội được quy định tại Bộ luật Hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đảm bảo thực hiện nguyên tắc: Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời,

xử lý nhanh chóng và khách quan theo đúng pháp luật với mục đích không bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Bên cạnh việc đảm bảo các
nguyên tắc được thực hiện thì tại địa bàn Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành
phố Hà Nội còn một số vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định
pháp luật của BLTTHS hiện hành, dẫn đến các hoạt động trong giai đoạn xét xử
chưa được tốt. Khi các hoạt động của giai đoạn xét xử chưa thực hiện tốt sẽ ảnh
hưởng đến việc ra phán quyết của Tòa án chưa đúng với bản chất vụ án. Trong một
số trường hợp bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội. Thực hiện một trong
các nhiệm vụ về cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta chú trọng đẩy
mạnh và theo Nghị quyết 08-NQ/ TW năm 2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW năm
2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020: “ đổi mới
việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn nhiệm vụ của người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai dân
chủ nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây
là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [8].

1


Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình xét xử vụ án hình
sự, đảm bảo quyền tối cao của con người, trên cơ sở thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội, tác giả chọn đề tài “Xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội” sẽ đóng góp phần
nào hoàn thiện quy định của pháp luật và giúp hạn chế được những vướng mắc khi
áp dụng luật trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đối với đề tài luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là vấn đề không phải
là mới, tương đối rộng và đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tác giả nghiên
cứu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan
đến giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gồm: Giáo trình Luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hình sự,
NXB Tư pháp, Hà Nội; Vũ Gia Lâm: “Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ
thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” Tạp chí Tòa
án nhân dân; Ths. Nguyễn Sỹ Thành: Xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015; Ths.Nguyễn Thị Thùy Trang: Chức
năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, năm 2018; … Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu liên quan khác
nghiên cứu phân tích đối với các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật hình sự có
liên quan mà tác giả không kể đến. Tuy nhiên, các công trình khoa học và bài viết
nêu trên đều có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn nhưng mới chỉ nghiên cứu
những vấn đề chung nhất về giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đối với công
trình nghiên cứu về hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Long Biên,
thành phố Hà Nội cũng đã có một số công trình nghiên cứu nhưng các công trình
nghiên cứu đó chưa thực sự đi vào một cách sâu sắc, đầy đủ và toàn diện về hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Vì vậy, luận văn này tác giả nêu rõ các vấn đề sâu sắc về lý luận chung, các
quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, và trên cơ sở số liệu cụ thể đưa ra thực trạng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tại địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Tác giả đánh giá về thực trạng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự ở địa bàn này về những cái làm được, chưa làm được, chỉ
ra những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế từ đó đưa ra các yêu cầu, đề xuất các
kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng trong công tác xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá về mặt lý luận, đánh giá từ thực tiễn thi hành các quy
định pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa bàn quận Long Biên, thành
phố Hà Nội, luận văn tập trung làm rõ các hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế trong áp dụng các quy định về xét xử sơ thẩm của TAND quận Long Biên.
Đồng thời, so sánh, đánh giá các quy định về xét xử sơ thẩm ở BLTTHS mới 2015,
đồng thời đưa ra một số yêu cầu, giải pháp cơ bản hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở địa bàn quận Long Biên nói riêng, góp
phần hoàn thiện các quy định pháp luật trong tố tụng hình sự nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên của luận văn, thì luận văn thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu, làm rõ và đánh giá những vấn đề lý luận chung về thủ tục xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự;
- Từ các số liệu cụ thể về xét xử vụ án hình sự tại địa bàn quận Long Biên, thành
phố Hà Nội, luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa
bàn này, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó. Đưa
ra các yêu cầu và kiến nghị giải pháp đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật về
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đảm bảo
giai đoạn xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, quy định pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và tình hình thực trạng,
thực tiễn thực hiện xét xử tại Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi là những vấn đề lý luận và pháp luật về
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong tố tụng hình sự hiện hành – Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015. Và luận văn nghiên cứu tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay, có sự giao thoa giữa hai BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

3


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Triết
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam
về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đề tài luận văn còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp diễn dịch, quy nạp, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp
thống kê số liệu thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn
diện về những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
quận Long Biên, thành phố Hà Nội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015. Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề lý luận và quy định pháp luật
về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn xác định những điều kiện cụ thể của từng trường
hợp áp dụng quy định của pháp luật đối với hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Từ
việc nghiên cứu thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội,
luận văn đưa ra đề xuất một số giải pháp về việc đào tạo cán bộ, thêm mới và sửa
đổi bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, áp dụng pháp luật trong thực tiễn ngày càng tốt hơn.
Luận văn còn có thể dùng là nguồn tài liệu tham khảo đối với một số hoạt
động nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng pháp luật, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực

pháp luật, sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thảm khảo, trang
phụ bìa, danh mục các bảng biểu, mục lục, nội dung luận văn có bố cục gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực
tiễn áp dụng tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm
hình sự tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Xét xử sơ thẩm hình sự - giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Một vụ án hình sự được giải quyết thì bắt buộc có một hệ thống cơ quan tư
pháp chặt chẽ, đầy đủ và mỗi cơ quan thực hiện một chức năng riêng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự đó. Các cơ quan đó gọi chung là cơ quan tiến hành tố tụng
trong vụ án. Tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 có quy định rõ “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án khác do luật định.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [20].
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ khách quan của vụ án Tòa án căn cứ vào
pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và từ đó đưa ra phán quyết được thể
hiện bằng các Bản án, quyết định có tính chất bắt buộc. Hay nói cách khác hoạt

động xét xử vụ án hình sự là hoạt động Tòa án nhân danh Nhà nước xem xét, đánh
giá và ra phán quyết đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự đã thực hiện trên
thực tế về tính hợp pháp, tính đúng đắn đối với các quy định pháp luật hình sự đã
quy định theo pháp luật TTHS [20].
Cơ quan Tòa án là nơi thể hiện tập trung nhất về quyền tư pháp, nơi mà chỉ
có cơ quan Tòa án nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để
đưa ra phán quyết cuối cùng, thể hiện quyền lực Nhà nước, phản ánh đầy đủ, sâu
sắc và khách quan bản chất của nền công lý. “ Bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [20].
Theo Từ điển Luật học: “xét xử” được nói khái quát là xem xét và xử các vụ
án (xét xử tội phạm, đưa vụ án ra xét xử, hội đồng xét xử) [41]. Về bản chất có thể
được hiểu xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm
đưa ra một phán xét về tính chất mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó cơ quan có thẩm
quyền nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ
trái hay không trái với quy định của pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án). Về
phương diện khoa học pháp lý thì xét xử vụ sơ thẩm vụ án được hiểu là việc lần đầu
tiên đưa vụ án ra xét xử tại Tòa án có thẩm quyền. Tòa án đưa ra phán quyết đối với
vụ án bằng bản án, quyết định và Bản án, quyết định có thể bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có

5


kháng cáo, kháng nghị đối với Bản án, quyết định thì Bản án, quyết định đó là cuối
cùng và có hiệu lực pháp luật.
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì thẩm
quyền của Tòa án là “xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật
[20] [21].

Tác giả Võ Thị Kim Oanh đưa ra định nghĩa XXST hình sự: “XXST hình sự
là hoạt động nhà nước do Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét,
đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra
bản án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội hay không? Người thực hiện
hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm
tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án hình sự” [14, tr.14]. Khái
niệm này của tác giả Võ Thị Kim Oanh đưa ra tương đối đầy đủ và bao hàm hết
những dấu hiệu cơ bản của XXST vụ án hình sự, theo quan điểm của tác giả cũng
ủng hộ quan điểm của tác giả Võ Thị Kim Oanh đưa ra.
Hoạt động xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án.
Tòa án là cơ quan duy nhất đảm nhiệm chức năng xét xử. Hiện nay pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam có hai cấp xét xử là XXST và xét xử phúc thẩm hình sự,
trong đó cấp XXST đóng vai trò quan trọng và trọng tâm trong hoạt động xét xử của
Tòa án. Trong giai đoạn XXST vụ án hình sự hiện nay thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Xuyên suốt quá trình tố tụng của một vụ án hình sự gồm các giai đoạn: khởi
tố, điều tra, truy tố, XXST và thi hành án.
Như vậy, từ những phân tích trên tác giả xin đưa ra định nghĩa: Xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Tòa án lần đầu
đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa, nhằm xem xét toàn bộ các tài liệu, chứng cứ của
vụ án để xác định có hay không có tội phạm hình sự xảy ra, một người có phải là tội
phạm hay không, để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất, mức độ
của hành vi phạm tội sau khi Viện kiểm sát đã truy tố.
1.1.1.2. Đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất: XXST vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự.
Quá trình tố tụng hình sự có nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn thực
hiện theo một trình tự, thủ tục và có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù riêng về chủ thể
thực hiện, hoạt động tố tụng và văn bản tố tụng riêng.
XXST được coi là một giai đoạn đặc biệt quan trọng, trong tâm của quá trình
tố tụng vụ án hình sự. Giai đoạn này là giai đoạn tiếp nối của giai đoạn điều tra và

sau khi VKS quyết định truy tố bằng bản cáo trạng. Có thể nói XXST là giai đoạn

6


tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền thực hiện
xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ án một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và lần đầu
tiên đưa vụ án ra xét xử công khai tại phiên tòa sơ thẩm để xác định có hay không
có tội phạm hình sự xảy ra, để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất
của vụ án mà VKS đã truy tố.
Với tư cách là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự thì XXST
có nhiệm vụ, chức năng riêng; thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định; chủ thể
thực hiện riêng và giai đoạn này kết thúc bằng văn bản tố tụng riêng.
Thứ hai: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một cấp xét xử
Cấp xét xử được hiểu là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử vụ án, phản ánh
vị trí hoạt động đặc trưng của Tòa án có thẩm quyền xét xử theo các trình tự, thủ tục
tố tụng luật định nhằm xem xét vụ án được đúng đắn, khách quan.
Một trong các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là chế độ XXST, phúc
thẩm được đảm bảo hay bao gồm hai cấp xét xử đó là XXST và xét xử phúc thẩm.
XXST phải tuân theo một trình tự, thủ tục luật định tại phiên tòa, Tòa án xem xét lại
toàn bộ các tài liệu chứng cứ của vụ án một cách khách quan, đầy đủ toàn diện và
đưa ra kết luận có tội phạm hình sự hay không, hình phạt áp dụng như thế nào?.
XXST là một cấp xét xử bởi vì trong quá trình xem xét Tòa án phải đảm bảo
các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử như: Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và
liên tục; không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật; đảm bảo nguyên tắc bào chữa đối với bị cáo; Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; đảm bảo sự có mặt của những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong vụ án.
Thứ ba: Chủ thể thực hiện là Tòa án có thẩm quyền
Trong giai đoạn XXST vụ án hình sự Tòa án nhân danh Nhà nước thực hiện

quyền tư pháp: Ở nước ta quyền lực Nhà nước được phân ra thành ba nhánh: lập
pháp, hành pháp, tư pháp và có sự phân công của các cơ quan trong việc thực hiện
ba nhánh quyền lực này. Quyền tư pháp thuộc về cơ quan Tòa án nhân dân hay Tòa
án là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự. Tòa án nhân
danh Nhà nước thực hiện xem xét, đánh giá toàn bộ vụ án để đưa ra bán án, quyết
định trước phiên tòa xác định một người có tội hay không có tội và áp dụng hình
phạt nào đối với người phạm tội [32].
Thứ tư: Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự diễn ra dưới hình thức phiên tòa.
Phiên tòa ở đây là tổng hợp các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục, nghi thức
phải tiến hành để xem xét vụ án hình sự. Bao gồm các thủ tục như: thủ tục bắt đầu
phiên tòa, thủ tục xét hỏi, thủ tục tranh luận, thủ tục bị cáo nói lời sau cùng, nghị án
và tuyên án. Các thủ tục này được tiền hành bởi người tiến hành tố tụng và người

7


tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định. Phiên tòa
được xét xử công khai (trừ những trường hợp ngoại lệ do luật định), là nơi thể hiện
quyền lực tư pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, và là nơi thể
hiện sự thật khách quan của vụ án.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bản chất của hoạt động xét xử vụ án hình sự được hiểu là hoạt động áp dụng
pháp luật của Tòa án. Cũng như các hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan khác,
hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật có tính sáng tạo của Tòa án, thể
hiện qua việc nhận thức, hiểu biết, đánh giá đúng đắn các tình tiết của vụ án trên cơ
sở các chứng cứ đã được thu thập theo trình tự luật định, từ đó Tòa án lựa chọn
những quy định pháp luật phù hợp để áp dụng [15, tr.35].
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và quan trọng
nhất của hoạt động tố tụng hình sự, XXST có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng
mang tính chất quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan,

nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của con người, đảm bảo các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật của
công dân và có vai trò nhằm giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của công dân. Vai trò
và ý nghĩa của xét xử vụ án hình sự được biểu hiện như sau:
Thứ nhất: Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm thì những người tham gia tố tụng có quyền bình đẳng
với nhau về quyền và nghĩa vụ: trong việc xuất trình chứng cứ, tranh luận và đưa ra
các yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng, đề nghị thay đổi những người tiến hành
tố tụng, yêu cầu triệu tập thêm người tham gia tố tụng; được trực tiếp nghe lời khai,
lời trình bày của những người tham gia tố tụng khác, tự mình hoặc nhờ người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Thông qua việc xét xử và đặc biệt trong giai đoạn xét hỏi, tranh luận công khai
tại phiên tòa cũng như việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội sẽ góp phần giáo
dục người phạm tội nói riêng và tuyên truyền, giáo dục công dân nói chung về các quy
định pháp luật cũng như quan điểm, chính sách hình sự của Nhà nước đối với người
phạm tội để tránh trường hợp vi phạm pháp luật. Góp phần nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của công dân trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Qua xét xử
công khai tại phiên tòa cũng một mặt thể hiện quyền giám sát của nhân dân đối với
việc thực hiện pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, một mặt cũng thể hiện chính
sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta đối với tội phạm.
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, XXST vụ án hình sự là một giai đoạn tố
tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập

8


trung về năng lực chuyên môn cao, để xử lý mọi tình huống một cách nhanh chóng,
đúng quy định pháp luật, các lý lẽ đưa ra đòi hỏi mang tính chính xác, thuyết phục. Đối
với giai đoạn này cũng đánh giá được về trình độ nghiệp vụ, năng lực của cán bộ trong

cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, luật sư tham gia bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác. Cũng qua phiên tòa XXST góp phần nâng cao, bồi dưỡng
trình độ, nghiệp vụ của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, kỹ năng hành
nghề của Luật sư.
Thứ hai: Đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết có trong vụ án để
đưa ra quyết định cuối cùng.
Xét xử hình sự là chức năng quan trọng của Tòa án nói riêng và toàn bộ quá
trình tố tụng hình sự nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định
của pháp luật để kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các cơ quan tiến
hành tố tụng khác bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trước đó đã thông qua
khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án. Để mục đích nhằm loại trừ những sai lầm
hoặc có sự lạm dụng đã bị bỏ lọt của các cơ quan tiến hành tố tụng này ở các giai
đoạn trước đó, làm cơ sở để đưa vụ án hình sự ra xét xử đúng người, đúng tội, đúng
quy định pháp luật.
Bằng việc XXST vụ án hình sự (trường hợp bán án, quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật, bị kháng cáo, kháng nghị) thì thông qua quá trình, kết quả tranh tụng
tại phiên tòa của các bên những người tham gia phiên tòa, Tòa án với chức năng là
cơ quan kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ để đưa ra nhận định chính xác bản chất của vụ án có
hay không có tội phạm xảy ra, để nhằm mục đích cuối cùng đưa ra bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật một cách công minh, đúng pháp luật, đúng người, đúng
tội tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Việc nâng cao hiệu quả XXST hình sự với kết quả bằng bản án, quyết định
khách quan, chính xác, toàn diện có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể
mà còn tạo được lòng tin trong nhân dân, làm giảm tỷ lệ án sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần tiết kiệm được
thời gian, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân, nâng cao uy tín của ngành Tòa án.
1.2. Nội dung và hình thức của xét xử sơ thẩm hình sự
1.2.1. Nội dung của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hoạt động XXST vụ án hình sự về bản chất là hoạt động áp dụng pháp luật

của Tòa án vào một vụ án hình sự cụ thể. Vì vậy hoạt động XXST vụ án hình sự có
những nội dung sau:
Thứ nhất: Chứng minh các vấn đề, tình tiết có trong vụ án: Trong giải quyết
vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nhiệm vụ xác định sự

9


thật khách quan của vụ án và các vấn đề có liên quan; đó là các vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự, được xác định bởi cấu thành tội phạm theo bốn yếu tố:
khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và những vấn đề có liên quan cần
làm rõ để xác định trách nhiệm hình sự của người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi
bị coi là tội phạm. Cụ thể các vấn đề cần chứng minh được quy định tại Điều 85 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt [22].
Ngoài những vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại Điều 85 BLTTHS
năm 2015 thì tùy theo tính chất, mức độ của từng vụ án cụ thể mà phạm vi chứng minh
của từng vụ án đó có thể được mở rộng hơn. Các vấn đề được chứng minh trong vụ án
được xem là căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội. Những tình tiết có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án khi những tình
tiết đó được xem là chứng cứ của vụ án. “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập

theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có
hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết
khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” [22].
Thứ hai: Lựa chọn những quy định pháp luật phù hợp với những vấn đề cần
giải quyết của vụ án để áp dụng: việc lựa chọn này được hiểu là dựa trên nhận thức
pháp luật, trình độ hiểu biết, kiến thức pháp luật để tìm kếm; Lựa chọn những quy
định pháp luật để đối chiếu và áp dụng vào các tình tiết của vụ án đã được chứng
minh, xem xét sự phù hợp hay không của các tình tiết vụ án đối với các quy định
pháp luật đó. Trong khoa học luật hình sự quá trình này được gọi là “định tội danh”.
Theo PGS.TSKH.Lê Cảm đưa ra khái niệm:“ Định tội tội danh là quá trình nhận
thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,
các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt

10


được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp
lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một
cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [6, tr.33].
Việc định tội danh đúng sẽ làm tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình
sự và cá thể hóa hình phạt; là cơ sở để áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự, tránh trường hợp làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật.
Thứ ba: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khi kết thúc Tòa án ban hành văn bản
tố tụng bằng hình thức các quyết định tố tụng hoặc bản án sơ thẩm. Việc ban hành
các quyết định, bản án là hoạt động trung tâm có ý nghĩa vô cùng quan trọng của cả
quá trình XXST vụ án hình sự. Tòa án nhân danh Nhà nước để áp dụng pháp luật

vào giải quyết các vụ việc theo trình tự, thủ tục luật định và nhân danh Nhà nước
ban hành các quyết định, bản án. Tòa án chỉ ban hành bản án, quyết định sau khi đã
thực hiện việc điều tra, xác minh, xem xét và đối chiếu các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án và qua thẩm tra, tranh luận công khai tại phiên tòa. Tức là việc ra
bản án, quyết định là giai đoạn sau cùng của hoạt động XXST. Trong quá trình xét
xử khi thấy các tình tiết, sự kiện trong vụ án chưa được làm rõ, hoặc trong vụ án
còn thiếu chứng cứ chứng minh thì Tòa án có thể ra các quyết định như trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, hoặc có thể quay lại phần xét hỏi để làm rõ
các vấn đề mà chưa được làm rõ.
1.2.2. Hình thức của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hoạt động xét xử vụ án hình sự nói chung và hoạt động XXST vụ án hình sự
nói riêng là hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật nội dung vào một vụ án cụ thể
luôn diễn ra dưới hình thức tố tụng, là một trình tự nối tiếp nhau của các giai đoạn
tố tụng. Điều kiện kết thúc của mỗi giai đoạn và chuyển tiếp sang giai đoạn tiếp
theo, mỗi giai đoạn có thực hiện hành vi tố tụng khác nhau, hình thức ghi nhận kết
quả, nội dung và hình thức của các quyết định tố tụng cũng khác nhau. Trình tự để
tiến hành giải quyết một vụ án hình sự nói chung và các giai đoạn cụ thể của quá
trình giải quyết này được gọi là hình thức tố tụng.
Có thể nói bất kỳ hoạt động Nhà nước nào hay hoạt động tố tụng hình sự
cũng phải diễn ra dưới hình thức pháp lý nhất định. Nói cách khác hình thức pháp lý
của hoạt động tố tụng hình sự là hình thức tố tụng hình sự. Hình thức tố tụng hình
sự bao gồm các điều kiện do luật định khi tiến hành hành vi tố tụng, trình tự, trật tự
ghi nhận quá trình thực hiện cũng như kết quả thực hiện hành vi tố tụng và thời hạn
tố tụng. Mỗi giai đoạn tố tụng độc lập lại có hình thức tố tụng phù hợp với từng
nhiệm vụ của từng giai đoạn tạo điều kiện và tiền đề khách quan cần thiết để kiểm
tra tính có căn cứ, hợp pháp, kết quả của giai đoạn tố tụng trước đó. Mỗi giai đoạn

11



tố tụng có hình thức tố tụng đặc trưng riêng. Ví dụ cụ thể như giai đoạn xét xử có
hình thức tố tụng là hình thức phiên tòa. Hình thức tố tụng hình sự có vai trò đảm
bảo sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, tôn trọng các
quyền hiến định của những người tham gia tố tụng, đảm bảo áp dụng pháp luật hình
sự một cách kịp thời, đúng người, đúng tội.
XXST hình sự được diễn ra dưới hình thức là phiên tòa sơ thẩm hình sự [15].
Phiên tòa XXST hình sự là tổng hợp tất cả các quy định về trình tự, thủ tục, nghi
thức tiến hành các hoạt động xem xét một vụ án hình sự của HĐXX và của những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Phiên tòa XXST còn là nơi thể hiện quyền lực
tư pháp, sự thật khách quan được xác định, công lý được thực hiện và là nơi các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ. Phiên tòa xét xử công khai, mọi
công dân đủ tuổi theo quy định được vào phòng xét xử, đây là nơi phán ánh đầy đủ
và tập trung các nguyên tắc xét xử của cơ quan Tòa án, mối quan hệ biện chứng
giữa các chức năng tố tụng hình sự. Vì vậy, có thể kết luận rằng phiên tòa XXST là
hình thức tố tụng đặc trưng của XXST. Hơn nữa phiên tòa XXST vụ án hình sự
được coi là một biểu hiện tập trung cao nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sự,
lời khai của bị cáo, người làm chứng được thể hiện một cách khách quan; tại phiên
tòa XXST còn thể hiện được đầy đủ các chứng cứ khách quan mà Viện kiểm sát và
người bào chữa đưa ra, hay nói cách khác là thể hiện đầy đủ các chứng cứ buộc tội
và gỡ tội để HĐXX xem xét được đầy đủ, toàn diện vụ án hình sự. Tại phiên tòa
XXST vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định rõ trách nhiệm pháp
lý cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự.
Hình thức tố tụng của XXST vụ án hình sự có mối quan hệ biện chứng với
nội dung của XXST vụ án hình sự. Hình thức và nội dung của XXST vụ án hình sự
gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và không tách rời nhau. Nội dung XXST hình sự
quyết định hình thức phiên tòa sơ thẩm và hình thức phiên tòa sơ thẩm hình sự có
tính độc lập tương đối, tác động mạnh mẽ trở lại nội dung của XXST. Nếu hình
thức phiên tòa sơ thẩm phù hợp với yêu cầu phát triển của nội dung XXST thì nó
thúc đẩy cho nội dung phát triển và nếu ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của nội dung.

1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, phiên tòa hình sự sơ
thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ
án hình sự, tất cả các tài liệu, chứng cứ của vụ án được Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát thu thập trong quá trình điều tra được xem xét lại một cách công khai tại phiên
tòa. Những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được tranh luận, trả lời
chất vấn trực tiếp tại phiên tòa mà ở các giai đoạn tố tụng khác họ không có điều

12


kiện để thực hiện, nhất là những người tham gia tố tụng. Mặt khác, phiên tòa hình
sự sơ thẩm được coi là đỉnh cao của quyền tư pháp, tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ
của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được thực hiện một cách
công khai và đầy đủ nhất; những lo âu của bị cáo, bị hại và của những người tham
gia tố tụng khác được giải tỏa tại phiên tòa.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm được xem là hình thức tố tụng của XXST vụ án
hình sự và cũng là lần đầu tiên vụ án hình sự được đưa ra xét xử công khai trước
những người có liên quan và được sự chứng kiến của công chúng, vụ án được xem
xét một cách công khai, toàn diện và có sự tham gia đông đảo của các chủ thể tiến
hành tố tụng, tham gia tố tụng.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm những người tiến hành tố tụng thực hiện chức
năng của mình một cách công khai và đầy đủ nhất. Kiểm sát viên là người thực hiện
chức năng buộc tội, thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Bị cáo và người bào
chữa cho mình thực hiện chức năng bào chữa trong sự đảm bảo đầy đủ của pháp
luật tố tụng. Tòa án thực hiện chức năng xét xử, đưa ra phán xét có tội hay không có
tội, áp dụng điều khoản và khung hình phạt nào đối với người phạm tội.
Trên cơ sở kết quả điều tra, đánh giá trực tiếp các căn cứ trong hồ sơ và các
căn cứ tranh tụng công khai được các bên bổ sung tại phiên tòa, Tòa án phán xét về
tính chất tội phạm của hành vi, có tội hay không của bị cáo. Tòa án tuyên bản án,

quyết định nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và
đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục, qua đó số phận pháp lý của
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự được định đoạt. Hoạt động xét xử tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm chính là sự kiểm tra kết quả của các giai đoạn trước là giai đoạn
điều tra, truy tố nhằm khắc phục những thiếu sót, vi phạm trong các giai đoạn này.
Một bản án, quyết định đúng pháp luật, công minh sẽ tạo tính thuyết phục đối với bị
cáo, những người tham gia tố tụng cũng như tạo điều kiện cho việc thi hành án và
loại trừ kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định. Trong trường hợp bản án sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị được xem xét lại ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm hay tái thẩm thì trình tự, thủ tục của một phiên tòa sơ thẩm vẫn phải thực
hiện đúng theo quy định của pháp luật, xem xét vụ án một cách công minh, đúng
đắn. Đây cũng là tiền đề cho các giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Một phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm bao gồm: Thủ tục bắt đầu phiên tòa,
thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, thủ tục nghị án và tuyên án.
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa: đây được gọi là phần mở đầu mà thực tiễn trong
hoạt động xét xử gọi là phần thủ tục, bao gồm những thủ tục cần thiết để tạo ra

13


những điều kiện để tiến hành tốt cho công việc xét hỏi tại phiên tòa và đảm bảo cho
vụ án giải quyết đúng thực tế và khách quan.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa được BLTTHS năm 2015 quy định từ Điều 300
đến Điều 305. Thủ tục này được bắt đầu bằng việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa và
kết thúc bằng việc giải quyết xong tất cả những vấn đề ở phần thủ tục được BLTTHS
quy định. Thủ tục bắt đầu phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xét xử
một vụ án hình sự. Muốn có một phiên tòa diễn ra đúng nghĩa, đúng quy định pháp
luật và tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng và chu đáo từ khi bắt đầu phiên tòa. Việc phiên tòa xét xử phụ thuộc rất nhiều

vào việc có tiến hành đúng thủ tục bắt đầu phiên tòa hay không, thực hiện đúng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các giai đoạn tiếp theo của phiên tòa. Các
điều kiện và thủ tục để bắt đầu một phiên tòa tốt là: phiên tòa đầy đủ có mặt của
những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được Tòa án triệu tập, nếu
vắng mặt thì phải có lý do chính đáng, trong trường hợp vắng mặt ảnh hưởng đến
việc xét xử của phiên tòa thì HĐXX xem xét có hoãn phiên tòa hay không; những
người tiến hành tố tụng phải thật sự vô tư, khách quan, trường hợp có căn cứ cho
rằng họ không vô tư, khách quan thì đề nghị HĐXX thay đổi những người đó; có
đầy đủ các chứng cứ, tài liệu cần được xem xét trực tiếp tại phiên tòa, để đảm bảo
các quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng. Khi phần thủ tục đã thực hiện
xong, không ai có ý kiến gì thì chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên bố kết thúc phần thủ tục
bắt đầu phiên tòa và chuyển sang phần tranh tụng [22].
- Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa: bao gồm thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh
luận tại phiên tòa.
Xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình xét xử vụ án hình sự, có tính
chất quyết định, chứng minh bị cáo có tội hay không, có tội thì có tội gì và mức độ của
hành vi phạm tội. Trước khi tiến hành việc xét hỏi, KSV công bố bản cáo trạng và trình
bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ở giai đoạn này HĐXX phải xác định đầy đủ những tình
tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành
việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Trình tự hỏi như sau:
chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về
những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về
những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản [22] . Việc xét hỏi tại
phiên tòa là cuộc điều tra công khai chính thức nhằm mục đích chứng minh tội phạm,
kiểm tra lại toàn bộ những chứng cứ do CQĐT thu thập trong quá trình điều tra. Cũng
như thông qua thủ tục xét hỏi tại phiên tòa HĐXX xem xét, đối chiếu lại toàn bộ vật

14



chứng được thu thập trong hồ sơ vụ án, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, qua đó cũng
có ý nghĩa trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân, giúp cho mọi
người nâng cao tinh thần cảnh giác tội phạm. Khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã
được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi KSV, bị cáo, người bào chữa, người
khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có
yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là
cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.
Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm: đây là một thủ tục không thể thiếu
tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm. Việc tranh luận này nhằm đảm bảo cho Viện
kiểm sát và những người tham gia phiên tòa chủ yếu là phía bị cáo và người bào
chữa cho bị cáo được tranh luận, phân tích, đánh giá chứng cứ của vụ án góp phần
đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất với quy định pháp luật. Việc tranh luận
tại phiên tòa cũng là một phương tiện cho bị cáo, người bào chữa tiến hành phân
tích, lập luận đưa ra những lý lẽ sắc bén, hợp lý có sức thuyết phục để bảo vệ bị cáo
một cách hiệu quả nhất. Mục đích của hoạt động tranh luận tại phiên tòa cũng nhằm
tìm ra những chân lý khách quan của vụ án, do đó cần có sự tham gia của bên buộc
tội và bên gỡ tội để đảm bảo được sự bình đẳng, khách quan toàn diện của vụ án.
Hoạt động tranh luận tại phiên tòa thì những mâu thuẫn giữa các chứng cứ, lời khai
được làm sáng tỏ.
Có thể nói, thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một hoạt động
quan trọng, thể hiện được bản chất dân chủ của tố tụng hình sự Việt Nam. Hiện nay,
nhiều vấn đề pháp lý mang tính nguyên tắc ở giai đoạn này chưa được xem xét một
cách thấu đáo, cần phải tìm hiểu kỹ nội dung của hoạt động này để thấy được tác
động của nó đến cơ chế hình thành bản án, quyết định của HĐXX. Nội dung của
hoạt động này là những phân tích, đánh giá của các chủ thể tham gia tranh luận,
trong đó mang tính nổi bật là việc luận tội của Viện kiểm sát và bào chữa của người
bào chữa cho bị cáo.
- Thủ tục nghị án và tuyên án:

Nghị án: là một giai đoạn đặc biệt trong XXST vì ở giai đoạn này chỉ có
Thẩm phán và Hội thẩm quyết định các vấn đề đã được đưa ra trong phần xét hỏi
cũng như phần tranh luận. HĐXX thảo luận và thông qua bản án, quyết định tại
phòng nghị án. Nghị án được thực hiện theo quy định tại Điều 326 BLTTHS năm
2015. Khi nghị án các vấn đề được giải quyết của vụ án bao gồm: Vụ án có thuộc
trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay
không; Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện kiểm sát, KSV thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng
khác cung cấp; Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội

15


thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; Hình phạt,
biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự; Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt hay không; Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị
kê biên, tài khoản bị phong tỏa; Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của
Điều tra viên, KSV, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Kiến
nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm [22].
Khi kết thúc nghị án, HĐXX phải ra một trong các quyết định: Ra bản án và
tuyên án; Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi,
chưa được làm sáng tỏ; Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu
Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án.
Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bán
án hình sự sơ thẩm là một trong những phán quyết của HĐXX nhân danh Nhà nước,
thể hiện quyền lực của Nhà nước và của dân.
Tuyên án: sau khi nghị án xong thì chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên
khác thay mặt HĐXX, đọc toàn văn bản án, mọi người tham dự phiên tòa phải đứng
dậy để nghe bản án. Sau khi đọc xong bản án thì chủ tọa có thể giải thích thêm về

quyền kháng cáo và việc chấp hành bản án cho các bị cáo.
1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về xét xử sơ thẩm hình
sự và kinh nghiệm cho Việt Nam
1.4.1. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về xét xử sơ thẩm hình sự
1.4.1.1. Pháp luật về xét xử sơ thẩm hình sự của các quốc gia theo hệ thống
pháp luật Châu Âu lục địa
- Cộng hòa Pháp
Hoạt động tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp cũng gồm 3 giai đoạn chính: Giai
đoạn cảnh sát điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn thủ tục thẩm tra và xét xử tại Tòa án.
Ở giai đoạn cảnh sát điều tra có nhiệm vụ xác định sự kiện tội phạm. Theo
quy định tại Điều 81 BLTTHS của Cộng hòa Pháp: khi tiến hành hoạt động điều tra
thì Thẩm phán điều tra tiến hành mọi hoạt động điều tra theo luật bất kì hoạt động
điều tra nào thấy có ích cho việc khám phá sự thật; tìm kiếm bằng chứng vô tội
cũng như có tội. Khi thực hiện các hoạt động điều tra Thẩm phán điều tra phải sao
chép lại những hoạt động tố tụng và toàn bộ tài liệu của quá trình tố tụng; mỗi bản
sao được xác nhận đúng bởi thư ký hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp được chỉ định đề
cập. Toàn bộ tài liệu trong hồ sơ vụ án được thư ký đánh số như là chúng được
Thẩm phán điều tra soạn thảo hoặc nhận. Khi Thẩm phán điều tra không thể tự
mình tiến hành toàn bộ hoạt động điều tra, thì có thể gửi thư yêu cầu tương trợ đến

16


các sỹ quan cảnh sát tư pháp để nhờ họ thực hiện các hoạt động điều tra cần thiết
theo các điều kiện và hạn chế theo quy định [5]
Khi cảnh sát cho rằng việc điều tra đã hoàn thành hoặc họ đã có đủ bằng
chứng để đưa vụ án ra Tòa ( hay một trong hai khả năng) mà họ không thể tiếp tục
tiến hành điều tra thêm do thiếu những thẩm quyền đặc biệt thì lúc đó họ sẽ chuyển
hồ sơ vụ án cho công tố viên có thẩm quyền. Trên cơ sở kết quả của giai đoạn điều
tra Viện công tố quyết định khởi tố bị can hoặc khởi tố vụ án đối với sự kiện phạm

tội cụ thể. “Công tố viên trưởng có thể, bằng các chỉ thị văn bản gắn với hồ sơ vụ
án, chỉ đạo công tố viên cấp quận khởi tố, hoặc yêu cầu khởi tố, chuyển cho Toà án
có thẩm quyền các yêu cầu mà công tố viên trưởng thấy phù hợp”. Điều 40 -1
BLTTHS Cộng hòa Pháp cũng quy định: “Khi thấy rằng các tình tiết được chuyển
đến phù hợp với các quy định tại điều 40 cấu thành một tội phạm được thực hiện
bởi một người biết được danh tính và nơi ở, và không có quy định pháp lý ngăn cản
việc thi hành của công tố viên, công tố viên trưởng cấp sơ thẩm có quyền tài phán
theo lãnh thổ quyết định liệu có phù hợp:
1) khởi tố;
2) hoặc tiến hành các biện pháp tố tụng thay thế việc khởi tố, phù hợp với
các quy định tại các điều 41-1 hoặc 41-2;
3) hoặc khép lại vụ án mà không làm gì thêm, khi các tình huống cụ thể liên
quan đến việc thực hiện tội phạm biện minh cho điều này” [5].
Khi hồ sơ được chuyển sang Tòa án thì Tòa án thực hiện thẩm tra, ở giai
đoạn này khác với điều tra của cảnh sát, điều tra do dự thẩm tiến hành có tính tranh
tụng cao hơn, thực hiện nhiệm vụ làm rõ tội của cá nhân cụ thể trong sự kiện tội
phạm đã được xác định ở giai đoạn trước. Thẩm phán dự thẩm là thành viên của
Tòa án cấp thứ hai có địa vị và vai trò tố tụng độc lập với Viện công tố và bên bào
chữa. Điều tra dự thẩm chỉ được tiến hành khi có quyết định của Viện công tố đề
nghị thực hiện các hoạt động điều tra cụ thể, nhất định. Pháp luật tố tụng hình sự
Cộng hòa Pháp có một đặc điểm tiến bộ hơn so với pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam đó là cho bị can và người bào chữa các quyền như quyền của Viện Công tố ở
giai đoạn điều tra dự thẩm. Người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu đối với
Thẩm phán dự thẩm về hoạt động điều tra và “Người thuộc diện thẩm tra tư pháp bị
cáo hoặc bị can trong bất kì giai đoạn tố tụng nào và trong bất kì trường hợp nào
cũng có thể yêu cầu trả tự do”. Khi kết thúc điều tra, Thẩm phán dự thẩm chuyển
giao hồ sơ cho Viện công tố, Viện công tố sau khi tán thành kết quả dự thẩm và
đồng ý duy trì công tố thì Viện công tố trả lại hồ sơ cho dự thẩm. Khi dự thẩm cho
rằng hành vi của bị cáo có cấu thành tội phạm thì hồ sơ được chuyển đến Phòng
buộc tội của Tòa án phúc thẩm. Phòng buộc tội của Tòa án phúc thẩm xem xét hồ


17


sơ và thực hiện việc truy tố bị cáo ra trước Tòa án. Sau khi có quyết định truy tố bị
cáo ra trước Tòa án thì giai đoạn XXST bắt đầu.
Phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng hình sự Pháp về cơ bản cũng giống với cơ
cấu của phiên tòa sơ thẩm ở nước ta. Diễn biến phiên tòa sơ thẩm được quy định tại
Chương V – Mở phiên tòa đại hình.
Phiên Tòa được bắt đầu bằng việc Chánh tòa tiến hành thủ tục nhận dạng bị
cáo và giải thích tóm tắt các trình tự, thủ tục tại Tòa. Sau đó tên của chín vị bồi
thẩm xét xử vụ án sẽ được Chánh tòa đưa vào trong một hộp chứa tên của 35 người.
Khi đoàn bồi thẩm đã được chọn xong họ sẽ đến ngồi ở dãy ghế bên cạnh 3 Thẩm
phán và mỗi người trong số đó đều phải tuyên thệ. Bị cáo có quyền lựa chọn 5 bồi
thẩm viên, bên công tố có quyền chọn 4. Các nhân chứng được yêu cầu xưng tên và
lui ra ngoài phòng xử án. Sau đó, Thư ký Tòa án sẽ đọc bản luận tội và Chánh Tòa
đưa ra quá trình diễn biến của vụ án. Vào thời điểm đó, Chánh tòa hỏi bị cáo, thẩm
vấn bị cáo nhưng không được biểu lộ ý kiến của mình về tội trạng của bị cáo. Sau
đó hỏi nhân chứng, xem xét các vật chứng, nghe giám định viên trình bày kết luận,
Các bên và chủ tọa phiên tòa có quyền thu thập và xem xét chứng cứ tại phiên tòa.
Sau phần thẩm vấn, xét hỏi là đến phần tranh luận, sau đó Tòa án nghị án và tuyên
án. BLTTHS Pháp phân biệt các bản án: bản án vô tội; bản án miễn trách nhiệm
hình sự và bản án kết tội.
- Cộng hòa liên bang Đức
Phiên tòa XXST vụ án hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức bao gồm các
giai đoạn sau đây: Giai đoạn chuyển hồ sơ sang Tòa hay giai đoạn truy tố bị can ra
Tòa; giai đoạn phiên tòa sơ thẩm và kháng cáo bản án sơ thẩm.
Giai đoạn truy tố bị can ra Tòa được thực hiện bằng hình thức phiên tòa sơ
bộ. Nhiệm vụ của giai đoạn này là kiểm tra lại toàn bộ các tài liệu, kết quả của giai
đoạn điều tra để làm rõ việc buộc tội có đủ căn cứ hay không. Nếu có đủ căn cứ thì

Tòa án quyết định mở phiên tòa sơ thẩm để xét xử bị cáo. Phiên tòa sơ thẩm theo
BLTTHS Công hòa Liên bang Đức bao gồm: thủ tục xét hỏi; tranh luận của các
bên; lời nói cuối cùng của bị cáo; nghị án và tuyên án [36].
Phiên tòa sơ thẩm cũng được thực hiện công khai và có mặt các bên tham gia
tố tụng gồm: Công tố viên, người bị hại, bị cáo và luật sư của bị cáo. Các hoạt động
và nội dung của phiên tòa chính thức được quy định từ Điều 226 đến điều 275
BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức.
Phiên tòa xét xử vụ án hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức được thực hiện
theo mô hình tố tụng thẩm vấn. Tại phiên toà, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa và các
hội thẩm tiến hành thẩm vấn, điều tra bị cáo là chính chứ không phải Công tố viên.
Công tố viên chỉ tiến hành thẩm vấn sau khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã thẩm

18


vấn bị cáo. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định về trình tự đưa ra chứng cứ và
chịu trách nhiệm về tính đầy đủ của chứng cứ, thẩm vấn bị cáo, người làm chứng và
người giám định. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng cho phép các bên thẩm tra
chéo nhân chứng. Công tố viên và luật sư bào chữa cho bị cáo có quyền hỏi bị cáo
về bất kỳ vấn đề gì mà họ cho là cần thiết liên quan đến vụ án. Bị cáo, luật sư của bị
cáo cũng có quyền hỏi hoặc đối chất với nhân chứng và Công tố viên. Luật sư của
bị cáo cũng có nhiệm vụ trình ra trước Tòa án tất cả các bằng chứng có lợi cho bị
cáo, đệ trình và làm đơn yêu cầu cũng như đặt câu hỏi.
HĐXX có trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội hay không. Các quyết định
của Tòa án về vấn đề bị cáo có tội hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự và hậu quả pháp lý áp dụng đối với bị cáo phải được HĐXX
biểu quyết thông qua với tỷ lệ nhất trí 2/3 mới có hiệu lực.
Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy một số điểm đáng chú ý trong tố tụng hình
sự của Đức như sau:
- Tại Điều 160, Điều 162 BLTTHS Cộng hòa Liên Bang Đức cho thấy như

sau: Cơ quan công tố vừa có chức năng điều tra và vừa có chức năng truy tố người
phạm tội ra trước Tòa án. Cơ quan công tố chỉ huy hoạt động điều tra tội phạm, tự
mình phải xác minh các tình tiết để quyết định có khởi tố hay không khởi tố vụ án;
phải xác định cả những tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội và phải đảm bảo rằng
những chứng cứ đó được thu thập một cách toàn diện; Cơ quan Công tố có thể yêu
cầu thông tin từ tất cả các cơ quan nhà nước và có thể thực hiện tất cả các hoạt động
điều tra, trực tiếp hoặc thông qua các cấp có thẩm quyền và nhân viên trong lực
lượng cảnh sát. Cấp có thẩm quyền và nhân viên trong lực lượng cảnh sát có nghĩa
vụ phải tuân thủ những yêu cầu hay mệnh lệnh của Cơ quan Công tố [3].
- BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức cho phép áp dụng biện pháp điều tra
bằng cách nghe lén điện thoại: Việc nghe lén và ghi âm điện thoại có thể được tiến
hành nếu có một số tình tiết nhất định cho thấy có nghi ngờ rằng một người là kẻ
phạm tội hoặc kẻ xúi giục hoặc có liên quan đến: Các tội phạm chống lại hoà bình,
phản bội Tổ quốc, giết người, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, rửa tiền hoặc che
giấu tài sản do phạm tội mà có...theo quy định tại Điều 100a BLTTHS.
Việc nghe lén và ghi âm thông tin viễn thông (Điều 100a) chỉ có thể được
thực hiện khi Thẩm phán cho phép. Trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan Công tố
có thể ra lệnh. Lệnh của Cơ quan Công tố sẽ không có hiệu lực nếu không được
Thẩm phán phê chuẩn trong thời hạn 3 ngày. Hình thức, phạm vi và thời gian áp
dụng phải được ghi rõ trong lệnh. Lệnh có thời hạn tối đa là 3 tháng. Việc gia hạn
không quá 3 tháng được thực hiện nếu vẫn còn các căn cứ quy định tại Điều 100a.

19


- Về việc Miễn xét xử có điều kiện, Tạm đình chỉ thủ tục tố tụng: theo quy
định tại Điều 153a BLTTHS Đức thì: Liên quan đến một tội phạm ít nghiêm trọng,
Cơ quan Công tố có thể, với sự đồng ý của Toà án có thẩm quyền ra lệnh mở phiên
xử chính và với sự đồng ý của bị can/ bị cáo, miễn truy tố và đồng thời quyết định
áp dụng một điều kiện đối với bị can/bị cáo: Có sự đóng góp nhất định cho việc

khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra; Nộp một khoản tiền cho một tổ chức phi lợi
nhuận hoặc cho Bộ Tài chính; Thực hiện các hoạt động phi lợi nhuận khác; Chấp
hành nghĩa vụ cấp dưỡng ở một mức nhất định, hoặc; Tham gia vào một hội thảo
theo quy định tại Điều 2b khoản (2), câu hai, hoặc Điều 4 khoản (8), câu bốn, Luật
Giao thông đường bộ.
- Về sự tham gia của Luật sư bào chữa (được quy định tại Chương XI của
BLTTHS Đức): Quy định tại Điều 137 “Bị can/bị cáo có thể nhận sự giúp đỡ của
luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Tối đa là ba luật sư
bào chữa có thể được lựa chọn”. Bắt buộc bào chữa trong các trường hợp sau: Phiên
xét xử chính được tiến hành theo thủ tục sơ thẩm tại Toà án khu vực cấp trên hoặc
tại Toà án khu vực; Bị can/bị cáo bị truy tố về một tội nghiêm trọng; Việc xét xử có
thể dẫn đến lệnh cấm làm một công việc nhất định...(Điều 140 BLTTHS). Nếu bị
can, bị cáo không mời được luật sư bào chữa thì Thẩm phán phụ trách Tòa án sẽ
phải chỉ định luật sư bào chữa tham gia bào chữa (Điều 141 BLTTHS).
Ngoài ra, Luật sư bào chữa có quyền kiểm tra các hồ sơ (vụ án) mà Toà án
có, những hồ sơ sẽ được trình lên Toà án trong trường hợp đã quyết định khởi tố, và
có quyền kiểm tra những chứng cứ đã được thu thập một cách chính thức. Nếu việc
kết thúc các hoạt động điều tra vẫn chưa được ghi trong hồ sơ, luật sư bào chữa có
thể bị từ chối việc kiểm tra hồ sơ hoặc kiểm tra từng tài liệu đơn lẻ trong hồ sơ,
cũng như kiểm tra các chứng cứ, nếu điều đó có thể ảnh hưởng tới mục đích của
việc điều tra. Ở tất cả các giai đoạn tố tụng, luật sư bào chữa có thể kiểm tra các
biên bản lấy lời khai bị can hoặc các hoạt động tố tụng điều tra mà luật sư đã có mặt
hoặc lẽ ra phải có mặt hoặc có thể kiểm tra việc giám định của chuyên gia (Điều
147 BLTTHS).
1.4.1.2. Pháp luật về xét xử sơ thẩm hình sự của các quốc gia theo hệ thống
pháp luật Commom law
- Vương quốc Anh
Nước Anh là một nước không có Hiến pháp thành văn. Nguyên tắc về tiền lệ
pháp (nguyên tắc án lệ) có tính chất cơ bản và đóng vai trò trung tâm trong hệ thống tư
pháp nước Anh. Tuy nhiên, Toà án vẫn có quyền giải thích và áp dụng một tội phạm

hình sự đã được quy định trong luật vào tình huống mới. Theo nguyên tắc án lệ của
nước Anh thì một quyết định của Tòa án cấp cao hơn sẽ có giá trị ràng buộc với việc

20


xét xử của Tòa án cấp dưới nếu xét thấy có tính liên quan. Khi xét xử, Thẩm phán phải
kiểm tra các tình tiết của vụ án hiện tại với vụ án đã được xét xử trước đó, nếu có liên
quan thì phải áp dụng cho việc xét xử vụ án hiện tại của mình [37].
Án lệ của Tòa án thuộc Thượng viện Anh có giá trị bắt buộc áp dụng đối với
toàn bộ hệ thống Tòa án nước Anh [37]. Các Tòa phúc thẩm phải áp dụng các án lệ từ
các vụ án xét xử phúc thẩm trước đó. Trường hợp có sự xung đột giữa các bản án phúc
thẩm thì Thẩm phán xét xử phúc thẩm vụ án hiện tại sẽ phải xem xét lựa chọn một tiền
lệ để áp dụng phù hợp. Nếu tiền lệ pháp được thiết lập ra bởi một Tòa án ngang cấp
hay Tòa án cấp cao hơn Tòa án đang xét xử vụ án hiện tại thì Thẩm phán phải theo quy
tắc xét xử thiết lập ra từ vụ án trước đó. Nếu tiền lệ pháp được thiết lập từ một Tòa án
cấp thấp hơn thì Thẩm phán xét xử vụ án mới có thể không tuân theo tiền lệ đó nhưng
cần phải cân nhắc việc áp dụng cho việc xét xử vụ án mới của mình [12].
Tố tụng hình sự Anh bao gồm các giai đoạn sau: Giai đoạn điều tra sơ bộ và
giai đoạn xét xử.
Giai đoạn điều tra sơ bộ: hầu hết các hoạt động điều tra do cảnh sát thực hiện
gồm các hoạt động: Thu thập chứng cứ, xác minh căn cước, bắt giữ, thẩm vấn và
buộc tội người bị tình nghi … nhằm làm rõ liệu có nên cáo buộc một người về một
tội, hoặc liệu người bị cáo buộc về một tội là có tội hay không. Cơ quan công tố
Hoàng gia là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và có quyền quyết định
có truy tố một tội phạm ra trước Tòa án hay không. Viện công tố sẽ nhân danh
Hoàng gia thực hiện việc truy tố các vụ án ra Tòa án cơ sở và Tòa án trung cấp.
Các phiên tòa hình sự về bản chất được tiến hành dưới hình thức tranh tụng.
Công tố viên có trách nhiệm trình bày lời buộc tội đối với bị cáo theo cách thức
công bằng và khách quan. Cơ quan công tố phải chứng minh tất cả các yếu tố của

tội phạm, cung cấp các chứng cứ mà theo ý kiến của Cơ quan này là đủ cho việc xét
xử. Phía bên người bào chữa cho bị cáo có quyền xem xét các chứng cứ của Cơ
quan công tố, có quyền đặt câu hỏi với nhân chứng, có quyền tranh luận và có
quyền đề xuất các chứng cứ của mình. Tại đây Thẩm phán thực hiện xem xét vấn đề
chứng cứ của bên buộc tội đã đủ hay chưa để có thể mở phiên tòa sơ thẩm. Nếu như
cáo buộc của Cơ quan công tố được thừa nhận là có căn cứ thì vụ án được chuyển
sang cho đoàn bồi thẩm lớn hơn xem xét. Nếu phiên tòa có Bồi thẩm đoàn diễn ra
tại Tòa Crown thì Đoàn bồi thẩm gồm 12 người, có độ tuổi từ 18 - 70 sẽ tham gia
phân tích, đánh giá chứng cứ và biểu quyết theo đa số để kết luận là bị cáo có tội
hoặc không có tội [1].
Tại phiên tòa XXST, kiểm tra chéo chứng cứ tiến hành thực hiện bởi giữa
luật sư bào chữa với nhân chứng và giám định viên, đây là những người đưa ra
chứng cứ bất lợi đối với bị cáo. Khi them xét chứng cứ, Thẩm phán phải thể hiện

21


×