Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.97 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 19-5-1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh tổ chức UNESCO đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân
văn hoá thế giới trong thế kỷ XX - anh hùng giải phóng dân tộc. Đây là niềm
vinh hạnh đối với dân tộc ta mà Bác Hồ kính yêu đã đem lại. Đây còn là sự
ghi nhận những đóng góp kiệt xuất của lãnh tụ Hồ Chí Minh vào phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới đƣợc loài ngƣời tiến bộ ngƣỡng mộ.
Tƣ tƣởng của Ngƣời bao gồm một số nội dung cơ bản nhƣ: giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nƣớc thật sự của dân, do dân, vì dân;
quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân; phát triển kinh
tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; đại đoàn kết dân tộc; đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tƣ; chăm lo bồi dƣỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy
tớ trung thành của nhân dân… Trong những tƣ tƣởng đó, tƣ tƣởng đại đoàn
kết dân tộc là nét nổi bật xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động và hệ thống tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, và nó đã trở thành một di sản quý giá cho dân tộc Việt
Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nƣớc.
Tiếp tục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ
Chí Minh đã chọn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tƣ tƣởng và kim chỉ nam cho hành động” trong công cuộc lãnh đạo toàn dân
tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1


Tƣ tƣởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kế thừa tƣ tƣởng


đoàn kết truyền thống dân tộc, là sự vận dụng tƣ tƣởng đoàn kết của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam nhƣng đồng thời nó còn thể hiện
tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của Ngƣời. Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt
Nam đã chứng minh tƣ tƣởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã góp
phần không nhỏ vào sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong giai đoạn xây dựng
đất nƣớc hiện nay.
Ngày nay, khi đất nƣớc ta đang trong thời kỳ đổi mới Đại hội X của
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “nƣớc ta đang đứng trƣớc nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không
thể coi thƣờng bất cứ một thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại, tình trạng
suy thoái về chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang
diễn ra nghiêm trọng chƣa đƣợc ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa
rời mục tiêu, lý tƣởng của chủ nghĩa xã hội chƣa đƣợc khắc phục. Các thế lực
thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mƣu “Diễn biến hòa bình”, gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, “nhân quyền” “dân tộc” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nƣớc ta” Vì vậy, tƣ tƣởng đại đoàn kết của ngƣời
lại càng có giá trị lý luận và thực tiễn hơn bao giờ hết. Chính vì vậy tác giả
chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”. Làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung quan trọng trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh. Cho nên đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, nghiên cứu. Một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu nhƣ: Phùng Hữu Phú “Chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí

2



Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Phạm Ngọc Quang
“Hồ Chí Minh với việc xây dựng đảng ta về trí tuệ”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994; Nhiều tác giả “Góp phần tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1992; Nguyễn Bá Linh “Tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh một số nội dung cơ bản”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; Lê Sỹ Thắng “Góp phần tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991; UBTWMTTQ Việt Nam “Tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và mặt trân dân tộc thống nhất”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996; Viện Thông tin Khoa học xã hội - Viện
Khoa học xã hội Việt Nam “Giá trị tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày
nay” qua sách báo nƣớc ngoài, Hà Nội, 1993; luận văn Thạc sĩ Triết học của
Đinh Việt Hải “Tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”,
1998; Hoàng Thị Điều luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quá trình thực hiện chiến
lƣợc đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm
1976-1994”.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã đƣợc tiếp cận,
nghiên cứu từ nhiều hƣớng khác nhau nhƣng tập trung chủ yếu vào các nội
dung sau:
- Cơ sở lý luận hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh: Truyền thống văn
hoá dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Vai trò của Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân trong cách mạng Việt Nam.
- Vấn đề đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc. Cộng đồng dân tộc Việt
Nam đoàn kết với cộng đồng dân cƣ theo đạo.
- Vấn đề phát triển, vận dụng tƣ tƣởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp xây dựng đất nƣớc hiện nay.
Nhƣ vậy, vấn đề đại đoàn kết dân tộc đã đƣợc nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết đề cập đến. Tuy nhiên do giá trị lý luận cũng nhƣ thực tiễn lớn


3


lao của tƣ tƣởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh nên vẫn còn mở ra nhiều
vấn đề tiếp tục nghiên cứu. Hơn nữa hầu nhƣ chƣa có công trình, đề tài khoa
học hay bài viết nào tập trung nghiên cứu “tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Luận văn phân tích và làm rõ tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc. Trên cơ sở này rút ra ý nghĩa của chúng trong giai đoạn
cách mạng ở nƣớc ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Trình bày khái quát những điều kiện lịch sử, tiền đề hình thành nên tƣ
tƣởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Phân tích những quan điểm, sách lƣợc, chiến lƣợc về đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh.
Làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tƣ tƣởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong giai đoạn xây dựng đất nƣớc hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc.
* Phạm vi nghiên cứu: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Tài liệu nghiên cứu: Luận văn khai thác nguồn tài liệu phong phú
gồm: Tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin; Văn kiện Đại hội Đảng
cộng sản Việt Nam VI, VII, VIII, IX, X; các ấn phẩm sách, báo, tạp chí bàn
về vấn đề đại đoàn kết dân tộc; các công trình nghiên cứu các luận văn, luận
án có liên quan đến đề tài…


4


* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đƣợc thực hiện chủ yếu bằng
phƣơng pháp lịch sử và logic, kết hợp với phƣơng pháp phân tích - tổng hợp,
thống kê, so sánh, đối chiếu…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày có hệ thống những quan điểm chiến lƣợc, sách lƣợc
đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh.
Luận văn chỉ ra đƣợc những thành công trong việc vận dụng tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chƣơng, kết luận, danh mục và các tài
liệu tham khảo.
Chương 1: Những tiền đề hình thành tƣ tƣởng đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh.
Chương 2: Đại đoàn kết dân tộc trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Chương 3: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt nam về tƣ tƣởng đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong giai đoạn xây dựng đất nƣớc hiện
nay.

5


Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH

1.1. Tiền đề lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam,

ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do
cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX cho đến khi Pháp xâm lƣợc vẫn là một xã
hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ đƣợc triều đại Tây
Sơn, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại
bảo thủ, phản động: tăng cƣờng đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế
quan toả cảng ở bên ngoài nên đã không mở ra đƣợc khả năng cho Việt Nam
cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì vậy đã không
phát huy đƣợc những thế mạnh của dân tộc và đất nƣớc, không tạo ra đƣợc
tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc. Chống lại âm mƣu xâm
lƣợc của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây.
Từ giữa thế kỷ XIX trở đi, trƣớc nguy cơ nền độc lập dân tộc có khả
năng bị thủ tiêu, nhân dân Việt Nam đã anh dũng kháng chiến mạnh mẽ ngay
từ đầu và quyết tâm chiến đấu dến thắng lợi cuối cùng. Trái lại triều đình nhà
Nguyễn, trong thì sợ nhân dân ngoài thì bạc nhƣợc trƣớc kẻ thù, lúc đầu có
chống cự yếu ớt, sau đã từng bƣớc nhân nhƣợng, cầu hoà, cuối cùng là cam
chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc.
Xâm lƣợc xong Việt Nam, ngay trong bƣớc đầu thiết lập nền thống trị,
thực dân Pháp đã tính ngay đến việc chia rẽ nhân dân Việt Nam. Đây là một
trong những chính sách căn bản, xuyên suốt trong quá trình cai trị của chúng chính sách: chia để trị. Bằng sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 17-10-1887
Liên bang Đông Dƣơng ra đời gồm Việt Nam, Campuchia, Lào (1889).

6


Quảng Châu Loan (từ 1900). Từ đó, nƣớc ta bị xoá tên trên bản đồ chính trị
thế giới. Nƣớc Việt Nam thống nhất từ Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau bị chia
thành 3 xứ với chế độ cai trị khác nhau: Nam kỳ là đất thuộc địa, Bắc kỳ là xứ
bảo hộ và Trung kỳ là xứ lƣỡng trị. Sự phân chia đó hòng xoá bỏ tính thống
nhất, truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Không dừng

lại ở đấy, thực dân Pháp đã áp dụng nguyên tắc chia để trị trong tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Với các chƣơng trình khai thác
thuộc địa xã hội truyền thống Việt Nam đã bị sự tác động mạnh mẽ. Một cơ
cấu xã hội mới hình thành, chồng lên trên xã hội truyền thống với những tôn
giáo, những tập tục, những lề thói hết sức đa dạng. Một xã hội phƣơng Đông
nhƣ nƣớc ta vốn đã tồn tại những khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, về phong
tục tập quán, cộng thêm những khác biệt mà thực dân Pháp cố tạo ra thì đó
chính là mảnh đất màu mỡ cho chính sách chia để trị đơm hoa, kết quả.
Chống lại chính sách thâm độc đó của thực dân Pháp, phong trào chống
Pháp dƣới nhiều hình thức khác nhau chƣa bao giờ ngừng nghỉ trên đất nƣớc
ta. Từ phong trào cần Vƣơng trong hệ tƣ tƣởng phong kiến cuối thế kỷ XIX
qua các phong trào Đông Du, Duy Tân theo xu hƣớng tƣ sản nửa thế kỷ XX
đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Các bậc anh hùng nghĩa hiệp thừa lòng yêu
nƣớc và lòng quả cảm, nhƣng trƣớc sau đều phải nhận lấy thất bại xót xa.
Trong các phong trào chống Pháp từ đầu thế kỷ XX trở về trƣớc, xét
trên bình diện hệ tƣ tƣởng có hai hình thức đó là: Hệ tƣ tƣởng phong kiến và
hệ tƣ tƣởng tƣ sản.
Sự thất bại của các phong trào chống Pháp thời kỳ đầu có nét đặc trƣng
riêng là do sự ràng buộc tƣ tƣởng trung quân đã làm vƣớng víu tầm nhìn của
các văn thân sĩ phu, làm cho họ phân hoá thành 2 cực đối lập nhau, không có
đƣợc sự thống nhất về ý chí và hành động. Các phong trào chống Pháp ở thời
kỳ sau cũng chịu chung số phận nhƣ các phong trào trƣớc đó chính là vì
những ngƣời dẫn đầu không thấy đƣợc bản chất của chế độ thuộc địa nên

7


không thể chỉ ra một cách đúng đắn đối tƣợng cần tập trung lực lƣợng để
đánh đổ. Dù vậy, các phong trào chống Pháp có hai thời kỳ có chung một
điểm yếu xuyên suốt, đó là sự thiếu vắng tổ chức chặt chẽ. Thời đại mới đòi

hỏi một con ngƣời hội tụ mọi tinh hoa của dân tộc, có khả năng giải quyết
thắng lợi mọi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra. Trong bối cảnh cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra một Nguyễn Tất
Thành. Trong buổi đầu tuy chƣa biết một con đƣờng cứu nƣớc mới, nhƣng
với lòng yêu nƣớc và tƣ duy độc lập của mình, Nguyễn Tất Thành đã nhận
thấy rằng muốn cứu nƣớc giành lại nền độc lập dân tộc, không thể tiếp tục các
con đƣờng đấu tranh theo kiểu cũ, mà phải tìm con đƣờng mới trên cơ sở tập
hợp huy động đƣợc sức mạnh của nhân dân Việt Nam. Dần dần Ngƣời cũng
nhận thấy sự đoàn kết của các dân tộc bị chủ nghĩa tƣ bản đế quốc thống trị.
1.2. Truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá
nhân loại
1.2.1. Truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta đƣợc kết tinh
trong suốt quá trình lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đại đoàn kết từ xa xƣa
cho tới nay luôn mang theo tƣ tƣởng lấy dân làm gốc, lấy hoà hợp đoàn kết
làm sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng địch hoạ thiên tai. Đại đoàn kết
dung nạp tính phong phú đa dạng của cơ cấu xã hội và tinh thần yêu nƣớc
khoan dung, vị tha, nhân ái, trọng dụng tài năng, thƣơng ngƣời hoạn nạn. Tƣ
tƣởng đó trở thành ngọn cờ đại nghĩa, qua nhiều triều đại nó đƣợc kết tinh
thành một giá trị, một ƣu thế thiêng liêng bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam tuy là một nƣớc có nhiều dân tộc, nhƣng đều chung sống
trong lịch sử và ngày càng gắn bó với nhau trong công cuộc dựng nƣớc và giữ
nƣớc. Quá trình ấy tạo nên một lịch sử, chung một truyền thống, chung một
tiếng nói. Các tộc ngƣời vẫn duy trì và phát triển các đặc điểm riêng của
mình. Đất nƣớc ta một dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa,

8


quay mặt ra biển Đông, tựa lƣng vào Trƣờng Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa

lý, tự nhiên và vị trí quan trọng của mảnh đất này, những cƣ dân ngƣời Việt từ
thời xa xƣa vừa đƣợc thừa hƣởng sự ƣu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với
những thử thách khắc nghiệt của thiên tai, địch hoạ. Lịch sử dựng nƣớc và giữ
nƣớc diễn ra trên mảnh đất này là sự tiếp nối hàng ngàn năm những cuộc đấu
tranh không mệt mỏi chống hạn hán, lũ lụt, chống chiến tranh xâm lƣợc của
các thế lực bên ngoài. Từ trong cuộc đấu tranh trƣờng kỳ đó đã sớm nảy sinh
và định hình ý thức dân tộc. Ý thức này ngấm vào máu thịt của con ngƣời
Việt Nam và đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền
thống đoàn kết, nhân nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nƣớc. Trong nền văn
hoá cổ truyền, ngƣời Việt yêu nƣớc trƣớc rồi yêu nhà sau: thƣơng ngƣời trƣớc
rồi thƣơng mình sau. Câu ca dao “Bầu ơi thƣơng lấy bí cùng. Tuy rằng khác
giống nhƣng chung một giàn” và “Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng. Ngƣời trong
một nƣớc thì thƣơng nhau cùng”, gắn liền với quá trình sản xuất, chiến đấu,
sinh tồn và giao tiếp của nhiều thế hệ ngƣời sống trong một địa văn hoá khắc
nghiệt, có lịch sử dựng nƣớc, giữ nƣớc vô cùng hào hùng và sôi động. Sự cố
kết cộng đồng, sự đoàn kết các thành viên các dân tộc trong làm ăn và bảo vệ
nền độc lập dân tộc đã hình thành nhƣ một xu thế tất yếu khách quan: “Một
cây làm chẳng lên non. Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”. Có thể gọi đó là
triết lý nhân sinh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một lẽ sống của các
cộng đồng.
Những giá trị nhân bản sâu sắc và quý giá không chỉ phản ánh trong
kho tàng văn học dân gian mà còn đƣợc những ngƣời anh hùng dân tộc (Trần
Hƣng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi…) đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm,
thành phép trị nƣớc và đánh giặc: “Khoan thƣ sức dân làm kế sâu về bền”,
“Trên dƣới đồng lòng cả nƣớc chung sức”… Truyền thống dân tộc nói chung,
truyền thống đoàn kết đã đƣợc kế thừa và phát huy trong sự nghiệp dựng
nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân Việt Nam. Tiếp thu quan điểm Mácxít,

9



Lêninnít về truyền thống yêu nƣớc của dân tộc ta là sự chỉ rõ xuyên suốt chiều
dài lịch sử Việt Nam, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì truyền thống ấy trỗi
dậy quét sạch bè lũ bán nƣớc và cƣớp nƣớc. Vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, sức mạnh của đoàn kết dân tộc, giai cấp và nhân loại tiến bộ. Hồ
Chí Minh đã nhìn thấy rõ giá trị của bài học lịch sử về đoàn kết. Kết thúc
quyển “Lịch sử nƣớc ta” 1941 Ngƣời căn dặn: “Dân ta xin nhớ chữ Đồng.
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [21, tr.229].
Cùng với truyền thống dân tộc, truyền thống quê hƣơng đã tạo nên
nhân tố đầu tiên tác động đến quá trình đƣa ra tƣ tƣởng chiến lƣợc đại đoàn
kết của Nguyễn Ái Quốc.
1.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Những giá trị nhân bản trong văn hoá phƣơng Đông và phƣơng Tây và
tƣ tƣởng tập hợp lực lƣợng của các nhà cách mạng lớn ở khu vực, trên thế
giới cũng là những cơ sở quan trọng giúp Hồ Chí Minh xây dựng chiến lƣợc
đại đoàn kết của mình. Sinh trƣởng trong một gia đình nhà nho yêu nƣớc, Hồ
Chí Minh sớm có điều kiện tiếp xúc với những giá trị văn hoá phƣơng Đông
trong đó có những giá trị nhân bản của nho giáo, phật giáo. Trong tƣ tƣởng
nho giáo có nhiều nội dung nhƣng nổi bật là tƣ tƣởng đại đồng, tƣ tƣởng nhân
ái và luận lý yêu thƣơng (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của nho giáo và những yếu
tố đƣợc Hồ Chí Minh tiếp thu, cải biến, cách mạng hoá trong quá trình xây
dựng chiến lƣợc đại đoàn kết của mình. Với phật giáo Hồ Chí Minh trong
hoạt động cách mạng của mình, có mối quan hệ với phật giáo và trong tƣ
tƣởng của Ngƣời có nét gần gũi với triết lý nhà phật. Thích Minh Trí và
Phùng Hữu Phú đã đối chiếu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh với triết lý phật giáo và
rút ra một số điểm:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh một tấm gƣơng đạo đức nhân bản, có hạnh vô
ngã, hạnh hiếu sinh, hạnh tinh tấn, đức hạnh tự giác, giác tha và có tinh thần
lục hoà trong tƣ tƣởng và phƣơng pháp Hồ Chí Minh” [48, tr.448].


10


Trong những vấn đề nói trên, trực tiếp liên quan đến chiến lƣợc đại
đoàn kết Hồ Chí Minh chính là tinh thần “Lục hoà” có hoà thuận mới có tin
yêu và đoàn kết “lục hoà” bao gồm: Thân hoà đồng trụ, lời nói hoà hợp không
tranh cãi, ý hoà đồng duyệt, giới hoà đồng tu, kiến hoà đồng giải (thấy biết
giãi bày cho nhau hiểu), lợi hoà đồng quân (lợi hoà cùng chia cân nhau).
Có thể nói lục hoà chính là cơ sở của đoàn kết và đạo phật tồn tại, phát
triển hàng ngàn năm nay cũng chính là dựa vào đƣờng lối của “Lục hoà”.
Cũng nhƣ triết lý đại đồng và tinh thần lục hoà của đạo phật, tiếp thu truyền
thống tƣơng thân tƣơng ái của dân tộc Hồ Chí Minh đã sớm hình thành tƣ
tƣởng đại đoàn kết và nâng tƣ tƣởng đó lên tầm cao của chiến lƣợc cách
mạng.
Là một ngƣời Phƣơng Đông song ngay từ lúc ngồi trên ghế nhà trƣờng
và sau này trong cuộc đời hoạt động của Ngƣời lại gắn với môi trƣờng
phƣơng Tây và do vậy Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều giá trị nhân bản trong
nền văn hoá phƣơng Tây. Năm 13 tuổi đã biết đến tƣ tƣởng tự do, bình đẳng,
bác ái đƣợc ghi trên lá cờ của các cao trào lƣu tƣ tƣởng phƣơng Tây và những
tƣ tƣởng đó đƣợc Ngƣời tìm hiểu, kiểm chứng trong suốt 30 năm bôn ba hải
ngoại. Trong số các tác phẩm, tác giả mà Hồ Chí Minh yêu thích có nhiều tác
giả, tác phẩm là đại diện cho các trào lƣu dân chủ tƣ sản tiến bộ của Phƣơng
Tây: Vonte, Rutxô, Víchto Huygô… và ngay trong những dòng đầu tiên của
tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh đã nhắc lại những lời bất hủ trong tuyên
ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của
Pháp năm 1791. Ở Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa cốt sách phƣơng
Đông và phong cách phƣơng Tây. Ngoài ra chúng ta có thể thấy Nguyễn Ái
Quốc trong quá trình xây dựng đƣờng lối cứu nƣớc, đã tham khảo các tƣ
tƣởng tập hợp cách mạng của các nhà cách mạng lớn trên thế giới, ở khu vực.
Hồ Chí Minh nhắc tới hai nhân vật: Tôn Dật Tiên và Mahatma Gandhi và tìm

thấy trong đó những điều kiện thích hợp với nƣớc ta.

11


1.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Truyền thống dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại là cơ sở
góp phần hình thành chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh, nhƣng chủ nghĩa
Mác-Lênin là cơ sở tƣ tƣởng, lý luận quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác-Lênin
đã cho Hồ Chí Minh nhận thức đƣợc về thế giới quan và phƣơng pháp luận.
Đó là thế giới quan duy vật và phƣơng pháp biện chứng. Từ đó vận dụng sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, giúp Ngƣời
từng bƣớc vạch ra đƣờng lối cứu nƣớc và chiến lƣợc đại đoàn kết phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử nƣớc ta đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác-Lênin dạy rằng:
Giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất, có sứ mệnh lịch sử giải phóng xã
hội loài ngƣời. Đây là nhiệm vụ lâu dài đòi hỏi phải có chiến lƣợc, sách lƣợc
cách mạng đúng đắn, sức mạnh đoàn kết trƣớc hết là đoàn kết trong nội bộ
giai cấp vô sản. Chính Mác-Ăngghen trong khi nói tới sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản thì cũng đồng thời đề cập ngay đến vấn đề tập hợp lực lƣợng
cách mạng quốc tế. Hai ông sáng lập ra đồng minh những ngƣời cộng sản và
soạn thảo bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khẩu hiệu “Vô sản tất cả các
nƣớc đoàn kết lại”. Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng sự đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế trong hoạt động lý luận cũng nhƣ thực tiễn cách mạng tƣ tƣởng
của Mác-Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một giai cấp
đại diện cho một phƣơng pháp sản xuất mới, là lực lƣợng tiến bộ và cách
mạng nhất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ đoàn kết giai
cấp mình, nhân dân mình mà còn nhiệm vụ đoàn kết giai cấp vô sản các nƣớc.
Sự đoàn kết đó xuất phát từ chỗ họ cùng mục đích chung, kẻ thù chung
“Trong các cuộc đấu tranh của những ngƣời vô sản thuộc các dân tộc khác
nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân

tộc, họ luôn luôn đại diện cho lợi ích của toàn bộ phong trào” [14, tr.614].
Đến đầu thế kỷ XX, Lênin ngƣời sáng lập đảng Bônsêvích Nga, bằng
sức mạnh của sự đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc đã tổ chức, lãnh đạo cuộc

12


Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mƣời vĩ đại năm 1917. Trong chiến lƣợc
cách mạng Lênin đã phát triển quan điểm của Mác-Ăngghen về đoàn kết
trong điều kiện lịch sử mới. Lênin đƣa ra khẩu hiệu “vô sản tất cả các nƣớc và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Nguyễn Ái Quốc tìm thấy trong khẩu hiệu
chiến lƣợc ấy không chỉ sức mạnh vô địch của giai cấp vô sản, mà còn là sức
mạnh của hàng triệu con ngƣời đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đế quốc
để giành tự do, hạnh phúc.
Chính Lênin là hiện thân của khối đoàn kết vô sản quốc tế và các dân
tộc bị áp bức, nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ
phong kiến. Lênin cũng là ngƣời đề ra các nguyên tắc xây dựng đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, trong đó có nguyên tắc về sự thống nhất,
đoàn kết về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức là nhân tố bảo đảm sự sống còn của
Đảng, hạt nhân của đoàn kết quốc tế, đoàn kết dân tộc. Một câu hỏi lớn đặt ra
trên đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác-Lênin lời giải đáp rõ ràng và đúng đắn là cội nguồn sức mạnh của
cách mạng, lực lƣợng cách mạng là ai, những giai cấp nào. Đó cũng là điều
chƣa giải đáp đƣợc ở các sỹ phu yêu nƣớc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX dù rằng họ có một lòng với non sông, đất nƣớc, thừa dũng khí quả
cảm, không tiếc thân mình. Phát triển quan điểm của C.Mác về khả năng kết
hợp cách mạng vô sản với “chiến tranh nông dân”, V.Lênin đã đi tới một kết
luận quan trọng: thiết lập khối liên minh chặt chẽ giữa giai cấp vô sản với
nhân dân lao động. Đó là điều kiện căn bản bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
Giá trị ở chỗ sự liên kết của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học không

chỉ với giai cấp công nhân mà còn với cả các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
tạo nên sự thống nhất trong phong trào cách mạng vô sản ở chính quốc với
cách mạng giải phóng dân tộc. Sự kiện này đã đánh dấu bƣớc chuyển biến về
chất trong tƣ tƣởng Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nƣớc đến chủ nghĩa
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ ngƣời yêu nƣớc trở thành

13


ngƣời cộng sản. Là nhà lý luận thiên tài và nhà tổ chức thực tiễn xuất sắc,
Lênin đã thể hiện tƣ tƣởng liên minh công nông vào thực tiễn bằng đƣờng lối
giai cấp của cách mạng dân chủ tƣ sản Nga những năm 1905 và tháng 2 năm
1917, cũng nhƣ sau đó trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mƣời năm
1917 vĩ đại. Đó là giai cấp vô sản Nga phải liên minh với nông dân ở cách
mạng dân chủ tƣ sản và nông dân nghèo trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đƣờng lối giai cấp ấy đã trở thành sức mạnh vật chất to lớn của khối
liên minh giai cấp công nhân và nông dân, làm nên thắng lợi của cuộc cách
mạng dân chủ tƣ sản tháng hai năm 1917 và Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mƣời cùng năm.
Hồ Chí Minh là ngƣời cùng thời của các sự kiện ấy sau này trong
những năm tháng sống và làm việc ở Matxcơva, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
những tác phẩm lý luận của Lênin và còn là ngƣời chứng kiến tận mắt những
thắng lợi của tƣ tƣởng liên minh công nông trong thời kỳ chính sách kinh tế
mới (NEP) và những thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh còn đƣợc biết tới những chỉ dẫn cụ thể của V.I.Lênin đối
với ngƣời cộng sản ở các nƣớc phƣơng Đông thuộc địa và phụ thuộc: “trƣớc
mắt các bạn đang có nhiệm vụ mà trƣớc kia những ngƣời cộng sản toàn thế
giới không có. Dựa vào lý luận thực tiễn chung của chủ nghĩa cộng sản, áp
dụng những điều kiện đặc biệt không có ở các nƣớc châu Âu, các bạn phải
biết vận dụng lý luận và thực tiễn ấy vào điều kiện khi mà nông dân là quần

chúng cơ bản, khi cần phải giải quyết nhiệm vụ đấu tranh không phải là chống
tƣ bản, mà là chống những tàn tích của thời trung cổ” [44, tr.131]. Từ những
tƣ tƣởng của V.Lênin và những kinh nghiệm thành công cũng nhƣ thất bại
trong phong trào cách mạng các nƣớc, Hồ Chí Minh đi tới những kết luận
khẳng định về sức mạnh của cách mạng nƣớc ta. Cuốn “Đƣờng cách mệnh”
của ngƣời đã viết “công nông là ngƣời chủ cách mệnh”. Nhƣ vậy nhờ tiếp thu
chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã có một cách nhìn khác biệt căn bản về

14


lực lƣợng cách mạng với các nhà yêu nƣớc trƣớc kia và cả một số nhà cách
mạng Châu Á đƣơng thời. Từ luận điểm của Lênin đối với phong trào cách
mạng ở các nƣớc thuộc địa “Đặc điểm chủ yếu của những nƣớc đó là ở chỗ
những quan niệm tiền tƣ bản chủ nghĩa hay còn thống trị ở đây, và vì thế ở
đây không thể nói đến phong trào thuần tuý vô sản đƣợc” và “nhất thiết phải
đặc biệt ủng hộ phong trào nông dân” [11, tr.293]. Hồ Chí Minh đã đề ra
đƣờng lối chiến lƣợc và sách lƣợc trong Chính cƣơng vắn tắt và sách lƣợc vắn
tắt của Đảng là làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Nhƣ vậy, trong vấn đề dân tộc và quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc những luận điểm của Lênin, vận
dụng một cách sáng tạo và phát triển đúng đắn với một bản lĩnh chính trị
vững vàng và kiên định. Tóm lại quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về đại đoàn kết dân tộc là tiền đề hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là ngƣời sáng tạo ra lịch sử, giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc liên minh công nông là
cơ sở để xây dựng lực lƣợng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn
với đoàn kết quốc tế.
Có thể khẳng đinh rằng, trong các cơ sở thực tiễn và lý luận hình thành
nên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc thì yếu tố tiếp thu, phát

triển lý luận Mác-Lênin về đại đoàn kết là cơ sở lý luận quan trọng nhất đánh
dấu sự phát triển về chất của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói chung và về đoàn kết
nói riêng. Nhƣ Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: “Bƣớc ngoặt đó đánh
dấu sự định hình và khẳng định tƣ tƣởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tƣ tƣởng của
giai cấp vô sản - chủ nghĩa Mác-Lênin mang bản chất cách mạng và khoa học
triệt để” [9, tr.50].

15


1.4. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh trong quá trình hình
thành nên tư tưởng đại đoàn kết
Là ngƣời yêu nƣớc chân chính, là tƣợng trƣng cho sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lý tƣởng độc lập tự do với lý tƣởng xã hội chủ nghĩa, giữa chủ
nghĩa yêu nƣớc với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh đã suốt đời chăm
lo xây dựng củng cố và phát triển đoàn kết dân tộc. Nhìn một cách khái quát
có thể phân chia quá trình hình thành chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh
thành 2 thời kỳ lớn.
1. Thời kỳ hình thành tƣ tƣởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh (từ năm 1930
trở về trƣớc).
Từ lúc trƣởng thành ở Tổ quốc đến khi ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc và
cho tới khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là những năm tháng Hồ Chí Minh
tiếp thu một cách có chọn lọc trên tinh thần kế thừa và phê phán những giá trị
nhân bản của truyền thống dân tộc và văn hoá nhân loại, đồng thời khảo
nghiệm, đúc kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới, lấy đó
làm cơ sở định hƣớng tƣ tƣởng cứu nƣớc. Trong quá trình ra đi tìm đƣờng cứu
nƣớc. Nguyễn Tất Thành đã qua nhiều nƣớc tƣ bản, đế quốc, thuộc địa, phụ
thuộc. Ở đâu Anh cũng thấy nhân dân lao động khổ cực, nghèo đói nhƣ đồng
bào ở quê hƣơng. Họ đều có chung một nguyện vọng là thoát khỏi ách áp bức
bóc lột. Tiếp nhận tƣ tƣởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái

Quốc đã khái quát lý luận về sự đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc bằng luận
điểm: Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống ngƣời:
Giống ngƣời bị bóc lột và giống ngƣời bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình
hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản. Từ năm 1920 -> 1924 tƣ tƣởng đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản. Đó là nhận thức của
Ngƣời về sự cần thiết phải giác ngộ, tập hợp các dân tộc bị áp bức bóc lột ở
các nƣớc thuộc địa bằng một hệ tƣ tƣởng cách mạng tiên tiến chủ nghĩa MácLênin; là nhận thức của Ngƣời về sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ cách

16


mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Tháng 4 năm 1921, Tạp chí Cộng sản
số 14 (bằng tiếng Pháp) đã đăng bài Đông Dƣơng ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Đây là bài báo đầu tiên Ngƣời nêu lên sức mạnh đoàn kết và khả năng cách
mạng của đồng bào mình Ngƣời viết: “Không ngƣời Đông Dƣơng không
chết, ngƣời Đông Dƣơng vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của
bọn tƣ bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt
tƣ tƣởng cách mạng của ngƣời Đông Dƣơng. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
ngƣời Đông Dƣơng giấu một cái gì đó đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ƣu tú có nhiệm vụ phải thúc
đẩy cho thời cơ mau đến” [16, tr.28]. Từ năm 1925, mở đầu bằng sự kiện
thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” đến khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời là giai đoạn Hồ Chí Minh bổ sung, hoàn thiện các luận
điểm về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tạo thành một hệ thống các luận
điểm có ý nghĩa chiến lƣợc. Tác phẩm “Đƣờng cách mệnh” là tập hợp những
bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện cho các hội viên của “Hội
Việt Nam thanh niên cách mạng” do Ngƣời tổ chức. Trong cuốn sách này
Ngƣời nêu lên luận điểm về đoàn kết: “Phàm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé,
bất kỳ khó dễ, nếu không gia sức thì chắc không thành công. Việc gì khó cho

mấy, quyết tâm làm thì làm chắc đƣợc, ít ngƣời làm không nổi, cách mạng là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai ngƣời” [41,
tr.261-262]. Khi khẳng định cách mạng là sự nghiệp chung của quần chúng
nhân dân. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ khối quần chúng cần đƣợc tổ chức lại và để
lực lƣợng cách mạng mạnh hơn nhiều lần thì cần phải có Đảng lãnh đạo. Sự
đoàn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo sẽ làm rõ vai trò vị trí của các giai cấp,
tầng lớp xã hội trong cuộc đấu tranh chung. Theo Nguyễn Ái Quốc “Dân tộc
cách mệnh thì chƣa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thƣơng đều nhất trí
chống lại cƣờng quyền”. Trong đó công nông là “Gốc”, “chủ” của cách mạng,

17


“còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tƣ bản áp bức song không
cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông
thôi” [17, tr.206]. Tƣ tƣởng đoàn kết dân tộc đã có tác động to lớn trong việc
tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp yêu nƣớc đấu tranh chống Pháp, góp phần quan
trọng liên kết các cuộc đấu tranh của nông dân, công nhân, nhân dân lao động
nƣớc ta những năm 1925 - 1929 và trở thành tiền đề tƣ tƣởng cho các tổ chức
cộng sản ra đời ở Việt Nam vào những năm 1929, 1930 cần phải nhanh chóng
thống nhất để đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo phong trào cứu nƣớc của toàn dân.
2. Thời kỳ chuyển từ tƣ tƣởng đại đoàn kết thành chiến lƣợc đoàn kết
Hồ Chí Minh (từ 1930 đến 1969).
Đầu năm 1930 tại Cửu Long (Hƣơng Cảng - Hồng Kông, Trung Quốc),
Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Một trong
những thành công lớn nhất của hội nghị là đã thảo luận và nhất trí thông qua
các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cƣơng vắn tắt của Đảng,
điều lệ vắn tắt của Đảng, chƣơng trình vắn tắt của Đảng, sách lƣợc vắn tắt của
Đảng và lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Nội dung của nó về cơ bản đã
chứa đựng chiến lƣợc, sách lƣợc của cách mạng Việt Nam. Cũng bắt đầu từ

đó, tƣ tƣởng chiến lƣợc đoàn kết, đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trở thành
ngọn cờ tập hợp, hƣớng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta tiến hành cuộc đấu tranh
kiên cƣờng, bất khuất vì độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội. Từ 1930-1940 chiến
lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính thức đƣợc đƣa vào cƣơng lĩnh của
Đảng, đƣợc kiểm chứng bằng lý luận, thực tiễn đã khẳng định tính đúng đắn
của nó. Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng đã ra chỉ thị về việc thành lập hội phản
đế đồng minh. Chỉ thị chỉ rõ giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng tƣ sản dân
quyền ở Đông Dƣơng mà không tổ chức đƣợc toàn dân lại thành một lực
lƣợng thật rộng, thật kín, cuộc cách mạng cũng khó thành công. Nhƣ vậy, trên
thực tế lại thừa nhận quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vị trí và mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở

18


thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Tuy vậy những quan điểm đúng
đắn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vẫn đƣợc thể hiện
trong nhiều tài liệu nhiều văn kiện của Đảng. Trong nghị quyết chính trị của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (1935), một trong ba nhiệm vụ chủ
yếu mà Đảng nêu ra đã thể hiện tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tập hợp đoàn kết
nhân dân. Đó là “Đảng muốn chỉ huy nổi phong trào, muốn đƣa cao trào cách
mạng mới lên trình độ cao, tới toàn quốc vũ trang lao động, đánh đổ đế quốc,
phong kiến, lập nên chính quyền Xô Viết, thì trƣớc hết phải thâu phục quảng
đại quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm,
căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời” [2, tr.489-490].
Từ năm 1937 trở đi, hàng trăm cuộc bãi công đã nổ ra, công tác báo
chí, văn học thời kỳ này phát triển mạnh mẽ. Những kết quả trên là thực tế
sinh động chứng tỏ hiệu lực của chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh đƣợc
thể hiện trong tổ chức và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất.
Từ năm 1941 đến năm 1969 là giai đoạn Hồ Chí Minh trực tiếp cùng

ban chấp hành trung ƣơng Đảng lãnh đạo dân tộc ta tiến hành cuộc đấu tranh
giành và giữ độc lập - tự do, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc trên cơ sở công nông liên minh đƣa tới thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám. Sau khi giành lại chính quyền, Đảng và nhân dân ta phải tiến
hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nƣớc nhà.
Đây cũng lài thời kỳ chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh đƣợc bổ sung, phát
triển và hoàn thiện trong cách mạng Việt Nam: Về đƣờng lối chiến tranh nhân
dân, toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ, dựa vào sức mình là chính về xây dựng
Đảng với tƣ cách là một Đảng cầm quyền; về củng cố và tăng cƣờng đoàn kết
nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đáng chú ý là
trong bài phát biểu cuối cùng (18-7-1969) và trong di chúc đoàn kết đƣợc
Ngƣời nhắc tới 7 lần. Thậm chí ngay cả những điều mong muốn cuối cùng

19


trong câu cuối cùng của di chúc của Ngƣời thì đoàn kết cũng là mong muốn
cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng. toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nƣớc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp
phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt đầy
thử thách đó, chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh tiếp tục đƣợc phát huy sức
mạnh trong đời sống cách mạng.

20


Chương 2
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Theo từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa đoàn kết là: “Đoàn kết là kết
thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn chống đối nhau đoàn kết
với nhau, đoàn kết dân tộc” và “Đại đoàn kết là: Đoàn kết rộng rãi, chính sách
đoàn kết giữa các dân tộc” [55, tr.645-576]. Kế thừa truyền thống đoàn kết
của dân tộc, nhân loại trên nền tảng nhân văn, đoàn kết hoà bình của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết. Theo thống
kê, Hồ Chí Minh đã sử dụng cụm từ “Đoàn kết”, “Đại đoàn kết” (đƣợc công
bố trong Hồ Chí Minh, toàn tập, 12 tập, Nxb chính trị quốc gia ấn hành năm
1995 và 1996) là 1.707 tài liệu trong đó: “Đoàn kết” là 1.654 tài liệu còn “Đại
đoàn kết” là 53 tài liệu. Ngƣời đã định nghĩa khái niệm về đại đoàn kết nhƣ
sau: “Đại đoàn kết tức là trƣớc hết phải đại đoàn kết đa số nhân dân, mà đại
đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết nó cũng nhƣ cái nền của nhà gốc của
cây, nhƣng đã có nền vững gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân
khác” [28, tr.438 ]. Chủ tịch Hồ Chí Minh lại tiếp nối luận điểm trên và nêu rõ
các nguyên tắc của đại đoàn kết. “Đoàn kết rộng rãi và lâu dài :Đoàn kết của
ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách
dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị” [28, tr.438 ]. Nguyên tắc rộng
rãi thể hiện ở chỗ: “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. “Bất kỳ ai thật thà tán thành hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những ngƣời đó trƣớc đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [28, tr.438].
Nguyên tắc lâu dài là “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nƣớc nhà”. “Đoàn kết rộng
21


rãi, chặt chẽ đồng thời phải củng cố nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc có
tốt thì cây mới tốt hơn. Trong chính sách đoàn kết cần phải chống lại hai
khuynh hƣớng sai lầm: Cô lập hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc, phải lấy

nguyên tắc mà củng cố đoàn kết, phải lấy đoàn kết mà đẩy mạnh công tác”
[28, tr.438]. Từ những quan niệm nêu trên của Hồ Chí Minh và qua nghiên
cứu những bài nói, bài viết về đại đoàn kết của Ngƣời, có thể rút ra kết luận
về khái niệm đại đoàn kết của Hồ Chí Minh: “Là một hệ thống những luận
điểm, nguyên tắc, phƣơng pháp, biện pháp giáo dục, tổ chức hành động của
các lực lƣợng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân
tộc, quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là chiến lƣợc xây dựng, củng cố, mở
rộng, tăng cƣờng lực lƣợng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, xã hội, con ngƣời” [43, tr.132-133].
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
2.2.1. Xây dựng xã hội đồng thuận là nhân tố cơ bản để thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đồng thuận chƣa phải là hoàn toàn nhất trí, nghĩa là vẫn còn sự khác
nhau, nhƣng cùng thoả thuận tạm gác lại để thực hiện cái chung. Đồng thuận
cũng không loại bỏ đấu tranh giữa các ý kiến, quan điểm, xu hƣớng còn khác
nhau đồng thời cũng chống lại những gì có thể dẫn tới sự phân rẽ của xã hội.
Nói cách khác, đồng thuận còn chấp nhận mâu thuẫn khác biệt nhƣng đòi hỏi
phải giải quyết nó bằng thƣơng lƣợng, thoả hiệp. Trên ý nghĩa đó, đồng thuận
đƣợc coi là một giá trị chính trị cơ bản trong một chế độ dân chủ.
Một vấn đề mang tính nguyên tắc trong tƣ tƣởng biện chứng của Hồ
Chí Minh về xây dựng và phát triển lực lƣợng cách mạng, mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân là phát huy những yếu tố tƣơng đồng, dùng cái tƣơng đồng
để loại bỏ sự dị biệt, cố gắng tìm ra mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì
việc khoét sâu việc khác biệt. Để thực hiện điều này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

22


tìm ra đƣợc mẫu số chung của toàn dân tộc Việt Nam là tinh thần yêu nƣớc,

phát huy sức mạnh của cả cộng đồng trên cơ sở một cái nôi chung, cùng một
dòng dõi tổ tiên và có cùng thù chung là bọn cƣớp nƣớc, có nguyện vọng
chung là quyền lợi giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy. Vì vậy, phải khơi dậy
lòng yêu nƣớc của mọi ngƣời và mỗi ngƣời. Bởi vì trong quan niệm của Bác
đã là ngƣời Việt Nam, chỉ trừ lũ Việt gian bán nƣớc, ác quỷ tà ma còn lại ít
nhiều đều có lòng yêu nƣớc. Nƣớc ta biết nhen nhóm ngọn lửa này thì nó sẽ
bùng lên quét sạch giặc ngoại xâm: Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát “Dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nƣớc, đó là truyền thống quý báu của ta, từ xƣa đến
nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn, nó lƣớt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nƣớc và cƣớp nƣớc” [26, tr.271]. Thấm nhuần sâu
sắc và phát triển tƣ tƣởng về sự “đồng nhất của các mặt đối lập” trong sự vận
dụng cụ thể vào quá trình xây dựng và phát triển lực lƣợng cách mạng để đƣa
cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta tới thắng lợi, giữ vững thành quả
cách mạng đã giành đƣợc Hồ Chí Minh một mặt không xem nhẹ đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc, mặt khác đặt trọng tâm chú ý của mình vào việc
tìm ra sự tƣơng đồng, sự nhất trí giữa các tầng lớp, các giai cấp xã hội đã làm
cho họ ngày càng xích lại gần nhau để hoạt động vì lợi ích chung của toàn xã
hội. Do đó đoàn kết dân tộc là một chiến lƣợc, muốn tập hợp đƣợc đông đảo
các lực lƣợng dân tộc, trƣớc hết phải xác định rõ mục tiêu cách mạng, mục
tiêu này đáp ứng đƣợc nguyện vọng của các tầng lớp, các giai cấp trong nhân
dân. Đối với cách mạng Việt Nam mục tiêu đó là: Quyết giành cho kỳ đƣợc
độc lập tự do, xây dựng một nƣớc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giầu mạnh. Tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh là đoàn kết tất cả các lực
lƣợng yêu nƣớc, lấy công nông làm gốc. Liên minh công nông là nguyên tắc
chiến lƣợc đối với tất cả các cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Trong đó đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng,

23



đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những cá nhân yêu nƣớc thuộc mọi giai
cấp.
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công - nông - trí thức
trong cách mạng Việt Nam
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức (gọi tắt là công - nông - trí) quan điểm về liên
minh công - nông - trí của Bác Hồ đã ghi đậm trong cƣơng lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ngày 3-2-1930 và sau này đƣợc nhắc lại trong nhiều văn kiện.
Đây là một điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với học thuyết Mác-Lênin, vì
học thuyết này chỉ đề cập liên minh công - nông, chứ không đề cập “trí”.
Nhìn lại lịch sử chúng ta có thể thấy rằng các triều đại phong kiến Việt
Nam cũng có quan điểm nho giáo của Trung Quốc là chia xã hội thành hai
loại ngƣời tiểu nhân và quân tử. Trong tầng lớp quân tử không có ngƣời lao
động chân tay và phụ nữ những ngƣời bị nho giáo khinh rẻ và xếp vào hạng
tiểu nhân. còn quân tử, theo nho giáo, gồm các quan lại, trí thức phong kiến,
những quan “phụ mẫu” chăn dắt dân. Phong kiến Việt Nam dù sao cũng có
nét tiến bộ khi tiếp thu nho giáo gốc ở Trung Quốc. Những lúc bị xâm lăng thì
những ngƣời lao động chân tay mà ở đây chủ yếu là nông dân không bị coi rẻ
nữa mà đƣợc coi là lực lƣợng chở thuyền và lật thuyền, là những ngƣời đứng
trong đội quân chủ lực ra trận đánh quân thù. Nói chung, nòng cốt của xã hội,
“những ngƣời làm nên lịch sử” không đƣợc phong kiến Việt Nam coi là nhân
dân lao động mà là vua quan, trí thức phong kiến. Những ngƣời theo tƣ tƣởng
tƣ sản ở Việt Nam quan niệm về dân có tiến bộ hơn. Chẳng hạn cụ Phan Bội
Châu, trong chủ trƣơng tập hợp lực lƣợng cách mạng, nêu lên 10 lực lƣợng
nhƣ sau: Phú hào; Quý tộc; Sĩ phu; Lính tập; Tín đồ Thiên chúa giáo; Du côn
hội đảng; Nhi nữ anh hùng; Thông ngôn; Ký lục; Bồi bếp. Tiến bộ hơn là vì
có binh lính (là những ngƣời nông dân mặc áo lính); nhân dân theo đạo thiên
chúa, phụ nữ… Kể ra thì cũng có nhiều lực lƣợng nên vẫn thiếu, mà lại thiếu


24


hai lực lƣợng cơ bản nhất của xã hội Việt Nam đầu thể kỷ 20 là nông dân và
công nhân. Đầu thế kỷ, công nhân Việt Nam đã có, tuy không nhiều, và nó
ngày càng một phát triển do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Có thể cụ Phan Bội Châu lúc đầu chƣa nhận ra nhƣng nông dân Việt Nam thì
ở đâu mà chẳng có, mà có rất đông. Về cuối đời, Phan Bội Châu đã kịp nhận
ra sức mạnh của công, nông nhƣng cụ đã ở vào thế sức tàn, lực kiệt. Lúc ấy,
trách nhiệm lịch sử giƣơng cao ngọn cờ cứu nƣớc đã chuyển sang những
chiến sĩ theo lập trƣờng cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã đào tạo, bồi
dƣỡng. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, xu thế phát triển của thời đại, trên
nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức và lựa chọn chuẩn
xác con đƣờng vận động của cách mạng Việt Nam, đó là con đƣờng cách
mạng vô sản gắn liền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Động lực cách
mạng để thực hiện con đƣờng cách mạng đó là đại đoàn kết dân tộc mà nòng
cốt là liên minh công nông trí thức. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình cách
mạng Việt Nam, nhất là sự phân hoá giai cấp và thái độ của các giai cấp đối
với sự nghiệp cách mạng. Ngƣời cho rằng, những điều kiện xã hội để tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đƣờng vô sản đã chín muồi, đó
là sự hình thành của giai cấp công nhân và mối quan hệ tự nhiên của nó với
giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân tuy số lƣợng còn ít và mới ra đời, song
đã đủ các phẩm chất cách mạng để lãnh đạo nhân dân lao động và dân tộc để
đánh đổ chủ nghĩa thực dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân vừa mang tính phổ biến của thời
đại, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, Ngƣời khẳng định:
“Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất
có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng bằng cách
liên minh với giai cấp nông dân” [16, tr.489]. Ngƣời nhấn mạnh đặc tính cách
mạng của giai cấp công nhân Việt Nam là nhân tố quyết định vai trò lãnh đạo

cách mạng, chứ không phải là do số ngƣời nhiều ít của giai cấp đó. Ngƣời giải

25


×