Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Liên hệ thực tiễn việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.93 KB, 22 trang )

ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.

BÀI LÀM:
I. NÊU VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, nhà chính trị lỗi lạc, nhà
cách mạng kiệt xuất. Người đã có những đóng góp hết sức lớn lao cho sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị đế quốc, thực dân, đưa dân tộc
Việt Nam trở thành một dân tộc độc lập, tự do, có quyền bình đẳng sánh ngang
với các cường quốc năm châu. Không chỉ có vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ
đạo, vạch rõ tư tưởng, đường lối cho Đảng, nhà nước và nhân dân ta, đưa nước ta
từ một nước phong kiến hướng tới nhà nước xã hội chủ nghĩa và đang trong thời
kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa. Những bài học về tư tưởng dân tộc, con người
của Người không chỉ được vận dụng trong thời kỳ cách mạng giành độc lập mà
đó còn là những bài học vô cùng quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Sau khi học bộ môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh, với sự giảng dạy và hướng dẫn tâm huyết của cô Nguyễn Thị Bích
Thủy (A), em xin phép làm bài phân tích luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”- Qua đó liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện
nay.

1


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
II.1.Tiểu sử tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung) sinh ngày
19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù,


xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên
cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Cha của Người là cụ
Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước. Mẹ là cụ Hoàng Thị Loan, các anh và
chị của Người đều tích cực tham gia chống Pháp và bị tù đày.
Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến
Người ngay từ thời niên thiếu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu
sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã nhận ra nguyên nhân thất bại của các
phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Người khẳng định rằng, không thể tiếp tục đi
theo con đường cứu nước như vậy nữa mà phải nghiên cứu, tìm ra con đường
cứu nước mới. Chính vì vậy, ngày 5/6/1911, tại bến Cảng Nhà Rồng, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đặt chân lên chiếc tàu Đô đốc La-tútxơ Tờ-rê-vin và trở thành phụ bếp với tên gọi Nguyễn Văn Ba, bước đi đầu tiên
mở đầu cho một cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước.
Trong suốt 30 năm bôn ba, với cuộc hành trình qua 4 châu lục, 3 đại
dương, gần 30 quốc gia, Người hòa mình với những phong trào của công nhân
và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt
động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào
công nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Véc-xai (Pháp) Bản yêu sách của nhân

2


dân An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam và ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 7/1920: Người đọc được Luận cương của Lê-nin, đăng tải trên tờ
báo Nhân đạo (1tờ báo rất tiến bộ mà Người làm cộng tác viên chính) ra 2 số
16,17. Người như bừng tỉnh sau 10 năm trời tìm đường cứu nước.
Ngày 30/12/1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố
Tua, trong phiên bế mạc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và

tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước
chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Từ năm 1921 đến giữa năm 1923, Người ở Pháp được cử làm Trưởng
tiểu ban Đông Dương trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp,
tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Tháng 4/1922, Bác đã ra tờ báo
“Người cùng khổ” làm cơ quan ngôn luận đấu tranh. Ngày 30/6/1923, Nguyễn
Ái Quốc đặt chân tới Matxcova (Liên Xô) theo học Đại học Phương Đông (đào
tạo các chiến sĩ cộng sản nòng cốt của quốc tế). Tháng 10/1923, Bác là đại biểu
tham gia đại hội Quốc tế nông dân.
Tháng 7/1924, Bác là đại biểu tham dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản,
được cử làm Ủy viên ban phương Đông trực tiếp phụ trách cục phương Nam.
Tháng 11/1924, Người rời Matxcova (Liên Xô) sang Quảng Châu (Trung Quốc)
theo điều động của Quốc tế Cộng sản III. Người tham gia Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức ở Á Đông.
Năm 1925, Bác thành lập: “Việt Nam thanh niên kách mệnh đồng chí
hội”, lựa chọn nhưng thanh niên ưu tú nhất và Bác trực tiếp mở lớp bồi dưỡng,
giảng dạy. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp được Bác viết bằng tiếng
3


Pháp, xuất bản ở Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, xuất bản cuốn Đường
Kách Mệnh ở Trung Quốc.
Từ ngày 6/1- 8/2/1930, tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc,
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Đảng đã diễn ra dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị đã quyết định hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một tổ chức
cộng sản chung lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Bác nhanh chóng soạn thảo
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, xác định những nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, nhưng nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc giành độc lập
dân tộc.

Do lập trường nhiệm vụ cách mạng của Bác khác với Quốc tế Cộng sản
(Bác đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên hàng đầu còn Quốc tế Cộng sản đặt
mục tiêu giải phóng giai cấp lên hàng đầu) nên Bác đã bị Quốc tế Cộng sản kỷ
luật, cách ly với hoạt động của Đảng. Năm 1934, Bác được Quốc tế Cộng sản cử
sang Matxcova (Liên Xô) học tại Đại học Lê-nin.
Hơn 9 giờ sáng ngày 28/1/1941, Bác đặt chân tới biên giới nước ta ở cột
mốc 108 tại Hà Quảng, Cao Bằng sau 30 năm xa cách. Từ ngày 10-19/5/1941,
Bác triệu tập hội nghị TW Đảng lần thứ VIII ở Pác Bó (Cao Bằng) hội nghị đã
hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh được đề ra từ hội nghị TW tháng
11/1939.
Ngày 22/12/1944 tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong
cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam.
4


Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1946).Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng
cố chính quyền cách mạng.
Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những
thành quả của Cách mạng Tháng Tám.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống
thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến

thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc
hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.
5


Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa
nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học
của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất”.
II.2. Phân tích luận điểm: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” Hồ Chí Minh
II.2.1. Tư tưởng Mác-Lênin về vấn đề dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có
những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ
chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với
những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có sự kế thừa và phát

triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự
giác của các thành viên trong cộng đồng đó 1. Dân tộc ở đây là cộng đồng xã hội
theo nghĩa là các tộc người.
Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống
nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung

1 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội –

2016, tr.449

6


trong quá trình dựng nước và giữ nước 2. Dân tộc ở đây là toàn bộ nhân dân một
nước, là quốc gia – dân tộc.
Như vậy, dân tộc là chỉ những tộc người đã và đang sinh sống trên trái đất.
Theo khoa học, dân tộc để chỉ cộng đồng người phát triển cao nhất trong lịch sử
từ khi xã hội loài người ra đời đến hiện nay, dân tộc là quốc gia. Dân tộc bao
gồm 4 đặc trưng sau:
- Là một cộng đồng về lãnh thổ (lãnh thổ là bất khả xâm phạm)
- Là một cộng đồng về kinh tế
- Là một cộng đồng về ngôn ngữ
- Là một cộng đồng về văn hóa.
Dân tộc phát triển theo 2 xu hướng:
Xu hướng 1: Do sự thức tỉnh về ý thức dân tộc cũng như quyền sống của
mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc
lập. Nhiều cộng đồng dân cư đã nhận ra rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc
lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.
Xu hướng 2: Trong sự phát triển, các dân tộc sẽ xích lại gần nhau, xóa bỏ

hàng rào ngăn cách, làm hình thành thị trường chung giữa các quốc gia tư bản
phát triển.

II.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.
Độc lập dân tộc là một nền độc lập thật sự, nghĩa là: dân tộc phải có chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước. Đây cũng là khát vọng to lớn
2 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội –

2016, tr.450

7


của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập
cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi
hiểu”1.
Những quyền cơ bản nhất của dân tộc phải đạt được là: quyền tự quyết về
chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Độc lập dân tộc phải gắn với hòa bình.
Độc lập dân tộc phải đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Độc lập dân tộc phải gắn với quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước là động lực lớn của dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân
ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan
bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt
Nam dân chủ mới”2. Chủ nghĩa yêu nước chân chính trong tư tưởng Hồ Chí
Minh “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc”
của bọn đế quốc phản động”3.

Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, dân tộc độc lập và
chủ nghĩa xã hội.
Mỗi dân tộc ở mỗi giai đoạn sẽ có 1 giai cấp đại diện, sự phát triển của dân
tộc được phụ thuộc vào giai cấp đại diện. Thực chất, áp bức dân tộc là áp bức
giai cấp. Vì vậy để xóa bỏ áp bức dân tộc phải từ đấu tranh giai cấp và đó là đấu
1 Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2005, tr.52.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr. 172-173.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.172.

8


tranh của giai cấp vô sản. Đấu tranh của giai cấp vô sản là cuộc đấu tranh giai
cấp nhưng ngay từ đầu đã mang tính dân tộc => Toàn bộ vấn đề dân tộc được Hồ
Chí Minh giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi Người từng nói: “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” 1. Sau năm 1945, nước
ta ở hình thái kinh tế phong kiến. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề đi tới chủ
nghĩa xã hội, ngược lại, chủ nghĩa xã hội để bảo vệ thành quả độc lập dân tộc,
hướng tới mục tiêu đem lại cơm ăn, áo mặc cho người dân. Hồ Chí Minh nói:
“Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”2.
Không những vậy, theo Người, chủ nghĩa yêu nước cũng phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế. Là một chiến sĩ cộng sản ưu tú, Hồ Chí Minh không quên
nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế
giới. Người không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn đấu
tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các quốc gia, dân tộc bị áp bức khác. Với

khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương: thắng lợi chung của cách
mạng thế giới là bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước đóng góp tạo nên,
Người tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
của nhân dân 2 nước Đông Dương còn lại (Lào và Campuchia), hay cuộc kháng
chiến chống phát xít Nhật của nhân dân Trung Quốc.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.128.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.56.

9


II.2.3. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, sau những tháng ngày hoạt
động cách mạng nỗ lực không ngừng nghỉ, với tinh thần yêu nước thương dân
sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, trải qua biết bao khó khăn, gian khổ, thậm chí
phải chịu cảnh tù đày thì ngày 28/1/1941, Bác đã trở về tổ quốc, mang theo con
đường cứu nước chân lý sáng suốt, lãnh đạo cách mạng giành độc lập cho dân
tộc. Vào giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ II, với việc Liên Xô và các
nước đồng minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít, thời cơ cách mạng đến với nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ
ra vào đêm 9/3/1945, thì ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
kịp thời vạch ra những nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng Việt Nam trong chỉ
thị: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Khi phát xít Nhật bị
quân Đồng minh đánh bại, quân Nhật ở Đông dương hoang mang. Lúc này quân
Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương. Hơn nữa, qua cao trào chống Nhật cứu
nước quần chúng nhân dân đã chuẩn bị sẵn sàng chỉ chờ lệnh khởi nghĩa . Nhận
thấy đây là thời cơ “ngàn năm có một”, Đảng và nhân dân ta phải nhanh chóng
chớp lấy thời cơ quý giá này, lãnh tụ Hồ Chí Minh (mặc dù khi ấy đang bị ốm

nặng) đã chỉ đạo: “Thời cơ đã đến, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!”1. Ngày 14/8/1945,
Hội nghị toàn quốc của Đảng nêu nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền
độc lập đã tới”. Tiếp đó, ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân được tổ chức ở Tân
1 Dẫn trong Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994,

tr.196.

10


Trào quyết định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả
nước.
Ngày 19/8/1945 cuộc cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền thuộc
về tay nhân dân. Tại căn nhà 48 Hàng Ngang (Hà Nội), Bác viết bản Tuyên ngôn
độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Bác thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của dân tộc Việt Nam,
sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt (1048) và bài cáo Đại
Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi (1428).Tuyên ngôn độc lập vừa là văn kiện
chính trị quan trọng của dân tộc vừa là tác phẩm văn chính luận có giá trị lớn,
đồng thời cũng là tuyên ngôn mở đầu kỉ nguyên độc lập và chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam. Theo Trần Dân Tiên thì đó là “kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng
sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”.Tuyên ngôn độc
lập đã khẳng định quyền độc lập của dân tộc dựa trên công lý về quyền con
người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo viện
dẫn lời trong hai bản Tuyên ngôn của hai nước lớn có truyền thống dân chủ, bình
đẳng nhưng lúc bấy giờ đang đi ngược lại những nguyên tắc của cha ông mình là
“Bản tuyên ngôn độc lập” năm 1776 của Mỹ và “Tuyên ngôn nhân quyền và
nhân quyền” năm 1791 của Pháp.

“Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776 đã ghi rõ:“Mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ có những quyền không ai có thể xâm phạm
được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”.

11


Tuyên ngôn của Pháp cũng nhấn mạnh: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, đó thực
sự là “những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Điểm sáng tạo đồng thời là tư tưởng cốt lõi trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ
Chí Minh là việc khẳng định quyền con người và quyền độc lập dân tộc không
thể tách rời nhau: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”. Bằng câu nói ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định
nền độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn khẳng định nền độc lập cho các quốc
gia đang chịu áp bức, bóc lột thuộc địa của các nước đế quốc, thực dân. Đây
cũng chính là tinh thần quốc tế, chủ nghĩa quốc tế trong con người của nhà cách
mạng ưu tú, lỗi lạc Hồ Chí Minh.
Độc lập, tự do dân tộc là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa.
Chính vì vậy, tư tưởng độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân trở thành mục tiêu
hàng đầu của cách mạng Việt Nam và được quán triệt trong toàn bộ tiến trình
cách mạng Việt Nam. Còn nhớ, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp,
khi được hỏi vì sao Người lại bỏ phiếu cho Quốc tế III, Hồ Chí Minh đã trả lời:
“…tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa…Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là
tất cả những điều tôi hiểu”1. Bác cũng đã lần nữa khẳng định với Bộ trưởng Bộ
thuộc địa Pháp: “Cái mà tôi cần nhất bây giờ là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ
quốc tôi được độc lập…”2. Qua luận điểm của Bác: “Tất cả các dân tộc trên thế

1 Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1993, t.1, tr.94.
2 Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, t.1, tr.127.

12


giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”, ta thấy bình đẳng đân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của mỗi dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng
trong cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: “Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm
cho mọi dân tộc dù đông người hay ít người, dù có trình độ phát triển cao hay
thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ
đặc quyền , đặc lợi trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế”. Như
vậy, không chỉ Việt Nam mà các dân tộc khác cũng có quyền bình đẳng với nhau
về quyền lợi, nước lớn không được áp bức nước nhỏ, nước mạnh không được
xâm lược nước yếu. Thực hiện bình đẳng dân tộc là nhân tố quyết định để củng
cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam, là động lực, mang ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn kết dân tộc cũng chính là tinh
thần yêu nước.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, sự thật đã thành nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”1. Với Người, độc lập dân
tộc phải là một nền độc lập thực sự, hoàn toàn gắn với hòa bình thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và

Chính phủ các nước vào thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.4.

13


trịnh trọng tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất
nước”1. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi vang dội núi sông, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập về chủ
quyền dân tộc: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”2. Bởi mất nước là mất tất cả. Có độc
lập dân tộc mới có quyền con người. Sống trong cảnh “nước mất nhà tan”, mọi
quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con
người cũng bị đe dọa, sao có thể nói đến quyền tự do, dân chủ? Và thật sự nếu có
tự do thì cũng chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày mà thôi.
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân và hải quân, Người kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm , 10
năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố , xí
nghiệp bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý
hơn độc lập tự do”3. Bác coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do
của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền
con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi
người dân trên đất nước mình. Chính độc lập dân tộc là điều kiện để dân tộc Việt
Nam có quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới, nhân dân ta có
thể chung sống hòa thuận cùng nhau đi tới cuộc sống tự do, hạnh phúc.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.496.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.480.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.108.


14


Độc lập tự do phải đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Sau
năm 1945, nước ta ở hình thái kinh tế phong kiến. Giải quyết vấn đề dân tộc
trong cách mạng mà chỉ dừng lại cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc thì chưa
đủ, bởi có độc lập tự do mà nhân dân vẫn đói khổ thì nền độc lập ấy chẳng có
nghĩa lý gì. Người đã chứng kiến và thấu hiểu cảnh sống lầm than, đói nghèo,
khổ cực, đối mặt với giặc đói, giặc dốt của nhân dân trong xã hội nửa thực dân,
nửa phong kiến. Bởi vậy, Hồ Chí Minh nói: “Nước được độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”1 hay “Tôi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc”2.
Chủ trương diệt giặt đói và giặc dốt của Người năm 1945 chính là nền tảng chăm
lo và nâng cao đời sống cho nhân dân về vật chất cũng như tinh thần. Mục tiêu
của độc lập dân tộc theo Người là mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi
nhân dân có ấm no, hạnh phúc mới có thể tiếp tục ra sức bảo vệ nền độc lập ấy.
II.3. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Thực tiễn Việt Nam hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế, sự nghiệp xây dựng và bảo vể Tổ quốc đã, đang và sẽ đối mặt với
những cơ hội và thách thức vô cùng to lớn. Vậy chúng ta cần phải làm gì để có
thể vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội phát triển. Lẽ hiển nhiên và trước hết
là chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng và giữ vững độc lập dân tộc dù trong bất
cứ hoàn cảnh nào, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.56.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.591.

15



Minh về quyền dân tộc. Dân tộc Việt Nam ta đã trải qua bốn nghìn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước. Lịch sử ấy đã gắn liền với biết bao tên tuổi của các vị
anh hùng vĩ đại. Dân tộc có được nền độc lập như ngày hôm nay, nhân dân được
tự do, hạnh phúc, cha ông ta đã phải đánh đổi bằng biết bao mồ hôi và xương
máu. Bác Hồ đã từng dạy: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước”. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc,
mới thấu hiểu được tư tưởng muôn đời bất diệt: “Không có gì quý hơn độc lập tự
do” của Hồ Chí Minh.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đem lại cho Việt Nam những cơ hội to lớn
để phát triển về mọi mặt, có thể từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, sánh vai với các cường quốc năm châu. Tuy nhiên, bên cạnh
những cơ hội luôn tồn tại những rủi ro. Có thể thấy, Việt Nam đang đứng trước
rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy
cơ phai nhạt bản sắc dân tộc, tiếp thu một nền văn hóa lai bản sắc, nguy cơ lệ
thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị . Bởi trong thế giới hiện đại, các dân
tộc đang ngày càng xích lại gần nhau hơn, có quan hệ hợp tác ngày càng rộng rãi
và chặt chẽ hơn; đồng thời, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các dân tộc
cũng ngày càng lớn hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối mặt với các âm
mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ diễn ra ngày càng tinh vi, khó kiểm soát.
Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước
ta. Chúng tiến hành nhiều hành động xảo quyệt nhằm lôi kéo, mua chuộc nhân
dân đứng lên chống lại chính quyền địa phương (như ở vùng Tây Bắc, chúng đã
kích động người H’Mông đòi thành lập khu tự trị riêng; vùng Tây Nguyên,

16


chúng tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga nhằm chờ thời cơ hòng lật đổ vai

trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam).
Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chỉ
đường dẫn lối, khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa các
nguồn lực, bao gồm: con người, trí tuệ, truyền thống, tài nguyên… để từng bước
xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước dần bắt kịp với các cường quốc trên
thế giới. Đất nước phát triển , nền kinh tế vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo
sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc, tạo lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, bảo vệ độc lập dân tộc trong
xu thế toàn cầu hoá không có nghĩa là “đóng cửa giữ mình”, bởi đó là sự tự cô
lập, tự tụt hậu. Để phát triển, các dân tộc giờ đây phải “mở cửa” và thiết lập quan
hệ hợp tác song phương, đa phương, hợp tác toàn diện; biết kết hợp lợi ích của
dân tộc mình với lợi ích của các dân tộc khác và chung hơn cả là lợi ích của toàn
nhân loại. Song, cũng phải luôn nhớ rằng, hội nhập, hoà nhập quốc tế không phải
là “hoà tan” để rồi đánh mất chính mình, và do vậy, tôn trọng nền độc lập của
nhau và giữ vững nền độc lập của dân tộc mình là vấn đề có tính nguyên tắc
trong điều kiện hiện nay. Biết tiếp thu điều hay, điều tiên tiến mà không làm mất
đi bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong mỗi con người. Có thể thấy độc lập
dân tộc cũng như bản sắc dân tộc phải được xem là cái bất biến trong sự vạn biến
của xu thế toàn cầu hóa. Đây chính là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo
đúng nghĩa của nó.
Hơn 70 năm từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay,
30 năm (1945- 1975) đất nước trong tình trạng chiến tranh, chia cắt làm hai
miền, 10 năm sau khi thống nhất đất nước (1976-1986) do sai lầm về cơ chế
17


quản lý kinh tế nên chúng ta đã không tận dụng được lợi thế của dân tộc để xây
dựng kinh tế trong hòa bình, ba năm tiếp theo (1988- 1990) nhà nước mới vượt
qua được cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng đến mức “cả nước làm

không đủ ăn”. Nhưng từ năm 1991, nước ta bắt đầu giai đoạn phát triển theo
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế và đến nay, đã có những biến đổi to lớn về
kinh tế - xã hội. Theo giáo sư Nguyễn Mại, công cuộc đổi mới theo kinh tế thị
trường từ năm 1986 không những đã đoạn tuyệt cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
kém hiệu quả, đưa nền kinh tế nước ta tiến lên với tốc độ cao và ổn định, mà còn
hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới, hình thành một nước Việt
Nam đang hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển
trong Cộng đồng ASEAN, ở Châu Á và trên thế giới.
Ngày nay, đường lối của Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ sự quan tâm,
không ngường chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và
phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống: “Dân vi bản quốc gia trường
thọ”. Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực
nhất để bảo vệ độc lập dân tộc. Bởi dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì
độc lập dân tộc, dân chủ văn minh. Chủ trương diệt giặc đói, giặc dốt của chủ
tịch Hồ Chí Minh năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc chăm lo và
nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Đảng và nhà
nước ta đã thực hiện rất tốt mục tiêu giảm hộ nghèo và xóa mù chữ. Ngày
13/1/2016, tại hội nghị sơ kết 3 năm (2013-2015) thực hiện Đề án xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2012-2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết tỷ lệ biết chữ
trong độ tuổi 15-50 toàn quốc là 97,3%, trong độ tuổi 15-35 là 98,5%. Đặc biệt
tỷ lệ hộ nghèo đã giảm một cách mạnh mẽ. Tại phiên họp Quốc hội thứ 27 diễn
18


ra sáng 17/9/2018, báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ lao động, Thương binh
và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết giai đoạn 2015-2017, tỷ lệ hộ nghèo bình
quân cả nước giảm 1,59%/năm, ước tính đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo cả
nước còn dưới 6%, giảm 1-1,3% so với đầu năm 2018. Theo thống kê, từ 2011
nước ta đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, năm 2016 GDP đạt

221,5 tỷ USD, GDP/người đạt 2400 USD, tuổi thọ trung bình của người Việt
Nam là 73,4 tuổi, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại.Nếu như năm 1986 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chỉ là 789 triệu USD,
thì năm 2016 đã đạt trên 170 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một
động lực chính phát triển kinh tế của Việt Nam; vốn FDI thực hiện năm 2016 đạt
15,8 tỷ USD chiếm 23,4% tổng vốn đầu tư xã hội. Xây dựng kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế không những đã gắn kết Việt Nam với khu vực và thế giới
mà còn làm cho vị thế của nước ta trong khu vực ASEAN, ở Châu Á và trên thế
giới đã được nâng cao, trở thành đối tác đáng tin cậy của nhiều quốc gia và tổ
chức quốc tế. Hiện nay, theo giáo sư Nguyễn Mại, đất nước ta đang tiến vào ba
năm cuối của chiến lược phát triển 2011- 2020 và định hướng mục tiêu kinh tếxã hội đến năm 2025 và 2030 trong điều kiện vừa phải giải bài toán của một
nước đang trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa như xây dựng đồng bộ cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,..; vừa phải
tiến cùng thời đại mà đặc trưng là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bắt đầu từ
buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ hai của nhân loại. Việc tham gia chủ động
vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội lớn để nước ta có thể đuổi kịp
trình độ phát triển của những nước tiền tiến trong khu vực, đòi hỏi thay đổi căn
bản tư duy và hành động từ hình thành thể chế, pháp luật của nhà nước đến quản
trị doanh nghiệp theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện thuân lợi để mọi ý
19


tưởng mới, sáng kiến, phát minh được thực hiện và được đánh giá chính xác, áp
dụng phổ cập trong xã hội.
Có thể thấy, chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân vừa là
mục tiêu, vừa là phương pháp thực tiễn nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng
tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ. Thấm nhuần tư tưởng của Người về vấn đề
dân tộc, chúng ta càng phải phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích
cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của mọi người dân Việt Nam. Từ xưa
đến nay, người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng

đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất. Chính vì vậy, ngày nay,
truyền thống quý báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính ấy cần được tiếp tục khơi
dậy mạnh mẽ, biến nó thành nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, vững bước tiến lên.

20


III. KẾT LUẬN
Như vậy, dù ở thời kỳ nào thì luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất
cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do” cũng vô cùng đúng đắn và sáng suốt, khẳng định rõ
ràng quyền con người và quyền dân tộc không thể tách rời nhau. Và quyền dân
tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, không thể chối cãi được. Bởi,
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”- Hồ Chí Minh. Xây dựng nền độc lập, tự
do cho dân tộc, đồng thời mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
chính là tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân có thể ra sức xây dựng và bảo vệ nền
độc lập ấy. Một lần nữa, em xin khẳng định bài học tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền dân tộc tự do, bình đẳng là bài học vô cùng quý báu đối với Đảng, nhà
nước và nhân dân ta trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn những bài giảng vô cùng bổ ích
của cô Nguyễn Thị Bích Thủy (A) – giảng viên bộ môn Tư tưởng Hồ chí Minh,
trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Bài viết của em còn có một số sai sót và chưa
được hoàn chỉnh, em rất mong sẽ được nhận ý kiến cũng như sự chỉ bảo của cô
để giúp cho bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin cám ơn!

21



22



×