Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Khai thác trò chơi dân gian lưu vực sông thái bình phục vụ phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================

ĐẶNG THỊ PHƢƠNG ANH

KHAI THÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN
LƢU VỰC SÔNG THÁI BÌNH PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

HàNội– 2012
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================

ĐẶNG THỊ PHƢƠNG ANH

KHAI THÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN
LƢU VỰC SÔNG THÁI BÌNH PHỤC VỤ
PHAT TRIỂN DU LỊCH

Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)
Mã số: 1452/QĐ-SĐH

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH NGUYỄN HẢI KẾ

HàNội - 2012
2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 8
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 9
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 9
6. Bố cục của luận văn ........................................................................................ 9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC TRÒ
CHƠI DÂN GIAN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH……………………..10
1.1.

Một số vấn đề lý luận về du lịch và trò chơi dân gian: ..............................12

1.1.1. Điều kiện hình thành và xây dựng sản phẩm du lịch: .............................12
1.1.1.1.

Điều kiện hình thành hoạt động du lịch: ...........................................12

1.1.1.2.

Điều kiện xây dựng sản phẩm du lịch: ..............................................16


1.1.1.3.

Mối quan hệ giữa sản phẩm du lịch và tài nguyên: ..........................18

1.1.2.Tài nguyên văn hóa phi vật thể - Trò chơi dân gian: ................................19
1.1.2.1.

Khái niệm và đặc điểm Trò chơi dân gian: .......................................20

1.1.2.2.

Vai trò của Trò chơi dân gian đối với sự phát triển du lịch: ............23

1.1.3. Một số bài học trong nước và quốc tế………………………………….26
1.1.3.1. Bài học kinh nghiệm trên thế giới…………………………………………26
1.1.3.2. Bài học kinh nghiệm ở Việt Nam………………………………………….30
1.2. Cơ sở đánh giá khả năng khai thác du lịch của tài nguyên văn hóa Trò
chơi dân gian: ..........................................................................................................31
1.2.1.Quan điểm đánh giá: ...................................................................................31
1.2.2.Mục đích đánh giá: ......................................................................................32
3


1.2.3.Phương pháp đánh giá: ...............................................................................32
1.2.4.Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá: .................................................................33
1.2.5.Ứng dụng cơ sở đánh giá vào đề tài: .........................................................46
Tiểu kết…………………………………………………………………………….41
Chƣơng 2: KHẢ NĂNG KHAI THÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN PHỤC VỤ PHÁT
TRIỂN DU LỊCH TẠI LƢU VỰC SÔNG THÁI BÌNH…………………………..42

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu: ...............................................................49
2.2. Khả năng khai thác du lịch của một số Trò chơi dân gian tiêu biểu tại
lƣu vực sông Thái Bình:..........................................................................................51
2.2.1.Trò chơi dân gian Đèn Trời: .......................................................................52
2.2.1.1.

Khái quát về trò chơi:........................................................................52

2.2.1.2.

Khả năng thu hút du khách của trò chơi dân gian Đèn trời: ............53

2.2.1.3.

Khả năng cung ứng của vùng trò chơi dân gian Đèn trời: ...............59

2.2.1.4. Đánh giá chung về khả năng khai thác du lịch của TCDG Đèn
trời:………. .........................................................................................................62
2.2.2.Trò chơi dân gian Diều sáo:........................................................................63
2.2.2.1.

Khái quát về trò chơi:........................................................................63

2.2.2.2.

Khả năng thu hút du khách của trò chơi dân gian Diều sáo: ...........67

2.2.2.3.

Khả năng cung ứng du lịch của vùng TCDG Diều sáo: ...................72


2.2.2.4. Đánh giá chung về khả năng phát triển du lịch của TCDG Diều
sáo:………. .........................................................................................................75
2.2.3.Trò chơi dân gian Pháo đất: .......................................................................76
2.2.3.1.

Khái quát về trò chơi:........................................................................76

2.2.3.2.

Khả năng thu hút du khách của trò chơi dân gian Pháo Đất: ..........78

2.2.3.3.

Khả năng cung ứng của vùng trò chơi dân gian Pháo Đất: .............83

4


2.2.3.4. Đánh giá chung về khả năng phát triển du lịch của TCDG Pháo
đất:………. ..........................................................................................................86
2.3. Đánh giá chung về khả năng khai thác du lịch của trò chơi dân gian tại
lƣu vực sông Thái Bình:..........................................................................................86
Tiểu kết…………………………………………………………………………….83

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHAI THÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI LƢU VỰC SÔNG THÁI BÌNH……………84
3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp phát triển du lịch trên cơ sở khai thác trò chơi
dân gian: ...................................................................................................................91
3.1.1. Quan điểm phát triển du lịch bền vững:....................................................91

3.1.2. Định hướng của nhà nước Việt Nam về phát triển du lịch:.....................92
3.2. Đề xuất các giải pháp khai thác trò chơi dân gian lƣu vực sông Thái Bình
phục vụ phát triển du lịch: .....................................................................................95
3.2.1. Giải pháp xây dựng sản phẩm du lịch khai thác trò chơi dân gian:........95
3.2.1.1. Xác định thị trường, nguồn khách và loại hình du lịch chủ yếu: ..........95
3.2.1.2. Xây dựng điểm du lịch Trò chơi dân gian: ...........................................98
3.2.2. Nhóm giải pháp xây dựng khả năng cung ứng: .....................................110
3.2.2.1. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của tài nguyên: .......................110
3.2.2.2. Giải pháp đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật
phục vụ du lịch: ................................................................................................113

3.2.2.3.Giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch.
3.2.3. Nhóm giải pháp chung: ............................................................................120
3.2.3.1. Giải pháp xúc tiến, quảng bá và thương hiệu về du lịch: ...................120
3.2.3.2. Giải pháp quản lý nhà nước về du lịch: ..............................................121
Tiểu kết………………………………………………………………………..…118
KẾT LUẬN………………………………………………………………………121
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..126
5


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CSHT

Cơ sở hạ tầng

CSVCKT

Cơ sở vật chất kỹ thuật


GS

Giáo sƣ

NĐ-CP

Nghị định – Chính phủ

Nxb

Nhà xuất bản

PT&TH

Phát thành và truyền hình

PGS.TSKH

Phó giáo sƣ. Tiến sỹ khoa học

QĐ – TTg

Quyết định – Thủ tƣớng

TCDG

Trò chơi dân gian

TNVH


Tài nguyên văn hóa

TNTN

Tài nguyên tự nhiên

Tr.

Trang

DANH MỤC MÔ HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
Mô hình 1.1: Nấc thang nhu cầu đi du lịch của con ngƣời – Maslow ……………22
Biểu đồ 1.1: Biểu đồ tỷ lệ du khách trong nƣớc phản ứng với TCDG Việt Nam…28
Biểu đồ 1.2: Biểu đồ tỷ lệ du khách nƣớc ngoài phản ứng với TCDG Việt Nam…29

6


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Kết quả xác định các tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn về nội dung của
TCDG………………………………………………………………………………30
Bảng 1.2: Kết quả công nhận những tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn về hình thức của
TCDG………………………………………………………………………………31
Bảng 1.3: Bảng phân ha ̣ng nhóm chỉ tiêu cấ p 1……………………………………34
Bảng 1.4: Bảng đánh giá mƣ́c đô ̣ thu hút khách của điểm du lịch có TCDG……...35
Bảng 1.5: Bảng phân ha ̣ng nhóm chỉ tiêu cấp 2……………………………………38
Bảng 1.6: Bảng đánh giá khả năng cung ứng của điểm du lịch có TCDG………...38
Bảng 1.7: Bảng tổ ng hơ ̣p các ch ỉ tiêu đánh giá kh ả năng khai thác du lịch tại điể m
du lich
̣ có TCDG…………………………………………………………………...39

Bảng 1.8: Bảng đánh giá khả năng khai thác du lich
̣ của điểm du lịch có TCDG…39
Bảng 2.1: Bảng thống kê số lƣợng tài nguyên du lịch trên địa bàn có TCDG Đèn
trời…………………………………………………………………………………49
Bảng 2.2: Bảng đánh giá sức hút khách du lịch của TCDG Đèn trời……………51
Bảng 2.3: Bảng đánh giá khả năng cung ứng của vùng có TCDG Đèn trời………55
Bảng 2.4: Bảng đánh giá tiềm năng phát triển du lịch của TCDG Đèn trời………56
Bảng 2.5: Bảng thống kê số lƣợng tài nguyên du lịch trên địa bàn có TCDG Diều
sáo…………………………………………………………………………………63
Bảng 2.6: Bảng đánh giá sức hút khách du lịch của TCDG Diều sáo……………65
Bảng 2.7: Bảng đánh giá khả năng cung ứng của vùng có TCDG Diều sáo………68
Bảng 2.8: Bảng đánh giá tiềm năng phát triển du lịch của TCDG Diều sáo………68
Bảng 2. 9: Bảng thống kê số lƣợng tài nguyên du lịch trên địa bàn có TCDG Pháo
đất…………………………………………………………………………………..74
Bảng 2.10: Bảng đánh giá sức hút khách du lịch của TCDG Pháo đất…………….75
Bảng 2.11: Bảng đánh giá khả năng cung ứng của điểm có TCDG Pháo đất……..78
Bảng 2.12: Bảng đánh giá tiềm năng phát triển du lịch của TCDG Pháo đất……79
Bảng 3.1: Bảng mục tiêu cụ thể của chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030……………………………………………………………….91
7


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Từ xa xƣa, tiền thân của hoạt động du lịch chính là sự chu du, thăm thú của

con ngƣời với mong muốn khám phá, tìm hiểu một thế giới khác với môi trƣờng
hạn hẹp mà mình đang cƣ trú thƣờng xuyên. Cùng với sự phát triển của khoa học

công nghệ, sự di chuyển của con ngƣời từ nơi này đến nơi khác ngày càng trở nên
dễ dàng hơn. Dần dần, cùng với sự gia tăng của các chuyến đi đã tạo thành những
xu hƣớng đến những nơi có phong cảnh đẹp, mới lạ; có điều kiện tự nhiên – xã hội
thuận lợi, an toàn; có sinh hoạt văn hóa lành mạnh, đa dạng và phong phú, độc đáo
và đặc sắc. Chính từ đó, hoạt động du lịch đã ra đời. Theo định nghĩa của Luật du
lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”
Nhƣ vậy, để đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng của du khách, cốt lõi của sản
phẩm du lịch phải là tài nguyên. Nhu cầu về khám phá thiên nhiên, nhận thức văn
hóa trong chuyến đi của du khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho
việc khôi phục, duy trì các cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ; các di tích, công trình
kiến trúc, phong tục tập quán,… đậm đà bản sắc dân tộc. Vì thế mà ý nghĩa to lớn
nhất của hoạt động du lịch cũng là góp phần phục hồi và phát huy các giá trị của tài
nguyên. Điều này cần đƣợc nhận thức rõ ràng trong mọi đƣờng lối, chính sách của
địa phƣơng, quốc gia xác định mục tiêu đẩy mạnh kinh tế nhờ phát triển du lịch.
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng to lớn để phát triển hoạt động kinh
doanh du lịch bởi thế mạnh về tài nguyên. Tuy nhiên, trƣớc một thực tế các sản
phẩm du lịch ngày càng tràn lan, trùng lặp, nhàm chán; các tài nguyên đang đƣợc
khai thác dần trở nên xuống cấp và cần thời gian nghỉ ngơi để trùng tu, tôn tạo thì
các địa phƣơng và các nhà kinh doanh du lịch cần phải tìm kiếm những yếu tố mới
lạ, độc đáo, đặc sắc, gây hứng khởi và có sức cuốn hút đối với du khách. Trong kho
tàng tài nguyên bất tận của Việt Nam vẫn còn những tài nguyên, đặc biệt là tài
nguyên văn hóa có giá trị đang bị lãng quên, đang dần mai một bởi sự biến đổi của
8


đời sống kinh tế - xã hội, đang cần cả cộng đồng chung tay góp sức phục dựng và
phát triển. Sẽ không có một con đƣờng, một phƣơng thức nào tự nhiên, thuận lợi và
hiệu quả hơn con đƣờng khai thác các giá trị văn hóa đó phục vụ phát triển du lịch.

Trong bức tranh muôn màu của đời sống văn hóa dân gian Việt Nam – nguồn
tài nguyên du lịch bất tận luôn hấp dẫn du khách bởi chính sự sâu sắc, kỳ diệu và bí
ẩn - có những mảng màu đỏ thắm thể hiện nếp sinh hoạt hồn nhiên, tƣơi vui, sôi
động của những con ngƣời nông nghiệp Á Đông. Một trong những nét màu thắm
tƣơi đó đƣợc phác họa bởi hệ thống các trò chơi dân gian tồn tại cùng đời sống sinh
hoạt hàng ngày của cƣ dân đồng bằng Bắc Bộ. Trò chơi dân gian là một yếu tố thể
hiện phong tục, tập quán của một vùng, là tài nguyên văn hóa phi vật thể rất dễ bị
mai một, bị biến dạng trƣớc tác động của làn sóng đô thị hóa nông thôn và hiện đại
hóa đất nƣớc. Nhiệm vụ khôi phục và bảo tồn các trò chơi dân gian đang đƣợc đặt
ra ngày càng cấp bách với cả cộng đồng. Một trong những giải pháp bảo tồn là tìm
ra những giá trị, những đặc điểm tiêu biểu, đặc sắc, hấp dẫn của nó đối với du khách
thập phƣơng. Khai thác trò chơi dân gian để phục vụ phát triển du lịch để cả cộng
đồng nhận thức đƣợc giá trị của nó, để cả cộng đồng hợp tác bảo vệ nó, để chính
những lợi tức từ hoạt động kinh doanh du lịch mang lại là nền tảng, động lực cho sự
bảo tồn và phát huy theo hƣớng bền vững.
Tuy nhiên trong kho tàng đồ sộ những trò chơi dân gian đồng bằng Bắc Bộ,
chỉ có thể chọn lọc ra một số trò chơi đáp ứng đƣợc tính hấp dẫn đối với khách du
lịch và đại diện cho sự đặc sắc, mới lạ của một vùng văn hóa nhất định. Là một
vùng đất mang tính mở lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ, do đặc điểm tự nhiên của vùng
đồng bằng duyên hải quyết định đặc điểm tụ cƣ với sự đa dạng nghề nghiệp nên
cũng hình thành nền tảng văn hóa phong phú cho toàn vùng hạ lƣu sông Thái Bình.
Vừa mang nét chung của văn hóa ngƣời Việt cổ, vừa mang nét riêng của khu vực
chịu sự chi phối của cả biển, cả sông, vừa là nơi đầu tiên tiếp giáp và giao lƣu với
văn hóa ngoại lai, khu vực này sản sinh ra hệ thống các di sản văn hóa đầy sức cuốn
hút. Kỳ lạ thay, ngay chính từng trò chơi dân gian trong vùng cũng mang từng đặc
điểm, từng hơi thở của văn hóa vùng. Sự sôi động của Pháo đất, sự thƣ thái của Đèn
9


trời, sự bình yên của Diều sáo… làm nên sức hấp dẫn riêng cho bức tranh văn hóa

nơi đây. Đó chính là nguồn tài nguyên bất tận làm nên những sản phẩm du lịch mới
lạ, luôn truyền cảm hứng bất tận cho du khách.
Chính bởi những lý do đó, ngƣời viết đã chọn đề tài “Khai thác trò chơi dân
gian lƣu vực sông Thái Bình phục vụ phát triển du lịch” để mong muốn góp một
phần công sức nhỏ bé của mình tìm ra những sản phẩm mới mẻ hơn cho ngành du
lịch Việt Nam cũng nhƣ tìm ra phƣơng hƣớng bảo tồn và phát huy trò chơi dân gian
- một nguồn tài nguyên văn hóa có giá trị to lớn.
Mục đích nghiên cứu

2.
-

Xây dựng thêm những sản phẩm du lịch mới lạ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh

tế du lịch lƣu vực sông Thái Bình.
-

Tìm cách bảo tồn trò chơi dân gian theo hƣớng biến nó trở thành tài nguyên của

sản phẩm du lịch.
Nhiệm vụ nghiên cứu

3.
-

Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá khả năng khai thác tài nguyên văn hóa phi

vật thể Trò chơi dân gian phục vụ phát triển du lịch.
-


Dựa trên các tiêu chí đó, tìm hiểu và đánh giá một số trò chơi dân gian có tính

hấp dẫn đối với du khách tại lƣu vực sông Thái Bình.
-

Nghiên cứu đề suất một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác trò chơi dân gian

phục vụ phát triển du lịch tại một số điểm thuộc lƣu vực sông Thái Bình.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.

Đối tượng nghiên cứu
-

Điều kiện hình thành của sản phẩm du lịch.

-

Một số trò chơi dân gian có tính hấp dẫn đối với du khách và có tiềm năng khai

thác để tạo thành một sản phẩm du lịch.
Phạm vi nghiên cứu
-

Luận văn kế thừa tƣ liệu về xây dựng sản phẩm du lịch, chƣơng trình du lịch,

tuyến du lịch và tƣ liệu về Trò chơi dân gian đã đƣợc các nhà nghiên cứu du lịch học và
văn hóa dân gian đi trƣớc miêu tả.


10


-

Luận văn giới hạn tìm hiểu Trò chơi dân gian của ngƣời Việt đồng bằng châu

thổ Bắc Bộ và cụ thể hơn ở tiểu vùng văn hóa - lƣu vực sông Thái Bình với ba trò chơi
tiêu biểu là Đèn trời, Diều sáo và Pháo đất.
-

Luận văn xây dựng các giải pháp tiến hành khởi tạo các sản phẩm du lịch mới

trên cơ sở khai thác các trò chơi dân gian này trên mặt bằng các giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể của địa bàn nghiên cứu.
Phƣơng pháp nghiên cứu

5.

Trên cơ sở chính sách và pháp luật Việt Nam có liên quan đến hoạt động quản lý
văn hóa và du lịch, đề tài triển khai các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ:
-

Tổng hợp – phân tích, so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa từ nguồn tƣ liệu đã có.

-

Điều tra bảng hỏi, điền dã thẩm định và thu thập tƣ liệu.

-


Thể nghiệm và nghiên cứu một số trƣờng hợp cụ thể.

-

Các phƣơng pháp liên ngành của du lịch học và quản lý văn hóa.
Đóng góp của luận văn

6.
-

Là tài liệu tham khảo về hệ thống đánh giá khả năng khai thác tài nguyên văn

hóa phi vật thể phục vụ phát triển du lịch.
-

Là tài liệu tham khảo về một phƣơng hƣớng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

dân tộc Trò chơi dân gian trƣớc sự biến động của thời cuộc.
-

Là tài liệu tham khảo về việc xây dựng các sản phẩm du lịch mới dựa trên sự

khai thác tài nguyên sẵn có.
7.

Bố cục của luận văn
Phù hợp với mục đích và các mục tiêu đề ra, ngoài phần mở đầu (4 tr), phần kết

luận (3 tr), tài liệu tham khảo (3 tr), phụ lục (8 tr), luận văn chia làm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận liên quan đánh giá khả năng khai thác trò chơi
dân gian phục vụ phát triển du lịch (32 tr).
Chƣơng 2: Khả năng khai thác trò chơi dân gian phục vụ phát triển du lịch
tại lƣu vực sông Thái Bình (42 tr)
Chƣơng 3: Giải pháp khai thác Trò chơi dân gian phục vụ phát triển du
lịch tại lƣu vực sông Thái Bình (39 tr).

11


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC TRÒ CHƠI
DÂN GIAN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

1.1.

Một số vấn đề lý luận về du lịch và trò chơi dân gian:

1.1.1. Điều kiện hình thành và xây dựng sản phẩm du lịch:
1.1.1.1.

Điều kiện hình thành hoạt động du lịch:

Bất cứ một hoạt động nào cũng chỉ có thể ra đời trong những điều kiện nhất
định. Đặc biệt đối với du lịch – một hoạt động vừa mang tính chất xã hội sâu sắc
vừa là một sản phẩm kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì sự hình thành và phát triển của
nó đƣợc đặt ra trong những điều kiện và bối cảnh có sự tƣơng tác giữa nhiều yếu tố.
Nhƣng tựu trung lại có thể đƣa ra một số điều kiện hình thành hoạt động du lịch nhƣ
sau:



Điều kiện chung: Đó chính là bức tranh phát triển chung của khu vực, là

phông nền cho tất cả các hoạt động có thể diễn ra. Các hoạt động chỉ có thể phát
triển theo hƣớng tích cực khi và chỉ khi có một nền móng vững vàng và thuận lợi.
Trƣớc tiên, hoạt động du lịch chỉ có thể ra đời và mở rộng khi có điều kiện tốt
về an ninh chính trị và an toàn xã hội. Các nƣớc ít xảy ra chiến tranh, biến cố chính
trị, quân sự thƣờng hấp dẫn đối với đông đảo quần chúng nhân dân và du khách
tiềm năng. Du khách chỉ có thể yên tâm và đi lại tự do khi họ đi du lịch đến những
nơi có tình hình chính trị ổn định. Phân biệt sắc tộc, tôn giáo là một trở ngại lớn đối
với hoạt động du lịch bởi du khách ít có cơ hội giao thiệp và làm quen với ngƣời
dân bản xứ, hoà nhập vào đời sống văn hóa, phong tục tập quán của họ. Du lịch
phát triển nhờ có bầu không khí chính trị hoà bình và bầu không khí đó càng đƣợc
củng cố khi mở rộng và phát triển trao đổi du lịch giữa các quốc gia và dân tộc.
Ngƣời dân trong nƣớc sẽ không có nhiều cơ hội đi du lịch nếu nhƣ trong nƣớc có
chiến tranh hoặc nội chiến. Thiên tai là một nhân tố ảnh hƣởng xấu đến hoạt động
du lịch. Hạn hán, lũ lụt làm hạn chế khả năng cung ứng dịch vụ du lịch đồng thời sẽ
tạo ra mầm bệnh nhƣ tả lỵ, sốt rét, dịch hạch, ảnh hƣởng đến sức khoẻ của khách du
12


lịch. An toàn về các dịch bệnh truyền nhiễm lây lan là một trong những vấn đề đƣợc
khách du lịch quan tâm.
Nền kinh tế chung của một quốc gia phát triển là điều kiện thuận lợi cho
ngành kinh tế du lịch phát triển bởi du lịch là một ngành kinh tế có tính liên ngành,
liên vùng rất cao. Ngành nông nghiệp phát triển sẽ có khả năng cung ứng cho ngành
du lịch các sản phẩm nông nghiệp nhƣ rau củ quả có chất lƣợng cao với giá rẻ. Các
sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến đóng một vai trò quan trọng trong việc
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của du khách. Một số ngành công nghiệp nhẹ cũng là
nhà cung ứng vật tƣ cho ngành du lịch nhƣ: công nghiệp dệt, công nghiệp thuỷ tinh,

công nghiệp sành sứ và đồ gốm, công nghiệp chế biến gỗ, thủ công mỹ nghệ. Muốn
phát triển du lịch, các ngành sản xuất có quan hệ mật thiết với du lịch không phải
chỉ đáp ứng yêu cầu tối thiểu về khối lƣợng hàng hoá mà phải cung cấp vật tƣ hàng
hoá có chất lƣợng cao, có thẩm mỹ và chủng loại phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, quan trọng hơn cả, hiện nay trên thế giới hầu nhƣ không có một
nơi nào không tồn tại một bộ máy quản lý xã hội, bộ máy này có vai trò quyết định
đến các hoạt động xã hội của cộng đồng đó, trong đó có hoạt động du lịch. Một đất
nƣớc có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, điều kiện kinh tế cao nhƣng chính
quyền địa phƣơng không có những chính sách khuyến khích phát triển du lịch,
không có một quan điểm, một hƣớng nhìn đúng đắn về du lịch thì hoạt động du lịch
tại địa phƣơng đó không thể phát triển đƣợc.
Những điều kiện chung ở trên tác động một cách độc lập đến hoạt động du
lịch, do đó nếu thiếu một trong các điều kiện ấy, sự phát triển của du lịch có thể bị
trì trệ, giảm sút hoặc ngừng lại hoàn toàn.


Điều kiện tự thân làm nảy sinh nhu cầu du lịch:
Trền nền tảng thuận lợi của các điều kiện chung nói trên, con ngƣời mới có thể

nảy sinh những mong muốn đƣợc tham gia vào hoạt động du lịch. Tuy nhiên, để có
đƣợc quyết định đi du lịch, mỗi cá nhân con ngƣời cần hội tụ đủ các điều kiện và
yếu tố khách quan sau:

13


Thời gian rảnh là một trong những điều kiện quan trọng để một ngƣời trở
thành khách du lịch. Muốn thực hiện một chuyến du lịch con ngƣời phải có khoảng
thời gian rảnh nhất định. Quỹ thời gian của mỗi ngƣời trong một tháng hoặc một
năm là nhƣ nhau, song việc phân chia, sắp xếp quỹ thời gian đó của mỗi ngƣời là

khác nhau tùy vào tính chất công việc và các hoạt động khác. Thời gian nhàn rỗi và
các hình thức hoạt động gắn với khoảng thời gian đó là một nhân tố quan trọng kích
thích du lịch. Theo nghiên cứu, có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa thời gian nhàn rỗi
và nhu cầu du lịch. Du lịch là hoạt động sử dụng thời gian rỗi phù hợp nhất vì nó là
một hoạt động tổng hợp, thỏa mãn nhiều nhu cầu của con ngƣời cùng một lúc nhƣ:
nghỉ ngơi, thƣ giãn, vui chơi giải trí, nâng cao kiến thức, mở rộng quan hệ xã hội…
Mức thu nhập cũng có khả năng chi phối, có mối quan hệ chặt chẽ với nhu cầu
du lịch. Khi đi du lịch, mỗi ngƣời đều phải có tiền để thanh toán các chi phí nhƣ ăn,
ở, đi lại, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác. Việc khách du lịch quyết định đi du
lịch ở đâu, trong hay ngoài nƣớc, điểm đến gần hay xa chủ yếu là do mức thu nhập.
Trên thực tế, các nƣớc phát triển có thu nhập bình quân đầu ngƣời cao nhƣ Mỹ,
Nhật, Canada, Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Đức, Ý…là những nƣớc có nhu cầu du lịch rất
cao. Và ngƣợc lại, tại các nƣớc đang phát triển, tỷ lệ ngƣời đi du lịch trong tổng dân
số thấp.
Ngoài hai điều kiện tiên quyết để một con ngƣời có thể thực hiện hành vi du
lịch trên, còn các yếu tố bổ trợ khác, quyết định việc khách du lịch lựa chọn điểm
đến này mà không phải điểm đến kia, tiêu hao số thời gian khác nhau cho hoạt động
giải trí hoặc lựa chọn các sản phẩm với chất lƣợng dịch vụ khác nhau. Trình độ học
vấn là một nhân tố điển hình trong việc thôi thúc mong muốn đi du lịch của du
khách tiềm năng. Những cuộc điều tra xã hội học đã chứng minh đƣợc ngƣời có
trình độ học vấn càng cao thì họ càng có mong muốn dành thời gian và thu nhập
rảnh rỗi cho hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, vấn đề sức khỏe liên quan đến độ tuổi
và giới tính cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến quyết định lựa chọn sản phẩm du lịch
của du khách tiềm năng.

14


Quyết định đi du lịch của du khách tiềm năng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
nên các hoạt động du lịch mới diễn ra phong phú, đa dạng với nhiều động cơ và

mục đích khác nhau.


Khả năng cung ứng nhu cầu du lịch:
Để hoạt động du lịch hình thành và phát triển, để đáp ứng đƣợc nhu cầu của du

khách nhất thiết phải có một khả năng cung ứng dịch vụ đầy đủ tại các điểm đến du
lịch.
Trƣớc hết, đó là sự phong phú và đa dạng về tài nguyên du lịch. Bởi khách du
lịch khi đi ra khỏi nơi cƣ trú thƣờng xuyên của họ thì thƣờng mong muốn đƣợc đến
một nơi có cảnh đẹp, có không khí trong lành, không gian thoáng đãng, có lợi cho
sức khỏe hoặc nơi có giá trị lịch sử, văn hóa thỏa mãn mong muốn đƣợc tìm hiểu,
đƣợc khám phá, hay nơi có nhiều hoạt động vui chơi giải trí giúp thoát khỏi sự căng
thẳng, mệt mỏi hàng ngày của công việc. Tất cả những hoạt động đó chỉ có thể làm
đƣợc ở nơi có tài nguyên sẵn có và đƣợc con ngƣời khai thác phục vụ cho các mục
đích trên.
Nhƣng để tạo thành một sản phẩm du lịch thì chỉ có yếu tố tài nguyên là chƣa
đủ mà cần các hoạt động dịch vụ bổ trợ tạo nên khả năng sẵn sàng đón tiếp du
khách tại điểm du lịch đó.
Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch đƣợc thể hiện ở hai nhóm điều kiện chính:
các điều kiện về tổ chức và về kỹ thuật. Các điều kiện ấy ảnh hƣởng rất lớn đến việc
tiếp đón và phục vụ khách du lịch. Các điều kiện về tổ chức thể hiện ở sự có mặt
của hệ thống các đơn vị cung cấp các dịch vụ du lịch cho khách du lịch nhƣ các
công ty du lịch, hệ thống nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, các công ty lữ hành, xí
nghiệp vận chuyển, các cửa hàng bán lẻ… Đội ngũ lao động trong ngành cũng là
một yếu tố không thể thiếu. Với lực lƣợng này cần có sự chuyên nghiệp trong cách
làm việc, nhiệt tình, năng động, linh hoạt, có khả năng giao tiếp, biết ngoại ngữ, am
hiểu kiến thức, chuyên môn vững vàng… Bộ máy quản lý nhà nƣớc về du lịch cấp
Trung ƣơng và địa phƣơng là đại diện để đảm bảo sự sẵn sàng thực sự trong việc
phục vụ khách du lịch trong cả nƣớc hoặc trong từng vùng. Cùng với đó là hệ thống

15


các thể chế quản lý Nhà nƣớc về du lịch: Luật du lịch và các văn bản pháp quy dƣới
luật; các chính sách và cơ chế quản lý du lịch, quy hoạch phát triển du lịch… nhằm
có những biện pháp phù hợp để đẩy mạnh và phát triển du lịch. Điều kiện về kỹ
thuật chính là điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng. Cơ sở vật chất kỹ thuật bao
gồm toàn bộ nhà cửa và phƣơng tiện vật chất kỹ thuật để thỏa mãn nhu cầu thƣờng
ngày của khách: khách sạn, nhà nghỉ, khu vui chơi giải trí, cửa hàng, công viên…
Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống đƣờng sá, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống
cấp thoát nƣớc, mạng lƣới điện… Cơ sở hạ tầng xã hội là đòn bẩy thúc đẩy mọi
hoạt động kinh tế - xã hội. Đối với du lịch nó lại càng quan trọng vì nó là điều kiện
đầu tiên giúp khách có thể tiếp cận dễ dàng các điểm du lịch và đƣợc thỏa mãn các
nhu cầu trong suốt chuyến đi. Thực tế cho thấy, sự phát triển của loại phƣơng tiện
vận chuyển, mạng lƣới giao thông đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của du lịch
nội địa cũng nhƣ quốc tế.
Nhƣ vậy, để hoạt động du lịch có thể phát triển và mang lại nguồn lợi có ích
cho đời sống xã hội thì cũng cần phải có những điều kiện nhất định về kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội… Chỉ trong những điều kiện thuận lợi nhất, nơi hoạt động
du lịch có thể diễn ra mới hình thành nên sự lƣu thông sản phẩm, tạo cơ sở cho sản
phẩm du lịch ra đời.
1.1.1.2.

Điều kiện xây dựng sản phẩm du lịch:

Theo “Luật du lịch Việt Nam” (2005): “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch
vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.”
Hiểu một cách chung nhất, sản phẩm du lịch đƣợc xây dựng trƣớc tiên dựa vào
nhu cầu của du khách. Trong một xã hội hiện đại khi tất cả các nhu cầu thiết yếu
của con ngƣời đã đƣợc đáp ứng đầy đủ tại nơi cƣ trú thƣờng xuyên thì ngƣời ta mới

nảy sinh thêm mong muốn đƣợc khám phá, chinh phục, đƣợc trải nghiệm những
vùng đất mới lạ. Xuất phát từ động cơ đó mà con ngƣời thực hiện chuyến đi du lịch.
Chuyến đi này bao giờ cũng là một nơi xác định, ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của
khách du lịch đƣợc gọi là điểm du lịch.

16


Điểm du lịch là yếu tố cốt lõi của sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch chỉ có
thể lôi cuốn khách du lịch khi và chỉ khi có tính hấp dẫn sẵn có của tài nguyên, đáp
ứng đƣợc mong muốn khám phá, trải nghiệm sự mới lạ của du khách. Sau đó, cùng
với sự khai thác tài nguyên, các nhà kinh doanh mới xây dựng khả năng cung ứng
dịch vụ tại điểm để đảm bảo sự thỏa mãn nhu cầu tối đa của du khách. “Điểm du
lịch là nơi có có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của du
khách” [16].
Tài nguyên du lịch chính là điều kiện cấu thành điểm du lịch. Theo định nghĩa
của “Luật du lịch Việt Nam”: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố
tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và
các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố
cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch”. Tài nguyên du
lịch là điều kiện hết sức quan trọng để phát triển du lịch vì nó quyết định việc hình
thành các sản phẩm du lịch, là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch.
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
-

Các loại tài nguyên du lịch tự nhiên thƣờng là các địa hình đa dạng, các kiểu

khí hậu đặc trƣng, hệ động thực vật phong phú, các loại tài nguyên nƣớc. Địa hình
đa dạng thƣờng gắn với các cảnh đẹp. Khách du lịch thƣờng thích đến những nơi đa
dạng về cảnh quan và địa hình, có kết hợp sông, núi, rừng, đồng bằng, hoặc các bãi

biển, khu vực núi cao, các vƣờn quốc gia, các khu bảo tồn… những nơi có môi
trƣờng khác với môi trƣờng sống hàng ngày của họ. Khí hậu đặc trƣng giúp tạo nên
các loại hình du lịch phù hợp. Ví dụ nhƣ vùng biển nhiều nắng, gió, mát mẻ phù
hợp với loại hình vui chơi, giải trí, tham quan, thể thao. Khu vực núi cao có khí hậu
trong lành mát mẻ, phù hợp với du lịch nghỉ dƣỡng. Những nơi có suối khoáng, suối
nƣớc nóng phù hợp với loại hình du lịch chữa bệnh…
-

Tài nguyên nhân văn là những của cải vật chất và tinh thần do con ngƣời

sáng tạo ra từ xƣa đến nay có thể thu hút đƣợc khách du lịch nhƣ các di tích lịch sử,
các công trình kiến trúc, các viện bảo tàng, các lễ hội truyền thống, các làng nghề
thủ công, văn hóa ẩm thực, tôn giáo, nghệ thuật...
17


Tài nguyên du lịch nhân văn thƣờng đƣợc khai thác chủ yếu dựa trên các di
sản. Di sản văn hóa, theo “Luật di sản Việt Nam”, đƣợc hiểu là: “các di sản văn hóa
phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Trong đó:
“Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,

-

khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia”. [17]
“Di sản văn hóa phi vật thể là là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn

-


hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm
tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng,
diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền
thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức dân gian khác”. [17]
Nhƣ vậy, tài nguyên du lịch là yếu tố không thể thiếu làm nên sản phẩm du
lịch. Nhƣng cho dù đó là tài nguyên tự nhiên hay nhân văn, cho dù đó là tài nguyên
vật thể hay phi vật thể thì mỗi giá trị của tài nguyên lại mang đến một sức hấp dẫn
khác nhau cho du khách. Điểm du lịch nào càng có nhiều tài nguyên thì càng có sức
lôi cuốn lớn đối với du khách. Bởi vậy, vai trò chính yếu của ngƣời làm du lịch là
biết cách khai thác trọn vẹn nguồn tài nguyên sẵn có của địa phƣơng để thỏa mãn
đƣợc tối đa nhu cầu của du khách, tạo ra những sản phẩm du lịch có hiệu quả kinh
tế cao.
1.1.1.3.

Mối quan hệ giữa sản phẩm du lịch và tài nguyên:

Bởi sản phẩm du lịch cần một điểm đến xác định nên trƣớc tiên và bao trùm
lên tất cả các sản phẩm du lịch là giá trị hữu hình của tài nguyên vật thể. Tài nguyên
vật thể thƣờng là đại diện, là đặc trƣng của sản phẩm du lịch. Bởi vậy mà tên gọi
của sản phẩm du lịch hay chƣơng trình du lịch cũng mang luôn tên của tài nguyên
đó. Đó thƣờng là một điểm đến có phong cảnh đẹp nổi tiếng với dạng địa hình độc
đáo hay nơi cƣ trú của một quần thể sinh vật khác lạ (chƣơng trình du lịch tham
18


quan Vịnh Hạ Long, chƣơng trình du lịch đến vƣờn quốc gia Cúc Phƣơng,…). Đó
thƣờng là một công trình kiến trúc mang dấu ấn của một giai đoạn lịch sử hay một
công trình tín ngƣỡng tâm linh (chƣơng trình du lịch Chùa Hƣơng, Côn Sơn – Kiết

Bạc, thành nhà Hồ,...).
Tài nguyên văn hóa phi vật thể, bởi tính chất vô hình của nó, thƣờng chỉ đóng
vai trò bổ trợ tại điểm du lịch đã có tài nguyên vật thể đƣợc khai thác. Một ví dụ dễ
nhận thấy là trong chƣơng trình du lịch tham quan vƣờn quốc gia Cúc Phƣơng, bên
cạnh những giá trị tự nhiên đƣợc khám phá, du khách còn có thể cảm nhận đƣợc
cuộc sống của đồng bào dân tộc Mƣờng thông qua cách thức sinh hoạt, phong tục
tập quán của những bản làng ngƣời dân tộc này hiện hữu trong vƣờn quốc gia. Có lẽ
là bởi các tài nguyên văn hóa phi vật thể không cụ thể về không gian, không rõ ràng
về thời gian. Chính vì thế nó không mang tính chất đại diện cho điểm đến. Nhƣng
nó luôn luôn tồn tại ở tất cả các điểm đến bởi nó luôn hòa lẫn vào đời sống của cộng
đồng địa phƣơng nơi khai thác tài nguyên vật thể phục vụ hoạt động du lịch. Du
khách đến đây vẫn hàng ngày, hàng giờ cảm nhận đƣợc nó và chính nó quyết định
các thang bậc cảm xúc của du khách sau một chuyến đi du lịch. Nhƣ vậy, dù không
chủ đích, tài nguyên văn hóa phi vật thể của địa phƣơng vẫn đƣợc khai thác. Chính
vì đƣợc khai thác một cách tự nhiên, không theo chủ đích phục vụ hoạt động du lịch
nên đôi khi những gì đƣợc trình diễn mang lại những giá trị phản cảm, lệch lạc cho
du khách. Trong khi đó, những tài nguyên có sức cuốn hút, mang lại sự quan tâm và
hứng khởi cho du khách lại đang dần mai một và bị lãng quên. Chính vì thế, nên
chăng, những ngƣời xây dựng sản phẩm du lịch cần chủ động tìm hiểu và khai thác
giá trị của các tài nguyên văn hóa phi vật thể để nó phục vụ có mục đích cho hoạt
động du lịch, tránh lãng phí và tránh những hiểu lầm không đáng có về những di sản
đã tồn tại trong cộng đồng từ lâu đời.
1.1.2. Tài nguyên văn hóa phi vật thể - Trò chơi dân gian:
Có một tài nguyên văn hóa phi vật thể đã tồn tại lâu đời trong đời sống dân
gian Việt Nam bởi sức lôi cuốn lạ kỳ, bởi tính giải trí đậm đặc giúp con ngƣời giải
tỏa những căng thẳng sau khoảng thời gian làm việc mệt mỏi. Bên cạnh đó, nó còn
19


có giá trị nhiều mặt bởi mỗi hình thức biểu hiện là một bức tranh văn hóa, lịch sử,

địa lý từng vùng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với cả nhu cầu học hỏi, khám phá lẫn
nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của du khách tại điểm đến. Trong khi đó, với nhiều
nguyên nhân, nó lại đang dần bị mai một, bị chính cộng đồng bản địa lãng quên.
Khai thác nó để phục vụ hoạt động kinh doanh du lịch là con đƣờng duy nhất và
phù hợp nhất để nó đƣợc sống trong cộng đồng với đầy đủ và nguyên vẹn vai trò
của nó. Đó chính là tài nguyên văn hóa phi vật thể - Trò chơi dân gian.
1.1.2.1.


Khái niệm và đặc điểm Trò chơi dân gian:

Khái niệm Trò chơi dân gian:
Nằm trong hệ thống các khái niệm liên quan đến “trò chơi”, “trò chơi dân gian

được hiểu là toàn bộ những hình thức trò chơi bao gồm các cách thức – phương
tiện – văn cảnh do nhân dân sáng tạo nên trong lịch sử, được lưu truyền cho đến
ngày nay và trở thành một bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản các cộng đồng
văn hóa khác nhau cũng như đã trở thành giá trị chung của nhân loại” [6, tr 18])
Vì đƣợc sáng tạo trong môi trƣờng tự nhiên – nhân văn cụ thể nên trò chơi bao
giờ cũng là sản phẩm của một nền văn hóa nào đó. Trò chơi mang theo một số yếu
tố có tính tƣợng trƣng hoặc biểu tƣợng, dấu ấn của văn hóa ấy. Có những trò chơi
mang dáng vẻ bên ngoài giống nhau do tƣơng đồng văn hóa, do xây dựng dựa trên
những hiện tƣợng tự nhiên phổ quát, hoặc do phát tán văn hóa hay do ngẫu nhiên…
thì cũng mang ý nghĩa riêng chứa đựng những quan niệm của cộng đồng sở hữu nó.
Có những trò chơi rất khác nhau về hình thức nhƣng lại cùng một biểu hiện về ý
nghĩa nào đó. Có thể nêu ra một số ý nghĩa tiêu biểu nhƣ sự phổ biến của truyền
thống trò chơi dân gian nói chung nhƣ sau:
-

Trò chơi dân gian là biểu tƣợng của sự vận động đối lập giữa các bản nguyên


tạo tác nên sự sống. Rất nhiều trò chơi có ở các nền văn hóa khác nhau diễn ra dƣới
hình thức của sự tranh giành hay hoán vị liên quan đến hình ảnh tƣợng trƣng quy
luật vận động của các lực lƣợng tự nhiên nhƣ ánh sáng – bóng tối; khô hạn - ẩm
ƣớt; lửa – nƣớc; đực – cái; cao – thấp, sống – chết, dƣơng – âm, … phản ánh quan

20


niệm thế giới “chia hai hòa một”1. Ý nghĩa cơ bản của nó là đối chọi và hòa hợp
giữa các yếu tố tự nhiên đƣợc coi nhƣ cơ sở của mùa màng, của sự sống.
Rất nhiều trò chơi dân gian mang ý nghĩa của một nghi thức nào đó nhƣ phục

-

vụ cho sản xuất, nghi thức chuyển đoạn trong vòng đời một con ngƣời, nghi thức
của xã hội trong những dịp tôn vinh giá trị nào đó của toàn thể cộng đồng, nghi thức
đánh dấu các chu kỳ tự nhiên, nghi thức dâng cúng các đấng siêu nhiên. Ý nghĩa
của các trò chơi trong nghi thức nào đó có thể nghiêm túc, còn đối với ngƣời tham
gia vẫn chỉ nhƣ một cuộc chơi.
Trò chơi dân gian nhiều khi có ý nghĩa tƣợng trƣng cho năng lực và danh dự

-

của cá nhân hoặc cộng đồng tham gia cuộc chơi.
Chính bởi hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc mà trò chơi dân gian đã thực hiện
những chức năng to lớn đối với cộng đồng những ngƣời thực hiện và tham gia:
Tạo môi trƣờng rèn luyện và tập dƣợc những kỹ năng chuẩn bị cho tuổi

-


trƣởng thành.
Tạo môi trƣờng tích cực cho rèn luyện thể chất – linh hoạt hóa hành vi – phát

-

triển chức năng trí não.
-

Đem đến những cách nhận thức khác nhau về thực tại.

-

Phát triển sự hợp tác, tập hợp và liên kết cộng đồng.

-

Một thông báo về thể trạng sức khỏe.

-

Có khả năng chữa một số bệnh trục trặc về tâm lý.

-

Sự nghỉ ngơi tích cực, sự thăng hoa tinh thần trong sáng tạo của đời sống con

ngƣời.
Nhƣng nhìn chung chức năng bao trùm và xuyên suốt của trò chơi là giải trí,
giải phóng các năng lực tâm thần hay khả năng mang đến sự hứng khởi tinh thần

cho con ngƣời.


1

Đặc điểm của trò chơi dân gian:

Từ của cố GS Trần Quốc Vƣợng

21


-

Đặc điểm về nguồn gốc: trò chơi dân gian phản ánh bối cảnh địa lý – nhân

văn trong truyền thống của các cộng đồng chủ nhân sáng tạo và lƣu giữ những trò
chơi dân gian ấy đồng thời ở cả 2 khía cạnh:
+ Trò chơi dân gian có nguồn gốc từ/và phản ánh thực tiễn sinh hoạt hàng ngày.
+ Trò chơi dân gian có nguồn gốc từ/và phản ánh thực tiễn hoạt động tín
ngƣỡng.
-

Đặc điểm về sân chơi của trò chơi dân gian: Môi trƣờng hay sân chơi diễn ra

trò chơi dân gian bao gồm các yếu tố nhƣ không gian – thời gian thực hiện cuộc
chơi, mục tiêu và văn cảnh của cuộc chơi, ngƣời tham dự cuộc chơi.
+ Trong cuộc sống hàng ngày, sân chơi là bất cứ đâu thuộc không gian sống nhƣ
triền đê, bãi cỏ, dƣới gốc cây, trong nhà, ngoài sân … Ngƣời lớn chơi vào lúc rỗi rãi
và hay chọn những trò chơi ít tốn sức, mang tính giải trí thuần túy. Trẻ em chơi suốt

ngày theo từng nhóm với rất nhiều trò của riêng chúng.
+ Trò chơi diễn ra ở sân chơi hội hè có nhiều điểm khác trò chơi ngày thƣờng.
Nếu trò chơi ngày thƣờng có tính chất giải trí thuần túy thì trò chơi ngày hội luôn
mang một ý nghĩa nào đó hay ngƣời ta tham gia cuộc chơi để thể hiện một ý nghĩa
nào đó. Những cuộc chơi ngày thƣờng không theo một trật tự nào và không do cộng
đồng tổ chức. Trong khi đó chơi trong lễ hội đƣợc sắp xếp nhƣ một mắt xích thuộc
nghi thức ngày hội và là yếu tố tạo nên cấu trúc hoàn chỉnh của lễ hội ấy. Phần lớn
trò chơi trong lễ hội có tính tinh hoa, đại diện cho cộng đồng và hƣớng tới lợi ích
chung của cộng đồng.
-

Đặc điểm đồ chơi và cách chơi của Trò chơi dân gian:

+ Đặc điểm của đồ chơi: đồ chơi hay vật chơi là những vật dụng hoặc nguyên
liệu có tính cơ sở vật chất trực tiếp cho trò chơi. Đồ chơi của trò chơi dân gian hết
sức phong phú, đƣợc tạo ra bởi các cách chế tác chuyên dụng hoặc sử dụng trực tiếp
những thứ sẵn có trong thiên nhiên, vật dụng trong sản xuất hay sinh hoạt thông
thƣờng, để làm đồ chơi. Ngoại trừ một số vật chơi đƣợc chế tác tốn nhiều tiền và
công sức nhƣ thuyền đua chuyên dụng loại lớn hay những cây thế nhiều năm tuổi…
đồ chơi cho các trò chơi dân gian về cơ bản là đơn giản, tự làm đƣợc, không tốn
22


kém, chất liệu sẵn có ở xung quanh, phù hợp với sân chơi ngay trong không gian
sinh sống.
+ Đặc điểm về cách chơi: Cách chơi hay quy tắc chơi trò chơi dân gian là yếu tố
quan trọng tạo nên màu sắc và tính độc đáo của trò. Chính quy tắc chơi đã xác lập
khung diện mạo của một loại trò nhất định. Có thể khái quát một số đặc điểm về
quy tắc trong trò chơi dân gian nhƣ sau:



Thứ nhất, quy tắc của nhóm trò có tính nghi thức diễn ra trong hội làng chủ

yếu nhằm phục vụ cho mục đích chính của việc mở hội mà không phải dành riêng
chỉ cho cuộc chơi ấy.


Thứ hai, quy tắc nhằm tạo ra tính ngẫu hứng và tự do thể hiện của ngƣời

chơi, gây hƣng phấn cho cả cộng đồng tham dự.


Thứ ba, quy tắc tạo ra cơ hội cho hầu hết mọi ngƣời đều có thể tham dự.



Thứ tƣ, quy tắc đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng, phải là cùng chơi, không

chơi độc tuyến, đơn lẻ.
Một số đặc điểm về nguồn gốc, sân chơi, đồ chơi và cách chơi nêu trên của trò
chơi dân gian còn nguyên ý nghĩa xã hội trong đƣơng đại, sẽ gợi ý và tạo nguồn
cảm hứng vô tận cho việc khai thác, sáng tạo trò chơi cho cộng đồng.
1.1.2.2.

Vai trò của Trò chơi dân gian đối với sự phát triển du lịch:

Tuy nhiên, để khai thác trò chơi dân gian phục vụ cho sự phát triển du lịch,
cần phải xác định đƣợc rõ ràng vai trò của nó trong việc giúp làm nên một sản phẩm
du lịch có giá trị.



Trƣớc tiên, cần xét đến vai trò của trò chơi dân gian trong việc kích thích nhu

cầu đi du lịch của du khách.
Trong nghiên cứu của Maslow về các nấc thang nhu cầu của con ngƣời khi đi
du lịch, ông cho rằng, sau khi đã thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu liên quan đến sinh
lý và sự đảm bảo đƣợc an toàn, con ngƣời sẽ có các nhu cầu liên quan đến tình cảm
nhƣ đƣợc khơi dậy sự hứng khởi, thể hiện tình yêu thƣơng trong sự liên kết với
ngƣời khác,… Chính khi tham gia vào các trò chơi dân gian với sự sôi động và tính
tập thể, cộng đồng vốn có của nó, con ngƣời sẽ xích lại gần nhau hơn, tăng tính
23


đoàn kết cộng đồng. Cùng với đó, sự khám phá bức tranh văn hóa thông qua mỗi trò
chơi dân gian cũng khơi gợi những cảm xúc nhất định trong du khách về những thời
đại đã qua, những con ngƣời xƣa cũ. Cũng trong nghiên cứu này, sau khi thỏa mãn
nhu cầu tình cảm, con ngƣời sẽ có mong muốn đƣợc thể hiện uy tín trong việc đƣợc
phát huy và thể hiện toàn bộ sự khéo léo cả về thể chất cũng nhƣ trí tuệ. Mỗi trò
chơi dân gian là một cơ hội để con ngƣời rèn luyện sự dẻo dai của thể chất, sự thông
tuệ của tinh thần và là cơ hội để mỗi ngƣời bộc lộ hết khả năng vốn có của mình.
Thông qua đó, mỗi cá nhân sau khi tham gia vào các trò chơi dân gian, sẽ đạt đến
nấc thang nhu cầu cao nhất, theo Maslow là sự tự đổi mới và hoàn thiện bản thân.
Nhƣ vậy, trò chơi dân gian với các ý nghĩa của nó, chính là động cơ làm nên nhu
cầu tự thân, kích thích con ngƣời đi du lịch để hòa mình vào loại hình sinh hoạt văn
hóa đặc sắc này.

Mô hình 1.1: Nấc thang nhu cầu đi du lịch của con người – Maslow
Nhƣng để động cơ biến thành quyết định đi du lịch, sản phẩm du lịch còn phải
phù hợp với những điều kiện vật chất hiện có của du khách. Bản thân trò chơi dân
gian với dụng cụ chơi giản dị, đơn sơ, thƣờng tự chế và sẵn có trong tự nhiên sẽ là

một hình thức tiêu khiển ít tốn kém với du khách so với những trò chơi hiện đại sử
24


dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, tham gia vào một trò chơi dân gian là một quá
trình từ giai đoạn chuẩn bị, làm đồ chơi, dọn sân chơi… cho đến giai đoạn kết thúc
là đánh giá và tôn vinh, nên thời gian mà du khách dành cho trò chơi dân gian sẽ là
một sự hòa nhập trọn vẹn vào đời sống sinh hoạt của cộng đồng địa phƣơng, trải
nghiệm thực sự những cung bậc cảm xúc mà điểm đến mang lại. Du khách sẽ không
có cảm giác lãng phí thời gian nhàn rỗi hiếm hoi ngoài giờ làm việc tại điểm đến du
lịch này.
Với những giá trị to lớn này, nếu đƣợc khách du lịch nhận thức ra, trò chơi dân
gian hoàn toàn có thể kích thích nhu cầu đi du lịch tới địa phƣơng tổ chức các hoạt
động này.


Để đáp ứng đƣợc nhu cầu của du khách, trò chơi dân gian cũng tụ hội đủ các

điều kiện để khởi tạo khả năng cung ứng tại điểm.
Nếu nhƣ tài nguyên là yếu tố mấu chốt hình thành điểm du lịch thì trò chơi
dân gian là nguồn tài nguyên văn hóa nhân văn vô tận mà các nhà cung ứng du lịch
có thể khai thác. Cùng với các di sản văn hóa vật thể nhƣ các di tích lịch sử, các
công trình tín ngƣỡng – tâm linh… trò chơi dân gian nhƣ một phần của di sản văn
hóa phi vật thể cũng là một mảng màu làm nên bức tranh văn hóa vùng. Nằm trong
hệ thống các di sản văn hóa phi vật thể, nếu nhƣ phải mất một khoảng thời gian dài
sống tại địa phƣơng để một ngƣời từ nơi khác đến thẩm thấu bản sắc văn hóa vùng
qua lối sống, phong tục hay các hình thức sinh hoạt nghệ thuật thì chỉ cần tham gia
vào một trò chơi dân gian trong một thời gian ngắn, du khách có thể cảm nhận đƣợc
ngay tập quán văn hóa bản địa. Sự phong phú của nền văn hóa bản địa thể hiện
trong kho tàng trò chơi dân gian. Và mỗi trò chơi dân gian là một dấu ấn khác biệt

về văn hóa vùng miền. Bởi vậy để du khách có thể chiêm ngƣỡng một cách trọn vẹn
toàn bộ bức tranh văn hóa vùng thì các nhà cung ứng dịch vụ không thể không quan
tâm đến vai trò của trò chơi dân gian nhƣ một phần của tài nguyên du lịch.
Nếu nhƣ một sản phẩm du lịch không chỉ đƣợc cấu thành bởi tài nguyên mà
còn bởi các hoạt động dịch vụ bổ sung tại điểm phục vụ nhu cầu của du khách thì
trò chơi dân gian bên cạnh giá trị của tài nguyên văn hóa phi vật thể còn đóng vai
25


×