Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nghiên cứu, đánh giá hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững và đề xuất khả năng áp dụng trong quá trình thực hiện chương trình nghị sự 21 ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.33 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN & MÔI TRƢỜNG
-------------------------------

NGUYỄN VĂN HƢNG

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ ĐỀ XUẤT KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
CHƢƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 21 Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG

HÀ NỘI-2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN&MÔI TRƢỜNG
------o------

NGUYỄN VĂN HƢNG

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÀ ĐỀ XUẤT KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CHƢƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 21 Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành môi trƣờng trong phát triển bền vững
(Chƣơng trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS VŨ TUẤN ANH


TS VÕ THANH SƠN

HÀ NỘI-2008


MỤC LỤC
Lời cảm ơn

i

Mục lục

ii

Phụ lục

vi

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

vii

Danh mục các bảng

viii

Danh mục các hình vẽ

ix


PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu

1

2.

Mục tiêu nghiên cứu

3

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

4.

Phương pháp nghiên cứu

3

4.1. Phương pháp tổng quan, phân tích, đánh giá tài liệu thứ cấp

3


4.2. Các phương pháp điều tra định tính và định lượng

4

4.3. Phương pháp SWOT

5

4.4. Phương pháp DPSIR

6

5.

Tình hình nghiên cứu đề tài

7

6.

Kết cấu luận văn

8

CHƯƠNG 1

9

TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1.


Quá trình thực hiện phát triển bền vững

9

1.1.1. Lịch sử và sự hình thành phát triển bền vững

9

ii


1.1.2. Khái niệm và tiến trình thực hiện phát triển bền vững

10

1.2.

13

Cơ sở khoa học xây dựng hệ thống chỉ tiêu PTBV

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan về PTBV

13

1.2.2. Lịch sử ra đời các chỉ số phát triển bền vững

17


1.2.3. Các thuật ngữ liên quan đến chỉ tiêu PTBV

19

CHƯƠNG 2

22

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PTBV
2.1. Thực trạng và xuất phát điểm của CTNS21 Việt Nam

22

2.1.1 Thực trạng phát triển kinh tế ở Việt Nam

22

2.1.2. Tiến trình xây dựng và thực hiện CTNS 21của Việt Nam

24

2.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc chủ yếu và những lĩnh vực ưu tiên trong

26

tiến trình thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam
2.1.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu PTBV

27


2.2. Các giai đoạn và cách tiếp cận của Liên Hợp Quốc nhằm

28

xây dựng các chỉ tiêu phát triển bền vững
2.2.1. Giai đoạn 1 (5/1995-8/1996)

28

2.2.2. Giai đoạn 2 (5/1996-12/1998)

29

2.2.3. Giai đoạn 3 (1/ 1999 - 12/ 2000)

30

2.3.

36

Các chỉ tiêu cơ bản về PTBV

2.4. Kinh nghiệm xây dựng bộ chỉ tiêu PTBV của các nước Châu Á

39

2.4.1. Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Trung Quốc


39

2.4.2. Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Thái Lan

40

2.4.3. Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Malaysia

41

2.4.4. Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Indonesia

42

2.4.5. Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Philippin

43

2.4.6. Nhận xét về nhóm chỉ tiêu các nước đang Phát triển

44

2.5.

44

Kinh nghiệm xây dựng chỉ tiêu PTBV ở một số nước khác

iii



2.5.1 Kinh nghiệm ở Thụy Điển

44

2.5.2 Kinh nghiệm ở Đức

46

2.5.3 Kinh nghiệm ở Tây Ban Nha

47

2.5.4 Kinh nghiệm ở Canada

48

2.5.5. Kinh nghiệm ở Hoa Kỳ

48

2.5.6. Kinh nghiệm ở Vương Quốc Anh

49

2.5.7. Kinh nghiệm ở Mêhicô

51

2.5.8. Kinh nghiệm ở Achentina


51

2.5.9. Kinh nghiệm ở Camerun

52

2.5.10.Nhận xét về những kinh nghiệm PTBV ở một số nước trên

52

thế giới
CHƯƠNG 3

58

XÂY DỰNG VÀ ĐỀ XUẤT ÁP DỤNG CÁC CHỈ TIÊU PTBV
TRONG TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
3.1.

Phương pháp nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu PTBV ở

58

Việt Nam
3.1.1.

Nguyên tắc xây dựng chỉ tiêu

58


3.1.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu xây dựng chỉ tiêu

62

3.1.2.1 Phương pháp luận

62

3.1.2.2. Áp dụng cụ thể các chỉ tiêu PTBV

71

3.2.

Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu PTBV ở Việt Nam

73

3.2.1.

Nội dung các chỉ tiêu PTBV

73

3.2.1.1. Chỉ tiêu PTBV về kinh tế

74

3.2.1.2. Chỉ tiêu PTBV về xã hội


76

3.2.1.3. Chỉ tiêu PTBV về tài nguyên - môi trường

80

3.2.1.4. Lĩnh vực thể chế

82

3.3.

Hệ thống cơ sở dữ liệu các chỉ tiêu PTBV

86

3.3.1.

Hiện trạng hệ thống thống kê chỉ tiêu PTBV

86

iv


3.3.2

Đề xuất cơ chế xây dựng cơ sở dữ liệu PTBV


88

3.4.

Đề xuất áp dụng các chỉ tiêu PTBV

88

3.4.1.

Biện pháp thực hiện

88

3.4.2.

Giám sát và báo cáo đánh giá

91

3.4.2.1. Giám sát

91

3.4.2.2. Báo cáo đánh giá

92

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


93

Kết luận

93

Kiến nghị

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

97

Tiếng Việt

97

Tiếng Anh

98

v


PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Theo quy luật của sự phát triển nhân loại thì dân số phát triển dẫn đến nhu cầu về vật chất gia tăng làm cho
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt. Con người phải đương đầu với những khó khăn ngày càng lớn đạc biệt
là hiện tượng nóng lên của trái đất và sự dâng cao của mực nước biển. Loài người đã từng có quan niệm rằng

sự tăng trưởng về kinh tế là thước đo cơ bản cho sự phát triển. Những năm gần đây, con người mới nhận thức
được rằng tăng trưởng kinh tế không phản ánh được một cách toàn diện mục tiêu phát triển của con
người. Do vậy, con người cần phải cải thiện mối quan hệ với thiên nhiên theo hướng sống gần gũi và hoà
hợp với thiên nhiên, thân thiện với môi trường.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (năm 1992) đã thống nhất về
quan điểm phát triển bền vững, coi đó là trách nhiệm chung của của toàn nhân loại. Mười năm sau, tại
Hội nghị thượng đỉnh về PTBV năm 2002 tại Johanesburg (Nam Phi) đã công bố kế hoạch thực hiện
PTBV toàn cầu.
PTBV là một quan điểm có cơ sở khoa học và mang tính nhân văn đồng thời lại phù hợp với bản sắc văn
hoá và đạo lý Việt Nam, với mục tiêu phát triển "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh" mà Đảng và Nhà nước cùng toàn dân đang nỗ lực thực hiện. Tháng 8/2004 Chính phủ Việt Nam
đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" nhằm cụ thể hoá cơ chế quản lý
phát triển bền vững. Trong quá trình xây dựng và thực hiện CTNS21, việc nghiên cứu và áp dụng các chỉ
tiêu về PTBV luôn được đặc biệt coi trọng trong việc giám sát và đánh giá tiến trình PTBV. Một vấn đề
hết sức quan trọng là tìm ra những phương thức và công cụ để đánh giá tính bền vững của các hoạt động
phát triển kinh tế xã hội và môi trường và chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Để giám sát,
đánh giá kết quả đạt được của từng mục tiêu cũng như hiệu quả của PTBV một yêu cầu tối quan trọng là
phải xác lập được một hệ thống chỉ số PTBV bao hàm nhiều mặt. Sau khi tham gia các môn học tại lớp
Cao học khóa 3, chuyên ngành Môi trường trong phát triển bền vững của Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Môi trường và dựa trên những kinh nghiệm, thực tiễn trong quá trình công tác và nhiệm vụ
được phân công tại cơ quan, tôi có nguyện vọng muốn được nghiên cứu, đánh giá hệ thống chỉ tiêu phát
triển bền vững nhằm tìm ra những phương thức và công cụ để đánh giá tính bền vững của các hoạt động
phát triển kinh tế xã hội và môi trường hiện nay. Với sự giúp đỡ của TS Vũ Tuấn Anh, TS Võ Thanh
Sơn, các nhà Khoa học và quản lý trong lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững cùng với sự quyết
tâm của bản thân, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài luận văn cao học "Nghiên cứu đánh giá hệ thống chỉ
tiêu phát triển bền vững và đề xuất khả năng áp dụng trong quá trình thực hiện Chương trình Nghị sự 21
của Việt Nam » .
2.

Mục tiêu nghiên cứu


Nghiên cứu đánh giá tình hình PTBV và các chỉ tiêu PTBV ở Việt nam và trên thế giới trong thời gian
qua. Trên cơ sở đó tập trung xác định, phân tích và xây dựng các chỉ tiêu PTBV cần thiết, phù hợp với
bối cảnh Việt Nam và có thể áp dụng triển khai nhằm mục đích hỗ trợ cho việc thực hiện có hiệu quả
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng áp dụng của luận văn là bộ chỉ tiêu phát triển bền vững sử dụng cho cấp quốc gia. Phạm vi
nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về phát triển bền vững và nghiên cứu, đanh giá hệ thống chỉ tiêu
phát triển bền vững trên thế giới và Việt Nam.

1


4.

Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1.

Phƣơng pháp tổng quan, phân tích, đánh giá tài liệu thứ cấp

4.2 .

Các phƣơng pháp điều tra định tính và định lƣợng

4.3.


Phƣơng pháp SWOT

4.4.

Phƣơng pháp DPSIR

5.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở nước ta, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thi 26/TTG ngày 26/11/2007 về việc theo dõi giám sát,
đánh giá các chỉ tiêu về môi trường và các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia cũng đã được ban hành. Tuy nhiên cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một bộ chỉ tiêu thống nhất
từ cấp quốc gia cho đến các ngành, các địa phương, phản ánh sự kết hợp hài hòa các mặt kinh tế, xã hội
và môi trường thống nhất. Việc xây dựng bộ chỉ tiêu PTBV như vậy sẽ đảm bảo cho việc cung cấp
những thông tin và tri thức và giúp ta đánh giá, so sánh và hỗ trợ việc đo lường và định hướng đất nước
tới mục tiêu PTBV. Bộ chỉ tiêu PTBV sẽ được sử dụng như một công cụ để trao đổi ý tưởng, suy nghĩ,
những giá trị giúp so sánh trình độ phát triển theo hướng bền vững.
Luận văn được xây dựng dựa trên sự tham khảo các giáo trình của Đại học Quốc gia Hà Nội kết hợp với
quá trình tổng hợp và phân tích, đánh giá các tài liệu có liên quan của Văn phòng Agenda 21 của Việt
Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các tư liệu quốc tế có liên quan đến PTBV, các trang web liên quan đến
việc xây dựng các chỉ tiêu về PTBV. Dựa trên những số liệu đó tiến hành nghiên cứu xác định hệ thống
chỉ tiêu PTBV phù hợp với bối cảnh Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị và đề xuất áp dụng. Trong quá
nghiên cứu và triển khai thực hiện luận văn đã gửi các phiếu điều tra có liên quan đến việc xây dựng và
áp dụng thực hiện các chỉ tiêu PTBV tới các Sở, ban, ngành tại các tỉnh Ninh Bình Lạng Sơn và Lâm
Đồng, Vĩnh Long. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận văn đã nhận được ý kiến đóng góp về các nội
dung nghiên cứu của một số chuyên gia về phát triển bền vững.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu và 3 chương
Chương 1 : Tổng quan về phát triển bền vững

Chương 2 : Thực tiễn việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
Chương 3 : Đề xuất áp dụng các chỉ tiêu phát triển bền vững trong tiến trình thực hiện Chương
trình Nghị sự 21 ở Việt Nam

2


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Quá trình thực hiện phát triển bền vững
1.1.1. Lịch sử và sự hình thành phát triển bền vững
Khái niệm “bền vững” đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 19 ở Châu Âu, lúc đó nạn phá rừng gia tăng để
phục vụ cho sản xuất đã làm giảm khả năng cung cấp đủ lượng gỗ cần thiết. Đầu thể kỷ XX, những tư
tưởng PTBV đã hình thành khái niệm, và ở mức cao hơn là hành động thực tiễn và xuất hiện các phong
trào trong xã hội. Tiên phong cho các trào lưu này phải kể đến là giới bảo vệ môi trường Tây Âu và Bắc
Mỹ. Uỷ ban bảo vệ môi trường Canada được thành lập năm 1915, nhằm khuyến khích con người sống
hòa hợp với nhiên và cho rằng mỗi thế hệ có quyền hưởng thụ lợi ích từ thiên nhiên và cần phải duy trì
cho thế hệ tương lai. Nhà bảo vệ môi trường Paul Sarasin (Thuỵ Sỹ) đã lên tiếng về việc cần phải bảo vệ
thiên nhiên thể hiện trong báo cáo với nhan đề "Toàn thế giới bảo vệ động vật hoang dã" tại Pari năm
1923. Các tổ chức quốc tế về bảo vệ thiên nhiên và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên đã có sự phối
hợp chặt chẽ và đề xuất chương trình hành động cho các quốc gia theo hướng PTBV. Năm 1951,
UNESCO đã xuất bản một tài liệu đáng lưu ý với tiêu đề "Thực trạng bảo vệ môi trường thiên nhiên trên
thế giới vào những năm 50". Tài liệu này được cập nhật vào năm 1954 đây là một cở sở quan trọng để
xây dựng báo cáo Brundtland. Đến những năm 1960, khái niệm “phát triển” đã được làm rõ là không chỉ
là tăng về số lượng mà phải đi đôi với chất lượng hay nói cách khác nếu tăng trưởng kinh tế mà chỉ mang
lại lợi ích vật chất thuần tuý và có thể làm tổn hại đến môi trường, môi sinh thì không còn được gọi là
phát triển.
1.1.2. Khái niệm và tiến trình thực hiện phát triển bền vững
Khái niệm PTBV được thể hiện trong Báo cáo của Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển
(WCED) với chủ đề "Tương lai chung của chúng ta": “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp

ứng những nhu cầu hiện tại mà không gây tổn hại đến khả năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ
tương lai”.
Bản chất của PTBV là sự tồn tại bền vững của nhân loại trên trái đất không phân biệt quốc gia, dân tộc
và luôn gắn với sự tồn tại của môi trường kinh tế, xã hội và tự nhiên. Trong nhiều tài liệu nghiên cứu,
PTBV được hiểu là chiến lược phát triển mà quản lý được tất cả tài sản, các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, các nguồn nhân lực cũng như các nguồn nhiên vật liệu và tài chính để tăng cường sự phồn thịnh
và chất lượng cuộc sống về lâu dài. Tư tưởng PTBV lên án các chính sách và thực tiễn nhằm nâng cao
mức sống hiện tại thông qua việc làm suy yếu các yếu tố cơ sở của sản xuất như các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, và làm cho viễn cảnh của các thế hệ tương lai trở nên nghèo nàn hơn và nhiều rủi ro hơn.
(David Pearce, Edward Barbier, Anil markandya, Economics and Environment in the Third World,
1990).
1.2. Cơ sở khoa học xây dựng hệ thống chỉ tiêu PTBV
1.2.1 Một số khái niệm cơ bản có liên quan về PTBV
Để đánh giá kết quả đạt được của từng mục tiêu PTBV cũng như hiệu quả của phương án chiến lược
PTBV trên phạm vi toàn cầu hay của từng khu vực, quốc gia, địa phương, một yêu cầu tối quan trọng là
phải xác lập được một hệ thống chỉ tiêu PTBV, có tính xuyên ngành, bao hàm nhiều mặt như các chính
sách kinh tế, sinh thái, xã hội.
Theo định nghĩa của cuốn Đại từ điển tiếng Việt thì phạm trù “phát triển” được hiểu là quá trình vận
động, tiến triển theo hướng tăng lên (Đại từ điển tiếng việt, Nguyễn Như Ý Tr 132, NXB Văn hóa thông
tin). Phát triển kinh tế, xã hội được hiểu là sự gia tăng về lượng và chất của những giá trị kinh tế và xã
hội nhằm đáp ứng nhu cầu của con người qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau (Từ điển bách khoa Việt Nam,
tập 3, Tr 242, NXB Từ điển bách khoa) do vậy con người phải tác động vào môi trường vật chất tự nhiên
để tạo ra số lượng và giá trị vật chất mới. Quá trình tác động này sẽ làm thay đổi trạng thái tự nhiên của
môi trường và sẽ tác động ngược trở lại vào quá trình phát triển. Phát triển kinh tế là một khái niệm xuất
hiện vào khoảng giữa thập niên những năm 1960 từ một nhận thức mới về kinh tế. Theo khái niệm mới
này “tăng thêm” không đồng nghĩa với “tốt hơn”, do đó tăng trưởng kinh tế chưa chắc đã có lợi mà còn
có thể làm tổn hại môi trường, môi sinh. Phát triển kinh tế phải thể hiện một nhận thức toàn diện bao
3



gồm các khía cạnh tinh thần và vật chất, kinh tế và xã hội, số lượng và chất lượng. Phát triển kinh tế
đồng nghĩa với đổi thay và tiến bộ không ngừng để kinh tế – xã hội ngày một “tốt hơn” một cách toàn
diện.
Khái niệm PTBV đã được các nhà kinh tế sinh thái đưa ra thảo luận vào thập kỷ 70, từ đó tới nay, đã có
khá nhiều nỗ lực nhằm diễn dịch định nghĩa đó cụ thể hơn và hay được sử dụng tập trung vào sự cân
bằng của ba khía cạnh của PTBV. Vào đầu thập niên những năm 1970, sau một thời kỳ các nước trên thế
giới thi đua công nghiệp hóa, khai thác tài nguyên, tìm kiếm thị trường, Câu lạc bộ La Mã đã phát hành
một tài liệu mang tựa là “Giới hạn của tăng trưởng” tài liệu này đưa ra đề nghị một hướng mới cho phát
triển và có những nhận định khác thường về kinh tế thế giới và xã hội loài người. Tài liệu này cho rằng
sự tăng trưởng kinh tế và dân số quá nhanh cùng với tình trạng thi đua sản xuất và khai thác không giới
hạn và vô ý thức các tài nguyên đã làm ô nhiễm môi trường, môi sinh và làm cạn kiệt dự trữ tài nguyên
thiên nhiên trên thế giới. Câu lạc bộ La Mã đề nghị chính sách “không tăng trưởng” với lý do là tăng
trưởng kinh tế đi ngược lại bảo vệ môi trường.
Năm 1972 Liên Hiệp Quốc triệu tập Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường con người tại Stockholm.
Hội nghị đã diễn ra trong bầu không khí tranh cãi sôi nổi. Hội nghị đã đề nghị một khái niệm mới là
“phát triển tôn trọng môi sinh” với chủ trương bảo vệ môi trường, tôn trọng môi sinh, quản lý hữu hiệu
tài nguyên thiên nhiên, thực hiện công bằng và ổn định xã hội. Khái niệm “phát triển tôn trọng môi sinh”
bị các nước phát triển và giàu có chống đối rõ rệt. Cuối cùng hội nghị chỉ thảo luận vấn đề ô nhiễm và
kết thúc với việc tán đồng quan điểm cho rằng có mối liên hệ và ảnh hưởng qua lại giữa lối sống của con
người với môi trường - môi sinh, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo tồn tài nguyên và ổn định thiên
nhiên. Ngoài ra, các nước cũng thỏa thuận và cam kết hành động để bảo vệ môi trường - môi sinh và
thành lập những cơ quan quốc tế và quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ môi trường - môi sinh. Trong Báo cáo
Phát triển Thế giới 2003 mới đây nhất có tựa đề Phát triển Bền vững trong Thế giới năng động của Ngân
hàng Thế giới, một cách diễn giải nữa nhằm bảo đảm sự công bằng giữa các thế hệ là “sự phát triển
nhằm bảo đảm được mức tiêu dùng cho các thế hệ tiếp theo không giảm đi”.
1.2.2 Lịch sử ra đời các chỉ số phát triển bền vững
Năm 1992 Cuộc họp thượng đỉnh "Earth Summit" đã nhận thức được vai trò quan trọng mà các chỉ số
PTBV có thể đóng góp vào việc giúp các quốc gia đưa ra những quyết định chín chắn về PTBV. Sự công
nhận này thể hiện ở chương 40 của Chương trình Nghị sự 21, kêu gọi các nước ở tầm quốc gia cũng như
quốc tế, các tổ chức chính phủ cũng như phi chính phủ hãy phát triển và xác định các chỉ số về PTBV

nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định ở mọi cấp độ. Hơn thế nữa, Chương trình nghị sự 21 đặc biệt kêu gọi
các nỗ lực nhằm phát triển các chỉ tiêu về PTBV ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu. Việc xây dựng một
tập hợp các chỉ tiêu PTBV này sẽ tạo điều kiện để tất cả các quốc gia được cập nhật thường xuyên và
truy cập rộng rãi thông qua việc các báo cáo và dữ liệu.
Trước thực tế đó, Uỷ ban về PTBV đã phê chuẩn vào năm 1995 Chương trình làm việc về các Chỉ số
PTBV và kêu gọi tất cả các tổ chức của Liên hiệp quốc, các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ với sự
phối hợp của Ban thư ký thực hiện các yếu tố cơ bản của chương trình làm việc này. Mục tiêu cơ bản của
Chương trình làm việc của Uỷ ban Phát triển bền vững là đưa ra được các chỉ số của PTBV có thể truy
cập dễ dàng đối với các nhà ra quyết định ở cấp quốc gia, bằng việc xác định chúng, giải thích phương
pháp luận về chúng và cung cấp các hoạt động đào tạo và tăng cường năng lực áp dụng. Điều quan trọng
là các chỉ số khi được sử dụng trong các chính sách của quốc gia cũng có thể được dùng trong các báo
cáo của quốc gia đó cho UNCSD và các cơ quan liên chính phủ khác.
1.2.3 Các thuật ngữ liên quan đến chỉ tiêu PTBV
Một số thuật ngữ được sử dụng trong nghiên cứu này trình bày theo cá nghĩa sau (Lê Anh Sơn - Nguyễn
Công Mỹ, 2006, Bộ tiêu chí và cơ sở dữ liệu giám sát phát triển bền vững ở Việt Nam, Tr 3-4, Hà Nội)
Số liệu thống kê: toàn bộ số liệu được Tổng cục Thống kê và các cơ quan có thẩm quyền thống kê theo
định kỳ hoặc thu được qua các cuộc điều tra, tổng điều tra.
Chỉ tiêu: thông tin được tính toán từ số liệu thống kê thể hiện hướng thay đổi hay một trạng thái nào đó
đối tượng nghiên cứu.
Bộ chỉ tiêu: là những chỉ tiêu được nhóm thành một tập hợp liên quan tới nhau theo nhiều chiều.
Chỉ thị (Indicator): Là giá trị đánh giá sự biến đổi về tài nguyên và môi trường được tính toán từ các
thông số (parameters) hay biến số (variables).

4


Thông số/Biến số (Parameter/variable): Là các số đo đạc thực tế hoặc/và tính toán ra từ hiện trạng
hoặc/và dự bỏo xu thế diễn biến về tài nguyên và môi trường, mà từ chúng sẽ tính toán ra các chỉ thị, rồi
từ các chỉ thị (indicator) sẽ tiếp tục tính toán ra các chỉ số (index) theo thuật toán tích hợp trung bình
cộng - trừ đa cấp có hay không có trọng số của các thông số/biến số và chỉ thị.

Chỉ số: là một độ đo tổng hợp ở mức cao, được tính từ các chỉ tiêu và bộ chỉ tiêu.

CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN VIỆC XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. Thực trạng và xuất phát điểm của CTNS21 Việt Nam
2.1.1. Thực trạng phát triển kinh tế ở Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề quan trọng đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, song cần phải có sự
hài hoà với các mục tiêu về xã hội và môi trường vì có phát triển mạnh về kinh tế thì mới có điều kiện để
bảo vệ và cải thiện môi trường, nâng cao mức sống của toàn xã hội; nhưng trong quá trình tăng trưởng
kinh tế-xã hội cần có nhiều giải pháp tích cực không để xảy ra tác động nghiêm trọng tới môi trường ở
mức không thể sửa chữa, hoặc phải trả giá quá đắt để khắc phục những hậu quả do chính các hoạt động
kinh tế-xã hội gây ra.
2.1.2.

Tiến trình xây dựng và thực hiện Chƣơng trình Nghị sự 21 của Việt Nam

Ở Việt Nam, khái niệm PTBV được các nhà khoa học nước ta nghiên cứu áp dụng và thông qua một số
công trình cơ bản. Đầu tiên phải kể đến là các chương trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như
"Tiến tới môi trường bền vững" (1995) của Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Chương trình này đã cụ thể hoá hệ thống chỉ tiêu PTBV như một tiến trình đòi hỏi sự tiến triển đồng
thời của các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của
Brundtland, và kinh nghiệm các nước như Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã thao tác hoá khái niệm
với các tiêu chí cụ thể đối với một quốc gia: bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường.
Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam. Bên cạnh đó, cuốn
sách "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững" (2007) do Lưu Đức Hải và Nguyễn Ngọc Sinh đã
trình bày hệ thống các khái niệm và hành động quản lý môi trường cho PTBV, định lượng hoá sự phát
triển bền vững qua các độ đo bền vững kinh tế, môi trường, văn hoá - tổng quan nhiều mô hình PTBV.
2.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc chủ yếu và những lĩnh vực ƣu tiên trong tiến trình thực hiện PTBV ở
Việt Nam

Mục tiêu tổng quát của PTBV ở Việt Nam là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và
văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự
nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường.
5


Định hướng chiến lược cũng đề ra 19 lĩnh vực cần ưu tiên về các mặt kinh tế, xã hội và bảo vệ môi
trường (Định hướng chiến lược chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, tái bản năm 2007, trang 55223) với nội dung về lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường.
2.1.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu PTBV
2.2. Các giai đoạn và cách tiếp cận của Liên Hợp Quốc nhằm xây dựng các chỉ tiêu phát triển bền
vững
2.2.1. Giai đoạn 1 (5/1995-8/1996)
2.2.2. Giai đoạn 2 (5/1996-12/1998)
2.2.3. Giai đoạn 3 (1/ 1999 - 12/ 2000)
2.3. Các chỉ tiêu cơ bản về phát triển bền vững
Việc lựa chọn một số lượng tối thiểu các chỉ tiêu cơ bản làm điểm khởi đầu cho chương trình phát triển
các chỉ tiêu của quốc gia giúp là vô cùng qua trọng. Các chỉ tiêu cơ bản được xác định trên cơ sở tư vấn
với các nước, đặc biệt là các nước tham gia chương trình thử nghiệm, các cơ quan chỉ đạo trong và ngoài
Liên hiệp quốc, những người có trách nhiệm đối với PTBV bao gồm việc thực thi Chương trình Nghị sự
21, các chuyên gia về chỉ tiêu. Thêm vào đó, sự hướng dẫn có giá trị bằng kết quả thử nghiệm các chỉ
tiêu cũng được cung cấp đầy đủ.

2.4. Kinh nghiệm xây dựng bộ chỉ tiêu PTBV của các nƣớc Châu Á
Bộ chỉ tiêu PTBV của mỗi quốc gia được xây dựng phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển, thứ tự ưu
tiên của các vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường bức xúc trong bối cảnh của quốc gia đó. Xem xét bộ chỉ
tiêu của một số nước phát triển và một số nước đang phát triển, thống kê cho thấy các nước đang phát
triển quan tâm chủ yếu tới các vấn đề về đói nghèo, thất nghiệp, các điều kiện tối thiểu để đảm bảo cuộc
sống, trong khi đó, các nước phát triển tập trung nhiều hơn tới các vấn đề về bình đẳng, chất lượng cuộc
sống, các vấn đề xã hội nảy sinh trong một nền kinh tế phát triển và vấn đề ô nhiễm môi trường.

2.4.1.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Trung Quốc

2.4.2.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Thái Lan

2.4.3.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Malaysia

2.4.4.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Indonesia

2.4.5.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Philippin

2.4.6.

Nhận xét nhóm chỉ tiêu các nƣớc đang Phát triển

Nhóm này bao gồm Philippin; Indonexia; Malaixia, Thái Lan (ASEAN) và Trung Quốc có phương pháp
xây dựng bộ chỉ thị theo thành phần tài nguyên và môi trường quan tâm, khá phù hợp cho thực tiễn nước
ta hiện nay và định hướng đến năm 2020. Các chỉ tiêu sử dụng trong PTBV ở Inđônêsia gồm có 21 chỉ
tiêu cơ bản. Thông qua 21 chỉ tiêu của Indonesia cho thấy các chỉ tiêu đó đều thuộc ba nhóm trụ cột của
phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường. Bộ chỉ tiêu PTBV của mỗi quốc gia được xây dựng
phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển, thứ tự ưu tiên của các vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường bức

xúc trong bối cảnh của quốc gia đó. Xem xét bộ chỉ tiêu của một số nước phát triển và một số nước đang
phát triển, thống kê cho thấy các nước đang phát triển quan tâm chủ yếu tới các vấn đề về đói nghèo, thất
nghiệp, các điều kiện tối thiểu để đảm bảo cuộc sống, trong khi đó, các nước phát triển tập trung nhiều
hơn tới các vấn đề về bình đẳng, chất lượng cuộc sống, các vấn đề xã hội nảy sinh trong một nền kinh tế
phát triển và vấn đề ô nhiễm môi trường.

6


2.5.

Kinh nghiệm xây dựng chỉ tiêu PTBV ở một số nƣớc trên thế giới

2.5.1.

Kinh nghiệm ở Thụy Điển

2.5.2.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Đức

2.5.3.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Tây Ban Nha

2.5.4.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Canada

2.5.5.


Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

2.5.6.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Vƣơng quốc Anh

2.5.7.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Mêxicô

2.5.8.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Achentina

2.5.9.

Xây dựng và thực hiện chỉ tiêu PTBV ở Camerun

2.5.10. Nhận xét chung về kinh nghiệm PTBV của một số nƣớc trên thế giới
Phương pháp tiếp cận chiến lược phổ biến nhất trong các nghiên cứu tình huống là chiến lược phát triển
bền vững toàn diện và đa phương diện. Trong một số trường hợp, chiến lược toàn diện còn hơn cả một
bản soạn thảo các chiến lược về kinh tế, xã hội và môi trường và các sáng kiến chính sách hiện có để
trình bày tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV. Trong nhiều trường hợp, phương pháp tiếp cận
chiến lược này đã thể hiện tính mục đích hơn trong việc cung cấp một khung khổ nhằm kết nối hành
động chiến lược và phối hợp ở cấp quốc gia hướng tới sự PTBV. Các ví dụ điển hình về các chiến lược
PTBV quốc gia toàn diện được quan sát thấy tại các quốc gia nghiên cứu là Vương Quốc Anh và
Philipin.
Cơ chế phản hồi - bao gồm giám sát, học hỏi và thích ứng. Trong khi hầu hết các quốc gia đều có các cơ
quan thống kê thực hiện việc giám sát các lĩnh vực khác nhau của quốc gia về mặt kinh tế, xã hội và môi

trường thì chỉ có một số ít quốc gia đã xây dựng một bộ các chỉ số lồng ghép để cho phép phân tích sự
đánh đổi vốn có và những mối liên kết lẫn nhau giữa các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của sự phát
triển bền vững. Thậm chí nghiên cứu chưa tìm thấy những phương pháp tiếp cận và công cụ chính thức
và phi chính thức để học hỏi từ loại giám sát lồng ghép này và đưa ra những sự ứng dụng quan trọng và
cần thiết.

7


CHƢƠNG 3
XÂY DỰNG VÀ ĐỀ XUẤT ÁP DỤNG CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG
TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN CHƢƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 21 Ở VIỆT NAM
3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu PTBV ở Việt Nam
3.1.1. Nguyên tắc xây dựng chỉ tiêu
Bộ chỉ tiêu PTBV được lựa chọn đảm bảo các nguyên tắc
- Các chỉ tiêu phải tiên tiến và hiện thực, phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch hoá hiện nay và
có khả năng áp dụng vào thực tiễn.
- Phù hợp với các mục tiêu và nội dung Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam và Chiến lược của quốc
gia và mục tiêu thiên niên kỷ.
- Bộ chỉ tiêu được xây dựng phải đảm bảo tính cân đối tương đối giữa các chủ đề; có tính mở để cập nhật
khi có những thông tin mới.
- Bộ chỉ tiêu phải tương thích theo thông lệ quốc tế, có khả năng so sánh với trình độ PTBV của các quốc
gia khác trong khu vực và trên thế giới.
- Bộ chỉ tiêu được lựa chọn phải đảm bảo tính khả thi và lượng hoá được trên cơ sở hệ thống thống kê
hiện hành của Việt Nam.
3.1.2. Phƣơng pháp tiếp cận nghiên cứu xây dựng chỉ tiêu
3.1.2.1. Phƣơng pháp luận
- Cách tiếp cận áp lực
- Cách tiếp cận theo mô hình chỉ tiêu ABC
- Mô hình quả trứng

- Mô hình đánh giá sự bền vững (Hodge 1993,1995)
3.1.2.2. Áp dụng cụ thể
Phương pháp tiếp cận lựa chọn bộ chỉ tiêu PTBV cho Việt Nam dựa trên qui trình ba bước sau đây là phù
hợp
Bước 1: Lựa chọn bộ chỉ tiêu khởi đầu (VN0) là sự kết hợp của hai bộ chỉ tiêu + Bộ 58 chỉ tiêu do UN
CSD khuyến nghị
+ Giao của bộ chỉ tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 với bộ chỉ tiêu trong
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo với bộ chỉ tiêu nghiên cứu của dự án
VIE/01/021.
Bước 2: Xây dựng bộ chỉ tiêu phát triển bền vững mang tính khả thi VN bằng cách kết hợp bộ chỉ tiêu
VN0 với bộ chỉ tiêu của Tổng cục thống kê dự kiến để đảm bảo tính thống kê được.
Bước 3: Tham khảo ý kiến chuyên gia để loại trừ những chỉ tiêu không đại diện và bổ sung những chỉ
tiêu mới như chỉ tiêu trong mục tiêu thiên niên kỷ, chỉ tiêu về sản suất sạch, môi trường biển, các lĩnh
vực theo nguyên tắc cân đối.
3.2. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu PTBV ở Việt Nam
3.2.1. Nội dung các chỉ tiêu phát triển bền vững
Các chỉ tiêu PTBV ở Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của các nước trên thế
giới, đặc biệt các nước có thể chế chính trị, điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế-xã hội tương đồng với
nước ta. Đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, phù hợp với đường lối đổi mới hệ thống
kế hoạch hóa hiện nay, các chỉ tiêu PTBV phải mang tính tiên tiến và hiện thực. Dựa trên quy trình lựa
chọn như đã nêu ở trên, xin đề xuất các chỉ tiêu PTBV ở Việt Nam như sau
3.2.1.1. Chỉ tiêu phát triển bền vững về kinh tế
(gồm 14 chỉ tiêu)
Chỉ tiêu 1: GDP bình quân đầu người
Chỉ tiêu 2: Tăng trưởng GDP, tính theo phần trăm %
Chỉ tiêu 3: Cơ cấu các ngành kinh tế quốc dân
Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động
Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ đầu tư so với GDP
Chỉ tiêu 6: Cán cân xuất nhập khẩu hàng hoá
Chỉ tiêu 7: Cán cân thanh toán quốc tế, tính theo VND

Chỉ tiêu 8: Tỷ lệ nợ so với GDP
Chỉ tiêu 9: Tỷ lệ ODA so với GDP
8


Chỉ tiêu 10: Tỷ lệ FDI so GDP, tính theo phần trăm (%)
Chỉ tiêu 11:Tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai so với GDP
Chỉ tiêu 12: Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục so với GDP
Chỉ tiêu 13: Tiêu thụ năng lượng / GDP hàng năm
Chỉ tiêu 14: Tỷ lệ tái chế và tái sử dụng rác thải
3.2.1.2. Chỉ tiêu phát triển bền vững về xã hội:
(gồm 23 chỉ tiêu)
Chỉ tiêu 15: Tổng dân số
Chỉ tiêu 16: Tỷ lệ tăng dân số
Chỉ tiêu 17: Tỷ lệ dân số sống dưới ngưỡng nghèo
Chỉ tiêu 18: Chỉ số Gini về chênh lệch thu nhập.
Chỉ tiêu 19: Tỷ lệ thất nghiệp thành thị
Chỉ tiêu 20: Tỷ lệ tiền lương trung bình của nữ so với nam
Chỉ tiêu 21: Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi
Chỉ tiêu 22: Tuổi thọ (kỳ vọng)
Chỉ tiêu 23: Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi
Chỉ tiêu 24: Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch
Chỉ tiêu 25: Tỷ lệ dân số được tiếp cận hệ thống vệ sinh
Chỉ tiêu 26: Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng
Chỉ tiêu 27: Tỷ lệ biết chữ ở người lớn
Chỉ tiêu 28: Số năm đi học bình quân đầu người
Chỉ tiêu 29: Tỷ lệ phổ cập THCS đối với trẻ em trong độ tuổi
Chỉ tiêu 30: Tỷ lệ sinh viên đại học và cao đẳng/1000 dân
Chỉ tiêu 31: Tỷ lệ lao động được đào tạo
Chỉ tiêu 32: Tỷ lệ dân số tiếp cận các phương tiện truyền thông hiện đại

Chỉ tiêu 33: Diện tích ở bình quân đầu người ở thành phố
Chỉ tiêu 34: Dân số thành thị có đăng ký hộ khẩu và cư trú không chính thức (không đăng ký)
Chỉ tiêu 35: Di dân tự do hàng năm
Chỉ tiêu 36: Số lượng tội phạm trong năm
Chỉ tiêu 37: Số tai nạn giao thông trong năm
3.2.1.3. Chỉ tiêu PTBV về tài nguyên - môi trƣờng
(gồm 12 chỉ tiêu)
Chỉ tiêu 38: Tỷ lệ diện tích che phủ rừng so với diện tích tự nhiên
Chỉ tiêu 39: Tỷ lệ đất nông nghiệp được tưới tiêu
Chỉ tiêu 40: Tỷ lệ đất bị suy thoái hàng năm
Chỉ tiêu 41: Tỷ lệ khai khoáng
Chỉ tiêu 42: Tỷ lệ các khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý
nước thải
Chỉ tiêu 43: Tỷ lệ các khu công nghiệp có hoặc sử dụng chung hệ thống xử lý chất thải rắn
Chỉ tiêu 44: Phát thải các khí nhà kính
Chỉ tiêu 45: Tỷ lệ các vùng đô thị có mức ô nhiễm không khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép
Chỉ tiêu 46: Tỷ lệ diện tích khu bảo tồn thiên nhiên so với diện tích tự nhiên
Chỉ tiêu 47: Số lượng hệ sinh thái đang bị đe doạ và các loài có nguy cơ diệt chủng
Chỉ tiêu 48: Sản lượng cá đánh bắt hàng năm
Chỉ tiêu 49: Tổn thất do thiên tai
3.2.1.4. Lĩnh vực thể chế (gồm 4 chỉ tiêu)
Chỉ tiêu 50: Chiến lược PTBV quốc gia, PTBV ngành, vùng, địa phương, cơ sở
Chỉ tiêu 51: Số lượng văn bản pháp lý về PTBV
Chỉ tiêu 52: Số lượng tham gia các Công ước quốc tế
Chỉ tiêu 53: Huy động tổn g kinh phí để hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ, tài chính để xóa đói giảm nghèo
theo hướng PTBV
3.3. Hệ thống cơ sở dữ liệu các chỉ tiêu PTBV
Theo kinh nghiệm của các nước, khi phân tích các chỉ tiêu PTBV thường gặp phải khó khăn đáng kể là
thiếu dữ liệu,. Vì vậy, xây dựng cơ sở dữ liệu là cần thiết, trên cơ sở đó có thể tích hợp ra một số chỉ tiêu
phân tích và chỉ số.

3.3.1. Hiện trạng hệ thống thống kê chỉ tiêu PTBV
9


Nếu xem xét các chỉ tiêu PTBV có thể thấy
- Các chỉ tiêu lĩnh vực kinh tế: được quan tâm ngay từ đầu
- Các chỉ tiêu về lĩnh vực xã hội: được chú trọng song độ chính xác chưa cao.
- Các chỉ tiêu về lĩnh vực môi trường: ít về mặt số lượng và khó đánh giá về chất lượng.
Một cách tổng quát có thể thấy những yếu điểm cơ bản của bộ chỉ tiêu PTBV của Việt Nam như sau
- Bộ chỉ tiêu PTBV chưa được chính thức đưa vào hệ thống thống kê hiện hành của Việt Nam.
- Một số chỉ tiêu của bộ chỉ tiêu PTBV được xác định qua các cuộc điều tra.
- Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của cả nước và các địa phương (tỉnh, thành phố) là không tương thích.
3.3.2. Đề xuất cơ chế xây dựng cơ sở dữ liệu PTBV
Cần có sự phối hợp giữa Văn phòng Phát triển bền vững với Tổng cục thống kê và các đơn vị có chức
năng thống kê, cũng như các đơn vị quản lý thông tin của các bộ ngành.
3.4. Đề xuất áp dụng các chỉ tiêu phát triển bền vững
3.4.1.

Biện pháp thực hiện

- Sự chỉ đạo thống nhất, nhất quán ở các cấp. Trong khi thực hiện chương trình hành động cho sự PTBV
các nước thường phải đứng trước sự lựa chọn hơn thiệt, do vậy điều kiện tiên quyết cần có là sự chỉ đạo
thống nhất, nhất quán bắt nguồn từ nhận thức ở các cấp.
- Khi xây dựng bộ chỉ tiêu này cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan khác nhau, trong đó vai trò quan
trọng nhất là Tổng cục thống kê.
- Vừa xây dựng vừa hoàn thiện, cần có kế hoạch phối hợp, bổ sung và hoàn thiện các chỉ tiêu khác. Có
thể chia bộ chỉ tiêu thành ba nhóm chỉ tiêu:
+ Nhóm 1: là các chỉ tiêu sẵn có hoặc có thể tính được thông qua số liệu thống kê hiện hành của Việt
Nam.
+ Nhóm 2: Các chỉ tiêu đã có số liệu song vẫn còn khác nhau về khái niệm so với thông lệ quốc tế, dựa

trên khiếm khuyết tồn tại để từng bước khắc phục.
+ Nhóm 3: Các chỉ tiêu quan trọng song chưa có một cơ chế thống kê hoặc chưa tổng hợp được. Đối với
nhóm chỉ tiêu này có thể sưu tầm các thông tin đánh giá từ các tài liệu nghiên cứu của các tổ chức trong
và ngoài nước để biết được mức độ hoặc ngưỡng của các chỉ tiêu.
Thực hiện xây dựng chỉ số đánh giá chương trình phát triển bền vững. Chỉ số để đánh giá là một trong
những yếu tố cơ bản để xem xét tính bền vững của phát triển theo những tiêu chí đã vạch ra. Và nó cũng
là chỉ số để so sánh với các quốc gia khác. Việc xác định các chỉ số đánh giá có thể vừa phải kết hợp các
thực tiễn hoạt động đánh giá của quốc gia cũng như thông lệ chung.
3.4.2. Giám sát và báo cáo đánh giá
3.4.2.1 Giám sát
Giám sát và đánh giá các vấn đề thuộc PTBV là rất cần thiết.
Giám sát và đánh giá đòi hỏi có ở mỗi một giai đoạn của việc xây dựng chương trình phát triển bền vững.
Giám sát và đánh giá đòi hỏi có sự tham gia của nhiều thành viên có liên quan và tập trung trên các vấn
đề
Về kỹ thuật
- Sử dụng đầy đủ các phương pháp luận để xây dựng các chỉ tiêu;
- Thu thâp số liệu cho các chỉ tiêu và nguồn lực, liên tục và cung cấp, tin cậy số lượng.
- Tạo số liệu bao gồm nhiều hình thức.
- Lập kế hoạch số liệu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về phát triển.
Vấn đề ra quyết định
- Sử dụng một cách đẩy đủ các chỉ tiêu để làm quyết định;
- Phân tích số liệu
- Sử dụng số liệu để đưa ra quyết định.
Trợ giúp thể chế và xây dựng năng lực
- Cần đào tạo;
- Cần sự hỗ trợ mang tính thể chế đề thu thập số liệu và phân tích;
Xây dựng năng lực khác để thu thập số liệu;
3.4.2.2. Báo cáo đánh giá
Báo cáo và các hình thức báo cáo là cách để giao tiếp kết quả với tất cả các bên có liên quan.


10


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên thực tế, PTBV không thể thực hiện được nếu không có thể chế phù hợp, minh bạch và có trách
nhiệm giải trình mang tính dân chủ, từ Trung ương xuống địa phương, có khả năng bảo vệ môi trường,
đồng thời cung cấp các dịch vụ thiết yếu từ an ninh đến nước sạch, từ công lý đến cơ hội kinh tế cho
người nghèo.
PTBV không chỉ được thực hiện thông qua các chính sách hay thể chế quốc gia mà còn thể hiện trong
doanh nghiệp, các khu bảo tồn và cộng đồng dân cư. Chính phủ Việt Nam luôn mong muốn tiếp tục nhận
được sự hợp tác và hỗ trợ của bạn bè và cộng đồng quốc tế. Các nhà hoạch định chính sách và lập kế
hoạch về kinh tế chưa nhận thức được đầy đủ sự cần thiết của việc gắn kết các cân nhắc về môi trường
vào quá trình ra quyết định. Muốn đạt được những mục tiêu chiến lược PTBV Việt Nam đòi hỏi những
nỗ lực lớn lao của nhà nước và nhân dân. Hệ thống chỉ tiêu PTBV của Việt Nam đang còn trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện với sự nỗ lực nghiên cứu của các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan
tuy nhiên cũng sẽ góp phần nhanh chóng hoàn thiện chúng thông qua những kinh nghiệm rút ra từ thực tế
áp dụng.
2. Kiến nghị
Từ những kết luận đưa ra trên đây, xin có một vài kiến nghị trong công tác áp dụng các chỉ tiêu PTBV
như sau
- Từng bước nâng cao và hoàn thiện công tác thống kê, thu thập số liệu và xây dựng được cơ sở dữ liệu
về PTBV.
- Lồng ghép các chỉ tiêu PTBV đề xuất vào các kế hoạch phát triển ngành, vùng, địa phương và quốc gia.
- Mỗi đơn vị khi áp dụng bộ chỉ tiêu phát triển bền vững, cần nghiên cứu, lựa chọn, có thể loại bớt hoặc
bổ sung thêm một số chỉ tiêu thích hợp với đặc trưng của ngành/địa phương mình.
- Không ngừng nghiên cứu và thu thập kinh nghiệm thực tế để hoàn thiện bộ chỉ tiêu PTBV cho phù hợp
với bối cảnh hiện tại của Việt Nam. Hiện tại, những chỉ tiêu PTBV vẫn được nghiên cứu theo các chủ đề
phát triển chính: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Sự phân chia theo các chủ đề này đảm bảo được
tính khả thi trong công tác thống kê thu thập số liệu đồng thời dễ hiểu, dễ tổng hợp trong các báo cáo.

Tuy nhiên, trong tương lai, khi có đủ điều kiện cần xây dựng được một bộ chỉ tiêu PTBV tiến bộ hơn bộ
chỉ tiêu truyền thống, phản ánh mắt xích nào trong mối liên hệ đó còn yếu kém, giúp tìm ra biện pháp
giải quyết hài hoà các mâu thuẫn và xung đột giữa các yếu tố.

11



×