Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VÕ NHƯ Ý

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VÕ NHƯ Ý

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TĂNG VĂN NGHĨA

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những số liệu,
kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này là trung thực và chưa
được sử dụng để bảo vệ bất cứ một học vị nào.
Đà Nẵng, ngày 26 tháng 08 năm
2019
Học viên
Trần Võ Như Ý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ
ĐẦU TƯ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ ĐẦU TƯ Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ....................... 8
1.2. Vai trò của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ............................................... 13
1.3. Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư của một số quốc gia trên thế giới ...... 16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ
ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................... 25
2.1. Khái quát chung thực trạng pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 25
2.2. Nh-ững vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng pháp luật về ưu đãi, hỗ
trợ đầu tư ở Việt Nam ..................................................................................... 29
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ................................................. 34
2.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ...... 35
CHƯƠNG 3. XU HƯỚNG THU HÚT ĐẦU TƯ THÔNG QUA CÁC
BIỆN PHÁP ƯU ĐÃI VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM .............. 57
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.......................................................................... 57
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASENAN

: Association of Southeast Asian Nations- Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á

FDI

: Foreign Direct Investment- Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

: Gross Domestic Product- Tổng sản phẩm quốc nội

OECD

: Organization for Economic Cooperation and Development- Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

TNDN

: Thu nhập doanh nghiệp


UBND

: Uỷ ban nhân dân

WTO

: World Trade Organization- Tổ chức Thương mại Thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại ngày nay, trong bối cảnh và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là là động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc. Tính phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cũng như về các lĩnh vực khác là
nét phổ biến của thế giới hiện đại. Khi trình độ khoa học phát triển nhanh với
tốc độ chưa từng có và đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia, đầu tư phát
triển kinh tế trở thành một yêu cầu phát triển khách quan mang tính quy luật.
Đó cũng là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta và
nhiều nước khác trên thế giới.
Để kích thích hoạt động đầu tư và thu hút được đầu tư từ các thành
phần kinh tế trong và ngoài nước thì cần thiết phải có nhiều chính sách, biện
pháp khuyến khích đầu tư hiệu quả. Trong bối cảnh cạnh tranh thương mại
ngày càng gay gắt giữa các nền kinh tế, không chỉ những quốc gia đang phát
triễn mới cần thu hút đầu tư mà ngay cả những quốc gia phát triễn cũng rất
cần điều này. Hiểu được tầm quan trọng của việc này nên việc ban hành các
quy định về việc ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cho các nhà đầu tư là điều cần thiết phải
làm. Việc xây dựng các quy định này là vì mục tiêu kích cầu, thu hút nguồn
vốn đầu tư từ các nơi đổ về nhằm phát triễn nền kinh tế quốc gia. Dưới góc độ
pháp lý, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư tỏ ra là một trong những cách

thức thu hút đầu tư hiệu quả mà các quốc gia trên thế giới đều sử dụng một
cách khôn khéo nhằm làm tăng hơn nữa lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế.
Các quốc gia đều xây dựng hệ thống các quy định về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phù
hợp với luật pháp quốc tế nhằm tạo dựng nên môi trường đầu tư có sức hấp
dẫn lớn nhằm cạnh tranh với các nền kinh tế khác. Đối với nhiều quốc gia,
1


pháp luật về đầu tư như bằng chứng rõ nét về sự cởi mở của nền kinh tế mà
các nhà đầu tư đều quan và nhà nước, với vai trò là người điều hành mọi mặt
của đời sống xã hội đã sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu nhất để
định hướng hoạt động đầu tư.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy việc thực hiện pháp luật về ưu đãi, hỗ
trợ đầu tư tại Việt Nam cho thấy đều đạt được những kết quả đáng khích. Các
chính sách ưu đãi về thuế theo ngành kinh tế đã phát huy được hiệu quả tích,
các chính sức ưu đãi liên quan đến xuất khẩu cũng đã có kết quả khả quan và
đã làm tăng được tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, so với
tiềm lực của Việt Nam thì những kết quả kinh tế đạt được có vẻ như còn chưa
tương xứng, đặc biệt là trong vấn đề thu hút đầu tư. Việt Nam là quốc gia
Đông Nam Á duy nhất tham gia vào Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình (CPTPP), là quốc gia có vùng biển nằm trên tuyến giao
thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương- Ấn Độ Dương, Châu ÂuChâu Á, Trung Đông- Châu Á và rất nhiều các lợi thế cạnh tranh khác nhưng
khả năng thu hút đầu tư của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, một trong
những lý do đó cần phải đánh giá nghiêm túc lại pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ
đầu tư của Việt Nam.
Việc xây dựng một cơ chế pháp lý về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư sao cho
phù hợp, hữu hiệu là việc phức tạp, khó khăn, đòi hỏi chính phủ phải áp dụng
linh hoạt nhiều cơ chế gắn liền với thực tế đòi hỏi của định hướng phát triễn
kinh tế. Sau hơn 5 năm thực hiện Luật Đầu tư, đạo luật này đã tỏ ra rất hữu
hiệu khi tình hình đầu tư đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên cần nghiêm túc đánh

giá lại các quy định pháp luật, đặc biệt là những quy định liên quan đến ưu
đãi, hỗ trợ đầu. Việc xem xét đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống sẽ
giúp nhìn nhận chính xác hơn về thực tiến thực hiện pháp luật, từ đó sẽ có
những điều chỉnh cho phù hợp nhằm làm tăng hơn nữa khả năng phát triễn
2


kinh tế. Với đề tài “Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam hiện nay”
tác giả sẽ trình bày tổng thể các quy định pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
của Việt Nam và cung cấp tình hình thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra các đánh
giá, và kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật có liên
quan trong thời gian đến.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến
Về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư từ trước đến nay đã có một số công trình
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như:
Các luận văn: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Lệ Thu; “Pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh
Quảng Ngãi” của tác giả Phạm Thị Thanh Ngọc; “Hoàn thiện pháp luật về
khuyến khích đầu tư trong nước” của Hoàng Minh Sơn; “Ưu đãi đầu tư với
đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư 2014 từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của
tác giả Nguyễn Văn Phụng; “.
Đề tài khoa học cấp Viện “Đánh giá cơ chế chính sách khuyến khích
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ” của tác giả Hoàng Văn
Cương; “Báo cáo tác động của chính sách ưu đãi thuế và tình trạng tránh thuế
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam do
ActionAid Việt Nam và Hiệp hội tư vấn thuế Việt Nam thực hiện năm 2015”
công trình này đã đánh giá lại chính sách ưu đãi liên quan đến thuế của pháp
luật Việt Nam và thông qua đó đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trương Bá Tuấn “Cơ sở lý luận và định
hướng hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam” vào năm 2018.

Bài báo “Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nước ngoài của một số nước
ASEAN và gợi mở cho Việt Nam” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Hưng, Phạm
Thị Hiền, Nguyễn Thị Thuỳ Linh.
Các công trình nghiên cứu trên từ nhiều góc độ đã phân tích, đánh giá
3


pháp luật về đầu tư nói chung và pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nói riêng.
Các công trình trên đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam theo Luật Đầu tư năm 2014.
Tuy nhiên mỗi công trình nghiên cứu có một cách nhìn nhận riêng, đa phần là
tập trung nghiên cứu về biện pháp ưu đãi đầu tư chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách tổng quát cả biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư như là hai
biện pháp tương quan hỗ trợ lẫn nhau, mặc khác các công trình này đa phần là
nghiên cứu trước khi luật đầu tư năm 2014 có hiệu lực. Do đó việc lựa chọn
đề tài “Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam hiện nay” là việc
nghiên cứu có ý nghĩa lý luận quan trọng nhằm hệ thống hoá những quy định
pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng
pháp luật liên quan tại Việt Nam, từ đó đưa ra các phương hướng nhằm hoàn
thiện pháp luật trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hệ thống hoá lại các quy định
pháp luật liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam, kết hợp với nghiên
cứu tình hình áp dụng pháp luật thực tiễn để đánh giá hiệu quả thu hút đầu tư,
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan.
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu về mặt lý luận về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo luật đầu tư
hiện hành;

- Hệ thống hoá các quy định pháp luật liên quan đến ưu đãi và hỗ trợ
đầu ;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu
tư trên thực tế;
4


- Từ những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng, luận văn đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
ưu đãi, hỗ trợ đầu tư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư theo quy định tại Luật đầu tư năm 2014, trên cơ sở đó, phân tích đánh
giá thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về văn bản quy phạm pháp luật: đề tài nghiên cứu các quy định của
Luật đầu tư năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam.
- Về thời gian: đề tài nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật
về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1987 cho đến nay trên cơ sở đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy
định về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam.
- Về không gian: đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở sử dụng những quan điểm của Đảng và
Nhà nước, cũng như các quy định pháp luật liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ đầu
tư. Bên cạnh đó luận văn cũng sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử.
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như:
5


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thông qua việc thu thập, hệ thống
các tài liệu liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, tác giả có cái nhìn tổng quan
về các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, từ đó có cơ sở định hướng cho việc
nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ những thông tin, số liệu có được
qua nghiên cứu các tài liệu liên quan, tác giả tiến hành phân tích và tổng hợp
các thông tin để có những nhìn nhận, đánh giá pháp luật chính xác, toàn diện
hơn.
Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
so để hoàn thiện việc thực hiện đề tài nghiên cứu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về mặt lý luận, luận văn này có những đóng góp tích cực cho quá trình
hội nhập quốc tế và cải cách kinh tế của đất nước, góp phần củng cố hành
lang pháp lý về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, từ đó nâng cao khả năng thu hút
nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, luận văn đánh giá một cách khách quan thực trạng hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện nay về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trong mối tương
quan của với tình hình thực tiễn. Trên cơ sở đó đưa ra các định hướng và giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và pháp
luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và pháp luật
về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam.
6


Chương 2: Thực trạng pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Xu hướng thu hút đầu tư thông qua các biện pháp ưu đãi và
hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ ĐẦU TƯ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
1.1.1. Khái quát về đầu tư
Đầu tư là một thuật ngữ phổ biến thường được sử dụng trong các lĩnh
vực kinh tế, xây dựng hoặc pháp lý. Trong từng lĩnh vực, đầu tư lại được tiếp
cận dưới cách hiểu khác nhau nên định nghĩa về thuật ngữ này khá đa dạng.
Khái niệm đầu tư theo cách hiểu thông thường là việc “bỏ nhân lực, vật lực,
tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội”[28,
tr.301]. Trong khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là việc sử dụng các
nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế những kết quả ở tương lai
lớn hơn giá trị nguồn lực đã được sử dụng để đạt được kết quả đó. Theo nghĩa
rộng, đầu tư được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tạo ra
các tài sản mới (vật chất hoặc trí tuệ) cho xã hội; theo nghĩa hẹp thì tuỳ vào

mỗi lĩnh vực chuyên ngành, khái niệm này sẽ được tiếp cận cụ thể hơn. Các
nguồn lực được sử đụng dể đầu tư rất đa dạng, có thể là tiền, là tài nguyên
thiên nhiên, sức lao động, tài sản trí tuệ,…. Trong cơ chế thị trường, hoạt
động đầu tư có thể do nhiều chủ thể tiến hành như là các tổ chức hoặc cá nhân
với ngày càng đa dạng về tính chất. Hoạt động đầu tư suy cho cùng cũng
hướng đến một mục đích chung nhất là làm tăng thêm tài sản vật chất (tiền,
tài sản,…) hoặc để gia tăng nguồn nhân lực cho sự phát triển lâu dài. Kết quả
của hoạt động đầu tư không chỉ là mang lại lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư mà
còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế và cho toàn xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là hoạt động được thực hiện bởi các nhà
đầu tư theo những hình thức luật định nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
8


Chính sự khác biệt về mục tiêu đạt được của hoạt động đầu tư đã phân chia
đầu tư thành hai nhóm là đầu tư có tính chất lợi nhuận và đầu tư phi lợi
nhuận. Tuy nhiên cần lưu ý là pháp luật đầu tư hiện hành chỉ điều chỉnh hoạt
động đầu tư có tính chất vì lợi nhuận (thương mại). Quan điểm lập pháp này
đã được thể hiện rõ từ Luật Đầu tư năm 2005 cho đến Luật Đầu tư năm 2014.
Tại Luật Đầu tư 2005, văn bản pháp luật đầu tiên đưa định nghĩa về hoạt động
đầu tư, theo đó thì “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản
hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Nhằm củng cố cho định nghĩa này, thì định nghĩa hoạt động thương mại tại
Luật Thương mại năm 2005 cũng đã nhận định hoạt động đầu tư là một bộ
phận của hoạt động thương mại: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Hoạt động
đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung [43, tr.32-45],
và có mối liên hệ mất thiết với các bộ phận khác của hoạt động thương mại.

Sự khác biệt cơ bản của hoạt động đầu tư so với các hoạt động thương mại
khác thể hiện ở chỗ đầu tư là hoạt động có tính chất tạo lập (bỏ vốn) nhằm
hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện
hoạt động thương mại [44, tr.8].
Về sau khi Luật Đầu tư 2014 được ban hành thì cũng đã kế thừa quan
điểm lập pháp trên về đầu tư và thể hiện có phần rõ ràng hơn khi tại phần giải
thích từ ngữ không sử dụng thuật ngữ “đầu tư” như tại Luật Đầu tư 2005 mà
chuyển sang dùng thuật ngữ “đầu tư kinh doanh”, theo đó “Đầu tư kinh
doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh
thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần
vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện
9


dự án đầu tư”. Kết hợp với quy định về thuật ngữ “kinh doanh” tại Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thì ta có thể hiểu đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu
tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động đầu tư kinh doanh được
thực hiện thông qua nhiều hình thức như đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, đầu
tư theo hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
Về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, hoạt động đầu tư kinh doanh
được thực hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống, trên phạm vi địa lý
rộng khắp với nguồn vốn đa dạng. Vì vậy để quản lý được hoạt động này
cũng như phục vụ cho việc xây dựng một hành lang pháp lý vững chắc, việc
phân loại đầu tư theo các tiêu chí nhất định là việc làm cần thiết. Theo đó có
thể phân loại đầu tư kinh doanh thành các nhóm dựa vào các tiêu chí sau:
- Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư, đầu tư kinh doanh có thể chia thành
hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước
ngoài. Ngay cả bản nhân nguồn vốn trong nước cũng có thể chia thành nguồn

vốn nhà nước và nguồn vốn tư nhân (ngoài nhà nước).
- Căn cứ vào mục đích của nhà đầu tư, đầu tư kinh doanh có thể chia
thành đầu tư kinh doanh (vì lợi nhuận) và đầu tư phi lợi nhuận.
- Căn cứ vào quan hệ quản lý của nhà đầu tư, có thể chia hoạt động đầu
tư kinh doanh thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Sự phân chia này
được luật hoá tại Đ21 và Đ26 Luật Đầu tư 2005, đặc biệt sự ghi nhận về hình
thức đầu tư gián tiếp tạo nền tảng pháp lý cho sự ra đời của Luật Chứng
khoán năm 2006. Tuy nhiên tại Luật Đầu tư 2014, sự phân loại này không còn
được sử dụng nữa mà sự phân biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp chỉ
còn tồn tại dưới dạng lý luận vì sự khác biệt giữa hai hình thức đầu tư này chỉ
mang tính chất tương đối.
10


- Căn cứ vào lĩnh vực đầu tư, đầu tư kinh doanh có thể phân thành đầu
tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư phát
triển sản xuất, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục,… Nhìn chung các hoạt
động đầu tư này luôn có sự tương tác với nhau, kết quả của hoạt động này là
tiền đề để phát triển của hoạt động kia.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
Pháp luật đầu tư Việt Nam không đưa ra một định nghĩa cụ thể về ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư (một số tài liệu gọi chung là biện pháp khuyến
khích đầu tư) nên khái niệm về thuật ngữ này chỉ được tiếp cận dưới góc độ
khoa học pháp lý. Dưới góc độ pháp lý, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư là một trong
những công cụ giúp nền kinh tế của một quốc gia thu hút được nguồn vốn đầu
tư một cách tốt nhất. Đặc biệt là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới hiện
nay đều đang có chung một vấn đề là tìm kiếm nguồn vốn đầu tư từ các thành
phần kinh tế như một yếu tốt thiết yếu giúp nền kinh tế có thể tồn tại và phát
triển mạnh mẽ hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, các nền kinh tế đều
ban hành hàng loạt các chính sách, pháp luật nhằm điều chỉnh vấn đề ưu đãi,

hổ trợ đầu tư như là thứ công cụ đắc lực và phù hợp với thông lệ quốc tế trong
việc tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao.
Các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư được hiểu là tổng hợp các
quy định của Nhà nước ban hành nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi hoặc đem lại
những lợi thế nhất định cho nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài khi
tiến hành hoạt động đầu tư tại một quốc gia nhất định, trên cơ sở kết hợp hài
hoà giữa lợi ích của Nhà nước và của nhà đầu tư.
Trước năm 2005, hệ thống pháp luật đầu tư của Việt Nam được chia
thành hai lĩnh vực điều chỉnh chính bao gồm các hoạt động đầu tư trong nước
và các hoạt động đầu tư nước ngoài. Về vấn đề ưu đãi, hỗ trợ đầu tư thì lúc
bấy giờ Nhà nước đã đặt ra những điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư
11


trong nước khi các chủ thể này tiến hành hoạt động đầu tư vào những lĩnh
vực, địa bàn nằm trong danh mục được hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư [38]. Mức
độ ưu đãi, hỗ trợ cho nhà đầu tư được nhìn nhận trong tương quan so sánh với
điều kiện đầu tư của những nhà đầu tư khác hoặc chính những nhà đầu tư đó
khi đầu tư vào những dự án thuộc danh mục đượng hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu
tư. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng ban hành những quy định mà thông qua đó
dành cho nhà đầu tư nước ngoài những ưu đãi khi những chủ thể này tiến
hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Những ưu đãi, hỗ trợ này bao gồm nhiều
loại như liên quan đến thủ tục hành chính, tài chính, đất đai, sử dụng nguồn
tài nguyên và các ưu đãi, hỗ trợ khác theo hướng có lợi cho nhà đầu tư. Ưu
đãi và hỗ trợ đầu tư là công cụ thể hiện thái độ của quốc gia tiếp nhận đầu tư
đối với các nhà đầu tư, số lượng các biện pháp này sẽ tỉ lệ thuận với mức độ
mong muốn được tiếp nhận những nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong
và ngoài nước.
Kể từ năm 2005, khi Quốc hội thông qua Luật Đầu tư đã thể hiện tư
tưởng thống nhất về các hoạt động đầu tư, theo đó không còn phân loại thành

hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài nữa. Tất cả mọi
hoạt động đầu tư đều phải chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư chung, và các
dự án đều được hưởng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư như nhau nếu thoả
mãn các tiêu chí. Luật Đầu tư Việt Nam lấy tiêu chí địa bàn đầu tư và lĩnh vực
đầu tư là những tiêu chí cơ bản để áp dụng các biện pháp ưu đãi và hỗ trợ đầu
tư.
Có thể thấy các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư có các đặc
điểm cơ bản nhất là các biện pháp này không áp dụng cho nhà đầu tư trong
bất cứ hoàn cảnh nào mà chỉ áp dụng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào một
địa bàn hoặc ngành nghề nhất định. Nhìn chung đặc điểm này xoay quanh
nguyên tắc “vốn chi phối”, theo đó hiểu là ngành nghề hoặc địa bàn nào mà
12


Nhà nước thấy cần vốn để phát triển thì sẽ ban hành ưu đãi, hỗ trợ trong lĩnh
vực hoặc địa bàn đó. Thông qua các biện pháp này, Nhà nước sẽ chủ động cơ
cấu lại nền kinh tế theo những kế hoạch đã đề ra.
1.2. Vai trò của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
1.2.1. Thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
Các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư để nhằm thu hút vốn đầu tư, đây là
mục đích cuối cùng của bất cứ chính phủ nào khi đặt ra những biện pháp này.
Đối với đầu tư tư trong nước, Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho các nguồn vốn
của nhà đầu tư trong nước đổ vào nền kinh tế. Không chỉ dừng lại ở việc
khuyến khích đầu tư vào những ngành nghề trọng điểm, những địa bàn phát
triển kinh tế mạnh mà Nhà nước còn nhấn mạnh chủ trương khuyến khích các
nhà đầu tư đầu tư vốn vào những địa bàn, ngành nghề đang định hướng phát
triển trong tương lai và những địa phương đang cần vốn để phát triển cân đối
với kinh tế vùng. Theo đó, những nhà đầu tư thuộc đối tượng được hưởng ưu
đãi, hỗ trợ sẽ được hưởng những chính sách liên quan đến tài chính, cụ thể là
được hưởng mức thuế suất hấp dẫn, được hưởng những hỗ trợ liên quan đến

thủ tục hành , về khoa học kỹ thuật và hàng hoạt các hình thức khác.
Đối với dòng vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, việc ban hành các
biện pháp ưu đãi, hỗ trợ có ý nghĩa như một trong những hành động nhằm cải
thiện môi trường đầu tư hữu hiệu, tạo ra sự hấp dẫn cho thị trường. Trong bối
cảnh hiện nay, các nước tăng trưởng kinh tế không đơn thuần chỉ dựa vào
nguồn vốn trong nước mà còn phải tận dụng nguồn tài chính lớn từ các quốc
gia khác. Vì vậy mà vấn đề môi trường đầu tư của quốc gia nào có khả năng
thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế đang là vấn đề hết sức quan trọng. Một
trong những tiêu chí để làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế
chính là các nhà đầu tư sẽ quan tâm đến các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư của quốc
gia sở tại đối với hoạt động đầu tư của mình. Sự tăng trưởng vốn đầu tư theo
13


thời gian của từng quốc gia có phần không nhỏ tỉ lệ thuận với việc mở rộng,
nâng cao chất lượng những ưu đãi và hỗ trợ đầu tư cho nhà đầu tư nước
ngoài. Đôi khi những ưu đãi đó chỉ là một phần nhỏ về tài chính nhưng đằng
sau đó có thể cho thấy được thái độ đầy thiện chí của nước tiếp nhận đầu tư
đối với nguồn vốn đầu tư. Có thể nói các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư một
mặt nào đó cũng có điểm tương đồng với biện pháp bảo đảm đàu tư, tạo ra
tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư khi đầu tư vào một nền kinh tế dù rằng nền
kinh tế đó là thị trường mới, hoàn toàn xa lạ với tập quán kinh doanh truyền
thống trước nay của nhà đầu tư nước ngoài.
Chính xuất phát từ nhu cầu thu hút nguồn vốn đầu tư mà rất nhiều quốc
gia đã đưa ra các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ cho nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ
như Bruei cho phép 100% vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành sản xuất
công nghệ cao và ngành sản xuất hướng xuất khẩu (các ngành này trước đây
thuộc bảo hộ của Nhà nước); Indonesia cho phép nhà đầu tư nước ngoài được
sở hữu tối đa 100% vốn trong lĩnh vực ngân hàng; Myanmar thực hiện miễn
thuế TNDN tối thiểu 3 năm cho tất cả dự án đầu tư trong mọi lĩnh vực; Thái

Lan cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn của doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp.
1.2.2. Thông qua biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, Nhà nước sẽ chủ
động cơ cấu lại nền kinh tế
Như đã đề cập ở phần đặc điểm của ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, theo đó Nhà
nước không phải là đưa ra những biện pháp đồng đều cho nhà đầu tư trong
mọi trường hợp mà sẽ có những mức độ khuyến khích khác nhau dựa trên tiêu
chí ngành nghề và địa bàn nơi dự án đầu tư vào. Vậy không phải nhà đầu tư
có quyền đầu tư vào bất cứ ngành nghề và lĩnh vực nào cũng đều được đòi hỏi
những ưu đãi, hỗ trợ cho dự án đầu tư mà tuỳ thuộc vào ngành nghề mà khi
đầu tư vào thì nhà đầu tư có thể được hưởng ưu đãi hoặc có thể phải chịu
14


những ràng buộc nhất định. Đa phần các quốc gia đều quy định có 4 lĩnh vực
(bao gồm ngành nghề hoặc địa bàn) đầu tư mà mỗi lĩnh vực như vậy thể hiện
thái độ của nước tiếp nhận đầu tư có muốn kêu gọi nhà đầu tư đầu tư vào đó
hay không, đó là: Lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực cấm đầu tư. Nguyên tắc
để phân chia mức độ khuyến khích đầu tư ở các lĩnh vực là “nguyên tắc vốn
chi phối” ngành nào, địa bàn nào càng cần nhiều vốn để phát triễn thì sẽ càng
có nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho nhà đầu tư.
Hiện nay, theo Luật Đầu tư hiện hành, các ngành nghề được khuyến
khích đầu tư chủ yếu tập trung vào phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, lĩnh vực
công nghệ cao, giáo dục, y tế,… Các địa bàn khuyến khích đầu tư là những
địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đây chính là những ngành
nghề, địa bàn mà Nhà nước ta đang cần nguồn vốn để phát triển trong thời
gian tới, vì thế mà khi nhà đầu tư có dự án đầu tư vào những ngành nghề, địa
bàn này thì sẽ được hưởng ưu đãi và hỗ trợ đầu tư từ Nhà nước.

Thông qua các tiêu chí để được hưởng ưu đãi, hỗ trợ mà Nhà nước có
thể chủ động cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng phát triển của đất nước.
Khi đầu tư vào những ngành nghề, địa bàn được khuyến khích thì nhà đầu tư sẽ
nhận được những ưu đãi, hỗ trợ đáng kể từ nhà nước và từ đó, một mặt mang
lại những lợi ích thiết thực cho nhà đầu tư, một mặt sẽ giúp Nhà nước chuyển
dịch được cơ cấu nền kinh tế một cách hợp lý và phát triển được các ngành
nghề, địa bàn đang thiếu vốn kinh doanh, từ đó có thể thúc đẩy những nơi này
phát triển đồng đều với nền kinh tế, tạo đà tăng trưởng bền vững và ổn định.
1.2.3. Tạo ra sự đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư phù hợp với
thông lệ quốc tế
Nói đến thu hút đầu tư nước ngoài, việc ban hành các ưu đãi, hỗ trợ đầu
15


tư không chỉ tạo ra ưu thế của môi trường đầu tư để thu hút lượng lớn vốn đầu
tư so với các nền kinh tế khác mà việc đưa ra những ưu đãi, hỗ trợ xét trên
một phương diện nào đó có thể là xem là bắt buộc. Mỗi nền kinh tế đều có
một hoặc nhiều đối tác thương mại với mình, và đặc biệt trong bối cảnh hiện
nay, các quốc gia đều tham gia vào các cộng đồng chung mang tính chất
thương mại có thể mang tính chất song phương hoặc đa phương. Việc các
quốc gia hợp tác quốc tế trên lĩnh vực thương mại đưa đến hàng loạt vấn đề
cần giải quyết của từng quốc gia, với mục đích hướng đến là để Nhà nước đó
có thể tiến hành hoạt động thương mại sao cho phù hợp với hoạt động thương
mại trước nay của mình và cũng phù hợp với mục tiêu phát triển chung của
các đối tác thương mại trong các thoả thuận song phương hoặc đa phương.
Trong đó vấn đề cần giải quyết nhanh chóng là hoàn thiện hệ thống pháp luật
sao cho vừa phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước của mỗi quốc gia mà vẫn
phù hợp với những cam kết trong pháp luật quốc tế. Như vậy, vấn đề ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư cũng như những vấn đề liên quan khác cũng cần phải được
hoàn thiện để không còn sự khác biệt quá lớn giữa các quốc gia tham gia thoả

thuận. Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư giúp nền kinh tế tạo ra sực cạnh tranh trong
vấn đề thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tu nước ngoài và cũng tạo tiền đề để
quốc gia đó tham gia vào nhiều thoả thuận thương mại mang tính chất khu
vực và toàn cầu hơn, hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế hơn. Như vậy
những quy định về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ngày càng hoàn thiện góp phần làm
hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam ổn định hơn, mặt khác, các biện
pháp này quay lại hỗ trợ cho Việt Nam trong vấn đề kêu gọi vốn đầu tư, đặc
biệt là vốn đầu tư nước ngoài.
1.3. Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư của một số quốc gia trên thế
giới
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên hầu
16


hết các lĩnh vực, đặc biệt là về phát triển kinh tế thì việc nghiên cứu pháp luật
của các quốc gia khác là vô cùng cần thiết. Trong nội dung luận văn này này,
tác giả đề cập tới pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư của một số quốc gia trên
thế giới, qua đó rút kinh nghiệm để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ưu đãi,
hỗ trợ đầu tư của Việt Nam hiện nay.
1.3.1. Pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư của một số quốc gia thuộc
khối ASEAN
Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại Thái Lan. Thái Lan có một cơ quan chuyên
phụ trách về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, các dự án đầu tư muốn được hưởng các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ thì đều phải thông qua cơ quan này, đó là Ủy ban
Đầu tư Thái Lan. Sau khi nghiên cứu pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư của
Thái Lan đối với nhà đầu tư, có thể thấy các hình thức ưu đãi đầu tư của Thái
Lan có một số nét tương đồng với Việt nam ưu đãi về thuế. Thái Lan thực
hiện miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị; giảm thuế nhập
khẩu nguyên liệu; miễn, giảm thuế TNDN (ví dụ giảm 50% thuế TNDN, khấu
trừ hai lần chi phí vận chuyển, điện và nước, miễn thuế nhập khẩu đối với

nguyên liệu và nguyên liệu thiết yếu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu).
Bên cạnh đó còn có các hình thức ưu đãi khác nhằm thu hút đầu tư như:
- Cho phép công dân nước ngoài vào Thái Lan để nghiên cứu cơ hội
đầu tư; cho phép các nhà đầu tư đưa vào Thái Lan những lao động kỹ năng
cao và chuyên gia để thực hiện việc xúc tiến đầu tư;
- Cho phép nhà đầu tư sở hữu nhà và công trình xây dựng trên đất do
chủ đầu tư thuê. Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài không được quyền sở hữu
đất ở Thái Lan, nhưng có thể thực hiện hình thức thuê đất và có thể sở hữu
đối với cơ sở hạ tầng xây trên đất thuê.
- Cho phép nhà đầu tư mang lợi nhuận ra nước ngoài bằng ngoại tệ.
Bên cạnh đó, Thái Lan cũng giống như Việt Nam và một số quốc gia
17


khác là chia ra các địa bàn ưu đãi đầu tư, đặc biệt ưu đãi đầu tư và thực hiện
các biện pháp ưu đãi như miễn thuế, giảm thuế nhập khẩu, thuế TNDN.
Về thủ tục đầu tư, theo Uỷ ban Đầu tư Thái Lan thì có trên 20 cơ quan
của Chính phủ Thái Lan tham gia vào quy trình thẩm định, thành lập doanh
nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài tại Thái Lan. Quá trình thành lập doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thái Lan sẽ phải trải qua 2 bước là đăng
ký Giấy phép kinh doanh nước ngoài và đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng, Thái Lan là một trong những quốc gia có nền kinh tế
phát triển hàng đầu của khu vực ASEAN, một phần không nhỏ là nhờ có
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hợp lý ở từng thời kỳ. Một số chính sách
mới trong thu hút đầu tư nước ngoài thời kỳ hiện nay như hướng vào phát
triển sản xuất phục vụ cho xuất khẩu; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
phát triển công nghệ cao; nghiên cứu và phát triển, hoạt động đào tạo công
nghệ tiên tiến; Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các vùng nông thôn để
thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa các vùng trên cả nước.
Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại Philippines, hệ thống pháp luật về ưu đãi

đầu tư của Philippines sẽ được thực hiện bởi 2 phương thức chính đó là:
- Ưu đãi thông qua chính sách thuế, theo đó Philippines đánh thuế lợi
tức 35%, các doanh nghiệp đầu tư vào nghành mũi nhọn được miễn thuế 4
năm. Ngoài ra, cũng giống chính sách thu hút đầu tư các quốc gia khác,
Philippines miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, phụ tùng thiết bị, đặc biệt
là miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị đưa vào các khu chế xuất và
cảng tự do.
- Ưu đãi, thu hút đầu tư không bằng thuế. Điểm nổi bật trong chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài của Philippines ngoài ưu đãi thuế là việc đơn
giản hóa các thủ tục hành chính. Việc giảm bớt các thủ tục hành chính đảm
bảo cấp giấy phép đầu tư nhanh gọn, không gây phiền hà cho các nhà đầu tư
18


và họ cũng thực hiện rất nghiêm chỉnh các qui chế về hành chính. Chính
quyền Philippines cũng đưa ra các biện pháp nhằm giảm sự phiền hà của các
thủ tục hành chính như giới hạn chữ ký trong hồ sơ hành chính. Hiện nay,
việc cải cách hành chính ở Philippines nói chung và trong lĩnh vực đầu tư nói
riêng đã đạt được nhiều kết quả rất đáng học hỏi.
Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại Malaysia. Tương tự như các quốc gia khác,
Malaysia cũng có những hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư thông qua hai công cụ
chính là thuế và các biện pháp phi thuế.
Các ưu đãi cụ thể như giảm 10% thuế giá trị gia tăng cho sản phẩm
xuất khẩu, giảm 5% giá nguyên liệu đầu vào nội địa để sản xuất hàng xuất
khẩu, cũng như chi phí quảng cáo, nghiên cứu thị trường. Với mục tiêu là tạo
việc làm và khuyến khích đầu tư mở rộng của các doanh nghiệp, Malaysia đã
đưa ra điều kiện để được hưởng ưu đãi đầu tư là lao động thường xuyên từ
500 người trở lên hoặc vốn giải ngân đạt từ 25 triệu Ringit trở lên. Bên cạnh
đó, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển nguồn nhân
lực, Malaysia đã cấp ưu đãi đặc biệt cho phép các doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực đào tạo hướng nghiệp cho người lao động hoặc xây dựng các
trường đào tạo. Nhà nước của quốc gia này cũng đẩy mạnh chủ trương miễn
thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị cho các khu chế xuất và các dự án
hướng vào xuất khẩu.
Điểm đặc biệt là Malaysia đã đưa ra chính sách ưu đãi cho các nhà đầu
tư tiên phong và trợ cấp thuế đầu tư để áp dụng cho các nhà đầu tư ở các lĩnh
vực như chế biến sản phẩm nông nghiệp; hóa chất và hóa phẩm dầu khí; dược
phẩm; sản xuất các sản phẩm cao su; các sản phẩm từ dầu cọ; đồ gỗ; bột giấy,
giấy và bảng giấy;… với các điều kiện như về việc áp dụng công nghệ, về
mức độ giá trị gia tăng và các mối liên kết công nghiệp của dự án. Những lĩnh
vực trên đều là những ngành có thế mạnh của Malaysia, cũng như các quốc
19


gia khác, Nhà nước Malaysia muốn thúc đẩy phát triển những ngành thuộc thế
mạnh của mình nên đã có chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nhằm nâng cao
công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Không chỉ đưa ra các chính sách
ưu đãi nhằm thu hút đầu tư vào các ngành có thế mạnh, Malaysia còn khuyến
khích đầu tư cho các ngành công nghệ cao, dự án chiến lược, máy móc thiết
bị công nghiệp,… đây là những ngành mà Malaysia định hướng phát triễn.
Malaysia đang áp dụng chính sách đào tạo lao động theo yêu cầu của
chủ đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động. Gần đây, Malaysia này có qui định doanh nghiệp không phải
trả thuế sử dụng nhân công nước ngoài đối với các chuyên gia quản lý. Mọi
thủ tục gây nên sự phiền hà cho nhà đầu tư dần được loại bỏ và thay vào đó là
cơ chế, thủ tục nhanh, gọn, thông thoáng và hiệu quả.
Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại Indonesia. Tình hình đầu tư nước ngoài tại
Indonesia thời gian qua được đánh giá khá tốt, các doanh nghiệp nước ngoài
tại Indonesia hoạt động rất hiệu quả. Họ có xu hướng đầu tư với nguồn vốn
khá cao. Thực tế, dòng vốn FDI vào Indonesia đến từ rất nhiều các quốc gia

khác nhau như Singapore, Nhật Bản, Luxembourg, Mỹ…. Sở dĩ nước này có
được những thành công trong thu hút và phát triển đầu tư cũng là nhờ có
những chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư hiệu quả của họ.
Chính quyền Indonesia dành ưu đãi về thuế cho các dự án đầu tư lần
đầu trong ngành công nghiệp như kim loại cơ bản, thiết bị viễn thông, lọc dầu
công nghiệp máy móc; ngành công nghiệp tài nguyên tái tạo;… Ngoài ra,
Indonesia còn tiến hành dỡ bỏ các hạn chế về thuế đối với việc sử dụng người
lao động nước ngoài.
Bên cạnh đó, Indonesia có một số chính sách hỗ trợ đầu tư khác như về
lãi suất tín dụng, chính sách xuất khẩu hàng hóa khá thông thoáng. Ví dụ, lãi
suất tín dụng phục vụ xuất khẩu là 9%/năm, trong khi lãi xuất thông thường là
20


×