Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Sự điều chỉnh chính sách của mỹ đối với đông nam á thập niên đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THU THỦY

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI
ĐÔNG NAM Á THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60 31 40

Người hướng dẫn: PGS.TSKH. Trần Khánh

HÀ NỘI - 2007


Mục lục

1

Bảng kí hiệu viết tắt

3

LỜI MỞ ĐẦU

4

CHƢƠNG I. NHỮNG YẾU TỐ CHÍNH TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ

9



ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI ĐÔNG NAM
Á THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI.
1.1. Yếu tố chủ quan

9

1.2. Yếu tố khách quan

14

CHƢƠNG II. SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI

36

VỚI ĐÔNG NAM Á THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1. Khái quát về chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập

36

niên đầu sau khi chiến tranh lạnh kết thúc (thập niên 90 của thế
kỷ XX).
2.1.1. Đông Nam Á trong chính sách của Mỹ dưới thời

36

chiến tranh lạnh.
2.1.2. Sự thay đổi chính sách của Mỹ đối với Đông

45


Nam Á trong thập niên 90.
2.2. Các lĩnh vực điều chỉnh trong chính sách của Mỹ đối với Đông

53

Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI.
2.2.1. Trong lĩnh vực an ninh - quân sự.

54

a) Trong cuộc chiến chống khủng bố tại Đông Nam Á

55

b) Mỹ gia tăng sự can dự và kiểm soát trên biển, trong đó có eo

62

biển Malacca và khu vực biển Đông.
2.2.2. Trong lĩnh vực chính trị-ngoại giao, dân chủ và nhân quyền.

67

2.2.3. Trong lĩnh vực kinh tế và hỗ trợ phát triển.

71

1
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —

Nguyễn Thu Thủy


CHƢƠNG III. TRIỂN VỌNG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI

78

VỚI ĐÔNG NAM Á VÀ QUAN HỆ MỸ-VIỆT.
3.1. Thách thức

78

3.2. Triển vọng

80

3.3. Triển vọng quan hệ Mỹ-Việt

85

KẾT LUẬN

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

PHỤ LỤC


2
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy

104


BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Tiếng Anh:
ASEAN:

Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á)

ARF:

ASEAN Regional Forum (Diễn đàn khu vực ASEAN)

APEC:

Asia-Pacific Economic Cooperation Forum (Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương)

AFTA:

ASEAN Free Trade Area (Khu vực thương mại tự do ASEAN)

CIA:

Central Inteligence Agency (Cục tình báo trung ương Mỹ)


FTA:

Free Trade Agreement (Hiệp định buôn bán tự do của Mỹ)

IMF:

International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ Quốc tế)

NAFTA:

North American Free Trade Agreement (Hiệp định thương mại
tự do Bắc Mỹ)

TAC:

Treaty of Amity and Cooperation (Hiệp ước Thân thiện và Hợp
tác ASEAN)

USAID:

US Agency of International Development (Cơ quan phát triển
quốc tế Hoa Kỳ)

UNCTAD: United Nations Conferences of Trade and Development (Hội
nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển)
SEATO:

Southest Asia Treaty Organization (Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á)

World Bank (Ngân hàng thế giới)

WB:
Tiếng Việt:
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
CNTB:
Chủ nghĩa tư bản
Châu Á-TBD: Châu Á -Thái Bình Dương
ĐNA:
Đông Nam Á
TBCN:
Tư bản chủ nghĩa

3
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


LỜI MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài
Trong đời sống quan hệ quốc tế hiện đại, Mỹ là một nước siêu cường,
có ưu thế vượt trội hầu như trên tất cả các mặt như kinh tế, quân sự, khoa
học, công nghệ, đã và đang sử dụng sức mạnh đó để thiết lập vị thế bá chủ
thế giới. Khoảng một thập kỷ rưỡi trở lại đây, kể từ khi Liên Xô sụp đổ,
chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ luôn điều chỉnh sách lược, chiến lược của mình
và Đông Nam Á không nằm ngoài sự điều chỉnh đó.
Nếu như ở thập niên đầu sau khi chiến tranh lạnh kết thúc (thập kỷ 90),
Mỹ có phần sao nhãng Đông Nam Á thì bước vào đầu thế kỷ XXI, nhất là
sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ hơn lúc nào hết gia tăng chính sách “Mỹ hoá thế

giới’, triển khai Chiến lược Toàn cầu mới, để ý nhiều hơn đến khu vực này.
Việt Nam là thành viên của ASEAN, nằm ở vị trí địa chiến lược, đã
đang và sẽ chịu tác động sâu sắc của sự thay đổi môi trường địa chính trị thế
giới, trước hết là sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn, trong đó có Mỹ.
Do đó, việc tìm hiểu nguyên nhân, nội dung sự điều chỉnh chiến lược, chính
sách đối ngoại của Mỹ nói chung, đối với Đông Nam Á nói riêng trong
những năm gần đây, để từ đó có thể nhận biết xu hướng tiến triển của chính
sách đó trong những năm sắp tới và đưa ra một vài nhận xét tác động của quá
trình trên đối với Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết, mang tính khoa học
và thời sự cao. Chính vì vậy, tôi chọn đề tại “Sự điều chỉnh chính sách của
Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI” làm đề tài luận văn cao
học của mình.

4
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


2) Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tƣ liệu tham khảo
Nghiên cứu sự thay đổi, điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại
của Mỹ nói chung, từ sau chiến tranh lạnh, nhất là sau sự kiện 11/9 nói riêng
được đông đảo các học giả, các nhà chính trị trong và ngoài nước quan tâm.
Để viết công trình này, tác giả luận văn cao học bước đầu tiếp cận được một
số công trình bằng tiếng Anh như: “Some Issues in US-East Asia Policies”
của A. Kelly in trong Tạp chí East Asia and Pacific Affair, số 4, tháng 42004; “American’s Role in Asia: American View. The Asia Foundation, CA.
USA, 2004; Southeast Asia in the Sino-US Strategic Balance của Shannon
Tow in trong Tạp chí Contemporary Southest Asia, Số 3, tháng 12-2004 v.v.
Ở Việt Nam cũng xuất hiện khá nhiều công trình viết về chính sách
của Mỹ đối với Đông Nam Á trong những năm gần đây. Trong số đó có sách
chuyên đề “Về chiến lược an ninh của Mỹ hiện nay” do tác giả Lê Linh Lan

làm chủ biên (Nxb. CTQG, 2004); các bài đăng trên báo hay tạp chí như:
“Tác động của sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ đến an ninh ở khu
vực ĐNA và Châu Á- Thái Bình Dương” trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số
12 của tác giả Nguyễn Kim Lân; “Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với
Đông Nam Á từ sau sự kiện 11/9”, Châu Mỹ ngày nay, số 06 của tác giả
Phạm Cao Cường; hay “Tác động của sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu mới
của Mỹ đến Đông Nam Á” của tác giả Nguyễn Hoàng Giáp đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, v.v…
Mặc dù có khá nhiều bài viết, sách tham khảo liên quan đến đề tài của
luận văn, nhưng hiện tại ở Việt Nam chưa xuất hiện một công trình nghiên
cứu mang tính tổng hợp, tương đối chuyên sâu, phân tích có dự báo về sự
thay đổi chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á trong thập niên đầu thế kỷ
XXI. Bên cạnh đó tác giả luận văn cũng muốn bước đầu tìm hiểu, tổng kết,
5
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


đánh giá tác động của sự thay đổi chính sách của Mỹ đối với sự ổn định và
phát triển của khu vực nói chung, Việt Nam nói riêng hiện nay và những năm
sắp tới.
Nguồn tài liệu tham khảo dành cho luận văn cao học này là hết sức
phong phú. Ngoài các sách báo đã xuất bản, còn có các công trình khoa học
cấp Nhà nước, Bộ, Trường, Viện nghiên cứu chuyên ngành của Việt Nam
như các công trình của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện nghiên cứu Bắc
Mỹ của Viện KHXHVN, của Học Viện Quan hệ Quốc tế của Bộ Ngoại giao,
Khoa Quốc tế học của ĐHQGHN, Viện Quan hệ Quốc tế của Học Viện
Chính Trị Quốc Gia HCM, tài liệu của Thông tấn xã Việt Nam v.v. Hơn nữa,
có thể tiếp cận các tài liệu qua Internet, v.v.
3) Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

a. Mục đích
Làm rõ sự điều chỉnh, thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Châu
Á-Thái Bình Dương nói chung, Đông Nam Á nói riêng trong những năm
đầu của thế kỷ XXI, từ đó đánh giá tác động của qua trình này đến sự phát
triển của khu vực (trong đó có Việt Nam) hiện nay và những năm sắp tới.
b. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, đề tài cần làm rõ những nội dung chính
sau:
- Phân tích những yếu tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách của
Mỹ đối với Đông Nam Á thời gian gần đây;
- Làm rõ sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á;
- Tác động của sự điều chỉnh trên đến an ninh và phát triển của Đông
Nam Á và Việt Nam.
6
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


c. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chủ yếu xem xét sự thay đổi chính sách của Mỹ đối với
Đông Nam Á thập niên đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt là sau sự kiện
11/9/2001. Tuy nhiên, để làm rõ hơn vấn đề này, luận văn còn đề cập đến
chính sách của Mỹ trước đó, nhất là trong thập niên đầu khi chiến tranh lạnh
kết thúc.
4) Đóng góp của luận văn
- Góp phần nhận diện và đánh giá sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với
Đông Nam Á.
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên, học viên và nghiên
cứu sinh một cách tương đối có hệ thống chính sách đối ngoại của Mỹ và vị
thế của Đông Nam Á trong bối cảnh gia tăng của toàn cầu hoá, khủng bố

quốc tế và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trong khu vực.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
tập trung vào 3 chương:
Chương I. Những yếu tố chính tác động đến sự điều chỉnh chính sách của
Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI.
Yếu tố chủ quan (từ phía Mỹ, đặc biệt là từ sự điều chỉnh Chiến lược
Toàn cầu mới của Mỹ sau sự kiện 11/9).
Yếu tố khách quan (chủ yếu là sự thay đổi môi trường địa chính trị thế
giới, đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc, phát triển nhanh chóng của Ấn
Độ, gia tăng sức ép của toàn cầu hoá và liên kết khu vực, sự bùng nổ khủng
7
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


bố bạo lực và ly khai dân tộc cùng với sự nổi lên của các vấn đề an ninh phi
truyền thống).
Chương II. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập
niên đầu thế kỷ XXI.
2.2.

Khái quát về chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên

đầu sau khi chiến tranh lạnh kết thúc (thập niên 90 của thế kỷ XX)
2.2.1. Đông Nam Á trong chính sách của Mỹ dưới thời chiến
tranh lạnh.
2.2.2. Sự thay đổi chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á
trong thập niên 90.
2.3.


Các lĩnh vực điều chỉnh trong chính sách của Mỹ đối với Đông

Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI.
2.3.1. Trong lĩnh vực an ninh - quân sự
2.3.2. Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, dân chủ và nhân
quyền.
2.3.3. Trong lĩnh vực kinh tế và hỗ trợ phát triển.
Chương III. Triển vọng chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á và quan
hệ Mỹ-Việt.
3.1. Thách thức
3.2. Triển vọng
3.3. Triển vọng quan hệ Mỹ-Việt
CHƢƠNG I: NHỮNG YẾU TỐ CHÍNH TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU
CHỈNH CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI ĐÔNG NAM Á THẬP
NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI.
1.1.

Yếu tố chủ quan

8
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


Có thể nói không có một quốc gia nào trên thế giới lại thường xuyên
điều chỉnh chiến lược quốc gia như Mỹ. Thực chất của việc này là điều chỉnh
chính sách đối nội và đối ngoại để phù hợp với tình hình quốc tế luôn biến
động và quan trọng hơn là để tiếp tục duy trì thế độc quyền siêu cường của
Mỹ trên mọi lĩnh vực. Chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ được hoạch

định nhằm đảm bảo vai trò “lãnh đạo thế giới”, và mục tiêu này được duy trì
xuyên suốt qua các đời tổng thống. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống
G.W.Bush thì chủ nghĩa đơn phương đã lên đến đỉnh cao, nổi bật với cuộc
chiến tranh Iraq năm 2003, khi đó Mỹ tự quyết định và tiến hành chiến tranh,
bất chấp sự phản đối Liên Hợp Quốc. Và trong nhiệm kỳ 2 (2004-2008), địa
bàn trọng điểm chiến lược cuả Mỹ đã chuyển từ lục địa Á-Âu (Châu Âu)
sang Trung Đông, Đông Á và Nam Á.
Sau khi lên cầm quyền, đặc biệt là sau sự kiện 11/9, chính quyền tổng
thống Bush đã đề ra chiến lược toàn cầu mới, thể hiện trong ba bản báo cáo
quan trọng: Đánh giá Quốc phòng 4 năm (ngày 30/9/2001); Đánh giá tình
hình hạt nhân (ngày 8/1/2002) và Chiến lược an ninh quốc gia (20/9/2002),
với nội dung là vẫn tiếp tục mục tiêu duy trì vị thế bá quyền của Mỹ dựa trên
sức mạnh về quân sự; phát huy chủ nghĩa đơn phương để có thể tự do hành
động; ưu tiên số một cho chính sách chống khủng bố; thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế toàn cầu; thực thi thương mại tự do và dân chủ bằng những biện pháp
có hiệu quả hơn.
Chiến lược toàn cầu của một quốc gia được xây dựng dựa trên nhiều
yếu tố như tiềm lực về kinh tế, quân sự, văn hoá, khoa học - công nghệ…
Nói cách khác là nó còn thể hiện vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế.
Một trong những nguyên nhân khiến Mỹ thường xuyên thay đổi chiến lược
đó là do nội lực của Mỹ mỗi thời một khác. Trên thực tế thì từ sau Chiến
9
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


tranh lạnh kết thúc đến nay, Mỹ vẫn luôn duy trì được ưu thế vượt trội ở hầu
hết tất cả các lĩnh vực làm nên sức mạnh của một quốc gia.
a) Trước hết về quân sự, Mỹ là cường quốc số một về lĩnh vực này
trên thế giới và có tiềm lực của vượt xa so với các quốc gia khác. Mỹ là nước

duy nhất có khả năng triển khai 270.000 quân ở Châu Âu, Châu Á, Trung
Cận Đông, Mỹ Latinh và Châu Phi. Bên cạnh 1100 căn cứ quân sự ở 50 bang
và Washington D.C., Mỹ còn có 209 căn cứ quân sự ở 35 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Ngoài ra, Mỹ còn sở hữu một kho vũ khí hạt nhân lớn nhất
thế giới. Ngân sách cho quân sự của quốc gia này chiếm 37% chi tiêu quân
sự toàn cầu trong năm 2000 và lên tới 42% năm 2002 [9, tr.28]. Trong vài
năm tới, Mỹ không có địch thủ tương xứng về sức mạnh quân sự.
b) Về kinh tế: Mặc dù nền kinh tế Mỹ bị tác động xấu sau sự kiện 11/9
nhưng trong năm 2001, GDP của Mỹ vẫn đạt khoảng 12.760 tỷ USD, chiếm
khoảng 31% GDP thế giới. Nền kinh tế Mỹ chiếm tới 37% khối lượng buôn
bán toàn cầu [67]. Sau một thời gian suy thoái (3/2001-1/2002), kinh tế Mỹ
nhanh chóng tăng trưởng trở lại. Chính quyền tổng thống Bush đã sử dụng
các biện pháp chính để đối phó kinh tế suy thoái. Ngoài ra, do ứng dụng tiến
bộ khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin đã giúp kinh tế Mỹ sớm
thoát khỏi khủng hoảng. Năm 2001 GDP Mỹ tăng 0,8%, năm 2002 tăng
1,9%, năm 2003 tăng 3%, năm 2004 là 4%, và năm 2005 là 3,5% [68]. Nền
kinh tế Mỹ được nhận định sẽ tiếp tục là một siêu cường kinh tế trong vòng
hai thập kỷ tới và đồng đôla Mỹ vẫn là ngoại tệ dự trữ quốc tế. Bên cạnh đó
cũng phải kể đến vai trò to lớn của Mỹ trong các tổ chức quốc tế như Liên
Hiệp Quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)…vì mức
đóng góp cho các tổ chức này.
10
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


c) Về khoa học công nghệ: Năm 1988, trong nhiệm kỳ Tổng thống của
mình, Reagan đã ban hành luật chung cho Khoa học - Công nghệ. Trong thời
kì tổng thống Clinton, ngay nhiệm kỳ đầu, ông đã cho rằng “đầu tư công
nghệ là đầu tư vào tương lai của nước Mỹ”, an ninh quốc phòng và an ninh

kinh tế gắn chặt với nhau. Từ đó, Mỹ điều chỉnh chính sách khoa học - công
nghệ phù hợp hơn với nhu cầu phục hưng kinh tế Mỹ và tăng cường sức
mạnh quân sự Mỹ trong thời kì sau Chiến tranh lạnh. Đến thời tổng thống
Bush, nhất là sau vụ khủng bố 11/9, Chính phủ Mỹ cũng đã có những điều
chỉnh mạnh trong chính sách khoa học, công nghệ, nhằm xây dựng quốc
phòng hùng mạnh, đảm bảo an ninh Quốc gia. Theo các thống kê, ngân sách
nghiên cứu phục vụ dân dụng, phi quân sự đã tăng từ 42,25% lên 49,4%
trong giai đoạn 1993-2001. Đến thời tổng thống Bush, ngân sách dành cho
nghiên cứu phát triển quốc phòng tăng mạnh. Nhà nước có những chính sách
nhất quán trong thời gian dài đối với một số ngành khoa học mũi nhọn như
công nghệ thông tin, hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học. Chính phủ liên
bang đặc biệt hỗ trợ trong những lĩnh vực quan trọng. Năng lực lao động của
các nhà phát minh sáng chế và các chủ doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi
mới luôn là mục tiêu hàng đầu của chính sách khoa học công nghệ. Để đảm
bảo việc thực hiện tất cả các chính sách đề ra, Mỹ có một hệ thống các cơ
quan Quản lý nhà nước về khoa học công nghệ rất mạnh. Với đường hướng
đó, chính quyền tổng thống Bush đã dự chi cho nghiên cứu phục vụ quốc
phòng năm 2002 là 52,819 tỷ USD (chiếm 52% tổng ngân sách nghiên cứu
khoa học của Mỹ) và năm 2003 là 58,7 tỷ USD (chiếm 52,4%), trong khi đó
năm 2001 là 46,243 tỷ USD (chiếm 50,2% - do chính quyền Clinton đề xuất)
[20, tr.38]. Có thể thấy tỷ trọng kinh phí ngân sách giành cho nghiên cứu
quốc gia đã tăng lên qua các năm. Chính quyền G.Bush còn tập trung vào
11
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


phát triển công nghệ quốc phòng, nhiều dự án nghiên cứu phòng thủ tiên tiến
được đề ra và thực hiện (các hệ thống máy tính, công nghệ vũ trụ, hệ thống
cảm biến và dẫn đường…). Ngoài ra, khoa học - công nghệ dân sự cũng rất

được chú trọng phát triển và đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng và
môi trường, công nghệ thông tin và hệ thống mạng. Ngân sách dành cho
chương trình này năm 2003 là gần 2 tỷ USD (tăng 3% so với năm 2002).
[20.tr.38]
d) Một yếu tố nữa cần phải kể đến đó là yếu tố văn hoá. Văn hoá Mỹ
tồn tại ở những thứ rất nhỏ như Coca Cola, nhạc nhẹ, quần bò, hãng tin CNN,
đến những cái lớn như lối sống, quan niệm giá trị, kỹ thuật, giáo dục, chế độ
xã hội Mỹ. Tại nhiều nước, phim ảnh Mỹ chiếm thị phần lớn nhất, tới ba
phần tư thị trường thế giới. Trong năm 2001, 81,3% phim trên toàn thế giới
do Mỹ tài trợ hoặc sản xuất tại nước Mỹ [14, tr.22]. Một nhà văn Pháp đã
từng phát biểu, chỉ với chiếc quần jeans và nhạc jazz, nước Mỹ có mặt ở
khắp nơi trên thế giới. Cùng với sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế, tốc độ
truyền bá những mặt trên sang các nước khác tăng nhanh, nhất là trong lớp
thanh niên. Người ta gọi đó là “sức mạnh mềm” của Mỹ. Cùng với sức mạnh
về kinh tế, Mỹ vẫn đang tiếp tục truyền bá những quan niệm giá trị của Mỹ ra
toàn thế giới, lấy đó làm đòn bẩy quan trọng để thiết lập thế giới đơn cực.
Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ đẩy mạnh quá trình điều chỉnh chiến lược
cho thể kỷ XXI, coi chống khủng bố là ưu tiên cao nhất. Chống khủng bố
được sử dụng để tập hợp lực lượng nhằm thiết lập thế giới mới do Mỹ lãnh
đạo, dùng lý do chống khủng bố, Mỹ thực hiện biện pháp quân sự “đánh phủ
đầu” Afghanistan và Iraq. Xuất phát từ quan điểm trên, ngày 20/9/2002,
chính quyền Bush đưa ra Chiến lược An ninh quốc gia với các nội dung chủ
yếu như sau: [70]
12
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


(1) Coi chủ nghĩa khủng bố quốc tế, những quốc gia thù địch bất
kham, những nước ủng hộ và che giấu khủng bố, tìm kiếm và sử dụng vũ khí

giết người hàng loạt là kẻ thù nguy hiểm nhất của Mỹ, nhấn mạnh tăng
cường sức mạnh quân sự của Mỹ, nêu cao khả năng sử dụng vũ lực đơn
phương; đưa ra học thuyết “đánh đòn phủ đầu” để hợp lý hoá việc sử dụng
quân sự;
(2) Tập hợp lực lượng toàn thế giới chống khủng bố, coi chống khủng
bố là ưu tiên cao nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ và thành chuẩn mực
trong quan hệ của Mỹ với các nước (phân chia 2 loại nước: cùng với Mỹ
chống khủng bố hay đi với khủng bố quốc tế);
(3) Trong quan hệ với các nước lớn, Mỹ theo đuổi chính sách “can dự”
vừa hợp tác vừa cạnh tranh kiềm chế Trung Quốc, cảnh giác trước việc nước
này tăng cường quyền lực quân sự, xây dựng quan hệ mới với Nga, tăng
cường quan hệ với Ấn Độ, củng cố, mở rộng và cải tổ NATO, củng cố đồng
minh truyền thống.
(4) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu, thực thi thương mại tự do
và dân chủ bằng những biện pháp cụ thể và có hiệu quả hơn.
Như vậy, học thuyết “Đánh đòn phủ đầu” nói lên những phán đoán cơ
bản về mối đe doạ đối với Mỹ. Học thuyết này coi cuộc chiến chống khủng
bố là trung tâm chính sách an ninh của Mỹ, tìm cách ngăn không để những
kẻ khủng bố có được vũ khí huỷ diệt hàng loạt và kêu gọi khi cần thiết phải
mở “hoạt động phòng ngừa, đánh đòn phủ đầu, ra tay trước”.
1.2.

Yếu tố khách quan

1.2.1. ASEAN tăng cường vị thế trên trường quốc tế.
Trong những năm gần đây, ASEAN trở thành một khu vực kinh tế
năng động có vai trò quan trọng hơn đối với sự phát triển của thế giới. Thị
13
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy



trường ASEAN với hơn 550 triệu lao động và thu nhập bình quân đầu người
đạt 1.400 USD/năm (năm 2005) đã thu hút sự quan tâm và được coi là một
đối tác quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều cường quốc
như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước EU, Nhật Bản…
Trên góc độ địa - chiến lược, Đông Nam Á nằm ở khu vực thuận lợi về
mặt thông thương và phòng thủ quốc tế; nằm ở ngã ba Châu Á, án ngữ con
đường hàng hải thuận tiện từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, giữa
Đông Bắc Á và Nam Thái Bình Dương. Khoảng hai thập niên trở lại đây,
Đông Nam Á trở thành cầu hàng không nối các chuyến bay từ Đông Bắc Á,
Bắc Mỹ sang nhiều nước Tây Nam Á, Trung Đông-Bắc Phi và Trung- Đông
Âu. [69]
Trước khủng hoảng kinh tế Châu Á vào cuối những năm 1990, Đông
Nam Á từng là khu vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất châu Á.
Hiện nay, nhà đầu tư lớn nhất vào ASEAN là Hoa Kỳ với 8,7 tỷ USD tiếp
sau là Anh, Nhật Bản, Pháp và Phần Lan. Năm 2004, tăng trưởng kinh tế
bình quân đạt 6,2 %, năm tăng trưởng cao nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng
tài chính năm 1997 [71]. Tuy gặp nhiều khó khăn, thách thức như dịch bệnh
và ảnh hưởng của nạn khủng bố tăng cao, kinh tế ASEAN vẫn duy trì đà tăng
trưởng cao. Theo tạp chí “Thế giới đương đại” số ra tháng 6/2005, ASEAN
đang có vị thế và có ảnh hưởng tích cực tại khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, đang có vai trò tích cực trong phát triển kinh tế khu vực rộng lớn
này. ASEAN cũng đang tập trung mạnh hơn nữa hội nhập kinh tế khu vực,
đặc biệt là khắc phục tình trạng quan liêu, các rào cản thương mại và các luật
đầu tư nước ngoài đang làm hạn chế khả năng cạnh tranh của khu vực. [72]
Với việc ký kết Hiệp ước Bali (10/2003), các nước ASEAN nhất trí
đến năm 2020 thành lập Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột là Cộng đồng
14
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —

Nguyễn Thu Thủy


an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hoá - xã hội. Năm 2007, lộ
trình này được rút ngắn đến 2015, ASEAN sẽ trở thành một thị trường năng
động, xã hội công bằng, sống trong hoà bình và đùm bọc lẫn nhau. Chính vì
vậy, các nước lớn trên thế giới, vì lợi ích quốc gia cũng đang hướng tới
ASEAN để tăng cường địa vị của họ tại khu vực này.
1.2.2. Sự trỗi dậy của Trung Quốc với vai trò ngày càng lớn trong khu vực
Trung Quốc vẫn được biết đến là đất nước đông dân nhất thế giới với
số dân lên tới 1,3 tỷ, chiếm 1/5 dân số toàn cầu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản, nền kinh tế nước này hiện có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới
và hứa hẹn trở thành thị trường lớn nhất mà các doanh nghiệp nước ngoài
hướng tới. Bên cạnh đó, với lợi thế rất lớn về lực lượng lao động lành nghề,
giá nhân công rẻ và quy mô của thị trường khổng lồ trong nước, Trung Quốc
đang có xu hướng trở thành một công xưởng của cả thế giới và đe dọa “đè
bẹp” các nước láng giềng trong cuộc cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu
tư.
Sau gần 30 năm tiến hành cải cách kinh tế, Trung Quốc giờ đây đã qua
mặt Mỹ để trở thành quốc gia đứng đầu thế giới về phương diện tiêu thụ các
mặt hàng nông nghiệp và công nghiệp cơ bản. Theo báo cáo của Viện Chính
sách địa cầu: quốc gia đông dân nhất thế giới này đã đạt được một dấu mốc
quan trọng trong qúa trình hiện đại hoá và sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc
đang tạo ra những tác động toàn cầu chẳng những về mặt kinh tế và môi
trường mà còn ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại và quốc phòng. Theo dự
tính sơ bộ của Tổng cục Thống kê Trung Quốc, trong vòng 20 năm đầu thế
kỷ XXI, nền kinh tế Trung Quốc sẽ vẫn giữ được mức tăng trưởng tương đối
nhanh, mức tăng trưởng bình quân đạt khoảng 8%, trong đó 10 năm đầu là
15
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —

Nguyễn Thu Thủy


hơn 8% và 10 năm sau là hơn 7%. Theo tốc độ này đến năm 2018 GDP sẽ
tăng gấp 4 lần so với năm 2000. [73]
Hiện nay, Trung Quốc là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu thế
giới và thu hút đầu tư nước ngoài ở mức kỷ lục. Theo Bộ Thương mại Trung
Quốc, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại quốc gia này trong quý I/2005 tăng
thêm 13,4 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2004 [74]. Năm 2006,
Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới về điện thoại di động, thứ ba về
ôtô, và là nước đứng thứ hai về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ông Lester
Brown, Chủ tịch Viện Chính sách Địa cầu, nhận xét rằng "Trung Quốc giờ
đây đã không còn là một nước phát triển nữa mà đang trở thành một siêu
cường kinh tế và là một nước “đang viết nên lịch sử kinh tế thế giới” [75].
Trung Quốc chính là “người chơi khổng lồ” trong nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, Trung Quốc còn thể hiện sự phát triển nhanh chóng trên lĩnh
vực khoa học và công nghệ qua việc phóng thành công tàu vũ trụ “Thần
Châu 6”, trở thành quốc gia thứ ba sau Nga và Mỹ đưa người vào khoảng
không vũ trụ. Trong tương lai, Trung Quốc cũng có những kế hoạch đưa
người vào mặt trăng hoặc xây dựng Trạm Không gian Vũ trụ.
Đối với khu vực Đông Nam Á, về mặt chính trị thì khu vực này là
điểm tựa, chỗ dựa cho Trung Quốc vươn ra thế giới. Các nhà nghiên cứu cho
rằng điều này là thực tế bởi vì tiến lên phía Trung Á rất khó do có nước Nga
đang chiếm ưu thế ở đó; tiến sang phía Đông Bắc cũng không được vì vướng
Nhật Bản cùng với sự phức tạp của vấn đề bán đảo Triều Tiên và cũng không
đơn giản khi muốn phát triển sang phía Tây vì có Ấn Độ, một cường quốc
đang nổi. Đông Nam Á bên cạnh sự gần gũi về địa lý, văn hoá lịch sử, cùng
quan điểm về lợi ích chung trong việc xây dựng trật tự kinh tế thế giới công
bằng…và đặc biệt là có lực lượng người Hoa đông đảo. Đội ngũ này là một
16

Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


thuận lợi lớn cho Trung Quốc trong việc làm ăn kinh tế với Đông Nam Á.
Theo tờ nguyệt san Sapio của Nhật Bản ngày 27/9/2000: Indonesia có 7,2
triệu người Hoa, chiếm 3,5% dân số và 73% GDP; Thái Lan 5,8 triệu người,
chiếm 69% GDP; Malaysia 5,4 triệu, chiếm 69% GDP. Ngoài ra, người Hoa
còn có khoảng 10 ngân hàng lớn ở khu vực. [62, tr.5]
Sau khi bước vào thế kỷ XXI, Trung Quốc đã tăng cường thúc đẩy
quan hệ với khu vực ASEAN. Ngày 16/11/2001, trong bài phát biểu tại Hội
nghị lần thứ V các nhà lãnh đạo Trung Quốc - ASEAN, với nhan đề “Nắm
tay nhau sáng tạo”, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã nói “Tăng cường hợp tác
láng giềng hữu hảo với các nước ASEAN là chính sách kiên định không thay
đổi của Chính phủ Trung Quốc”, “Trong tình hình mới chúng ta phải nắm
chắc cơ hội do toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học kỹ thuật đưa tới,
đối phó hiệu quả với rủi ro thách thức, cùng nhau mở ra cục diện mới hợp tác
cùng có lợi giữa Trung Quốc và ASEAN” [32, tr.5]. Hai bên không chỉ hợp
tác trên lĩnh vực kinh tế, cụ thể là qua Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc ASEAN mà còn tăng cường hợp tác và tạo sự tin tưởng cũng như ủng hộ lẫn
nhau về mặt chính trị. Ngay trong năm đầu tiên của thế kỷ XXI, các nhà lãnh
đạo Trung Quốc lần lượt đến thăm 50 quốc gia trên khắp châu lục trong đó
có nhiều nước Đông Nam Á. Đầu tháng 7, Phó Thủ tướng Vương Quang
Anh thăm Campuchia và Phó Chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm 3 nước Mianma,
Thái Lan, Indonesia. Đặc biệt ngày 11/11/2000, Chủ tịch Giang Trạch Dân
bắt đầu thăm chính thức 3 nước Lào, Campuchia và Bruney. Ông trở thành vị
Chủ tịch Trung Quốc đầu tiên thăm một trong ba nước này kể từ những năm
60…Ngoài những chuyến viếng thăm cao cấp trên, trong khoảng thời gian
này còn có nhiều đoàn đại biểu thuộc các ngành của Trung Quốc và các nước
Đông Nam Á qua lại thăm viếng lẫn nhau. Những hoạt động này góp phần
17

Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


quan trọng vào việc khẳng định quan hệ ngày càng tăng giữa Trung Quốc và
các nước Đông Nam Á hiện nay.
Bối cảnh quốc tế sau sự kiện 11/9/2001 tác động không nhỏ đến cục
diện thế giới nói chung, đến quan hệ ASEAN - Trung Quốc nói riêng. Trong
lúc này, Mỹ lại đang bận rộn với mục tiêu chống khủng bố còn các nước
ASEAN lại tập trung vào việc phục hồi và phát triển kinh tế. Trung Quốc
đang trở nên hùng mạnh, chủ động bày tỏ thiện chí trong các sáng kiến thúc
đẩy quan hệ hợp tác khu vực với các nước thành viên ASEAN. Kết quả là
quan hệ Trung Quốc - ASEAN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua.
Thông qua đó, Trung Quốc vừa có thể tăng cường quan hệ hợp tác song
phương, xây dựng một khu vực kinh tế hùng mạnh và liên kết, đồng thời
từng bước thực hiện chiến lược ngoại giao của mình là tăng cường địa vị, ảnh
hưởng thể hiện vị trí nước lớn trong khu vực Đông Nam Á.
Đối với Trung Quốc và vai trò của Trung Quốc ở Châu Á- TBD nói
chung thì “Công bố chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ (U.S. National
Security Strategy Statement) ngày 17/3/2004 cho biết “một phần quan trọng
trong chiến lược của chúng ta là thiết lập một khu vực Châu Á-TBD ổn định,
thái bình và thịnh vượng…Chúng ta chào đón sự ra đời của một nước Trung
Quốc hùng mạnh, hoà bình và thịnh vượng” [76]. Bên cạnh đó, một bản báo
cáo gần đây (cuối tháng 1/2007) của Vụ nghiên cứu của Quốc hội Mỹ đã
công bố chi tiết về tình hình Đông Á và khu vực Thái Bình Dương, trong đó
nhấn mạnh vai trò của Trung Quốc trong việc làm suy giảm ảnh hưởng của
Mỹ tại Châu Á [77]. Với những điều trên thì có thể thấy, Trung Quốc là một
trong những lý do chính khiến Mỹ có sự điều chỉnh chính sách đối với khu
vực Châu Á - TBD nói chung và Đông Nam Á nói riêng.
18

Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


1.2.3. Sự gia tăng đáng kể vai trò của Ấn Độ, Nga và Nhật Bản.
Với tốc độ phát triển nhanh chóng, tỷ lệ tăng trưởng đạt mức 8%, trong
15 năm qua, nền kinh tế Ấn Độ đã chuyển đổi từ chỗ là một quốc gia thuộc
Thế giới thứ ba thành một cường quốc đang trỗi dậy, bám sát người láng
giềng phương bắc - Trung Quốc để trở thành một trong những điểm sáng về
phát triển kinh tế tại Châu Á.
Trong vòng 3 năm qua, các ngân hàng đầu tư trên thế giới liên tục đưa
ra những dự báo khả quan về tương lai kinh tế đất nước này, thậm chí có
những chuyên gia còn cho rằng tới năm 2030, Ấn Độ sẽ trở thành nền kinh tế
lớn thứ ba trên thế giới. Ngoài ra, còn một dự báo nữa từ Cục tình báo trung
ương Mỹ (CIA) dự đoán tới năm 2020, Ấn Độ có thể đuổi kịp Trung Quốc và
trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Không chỉ là nơi hấp
dẫn lực lượng lao động chân tay, giờ đây Ấn Độ còn là điểm đến cuả những
“nhân tài” nước Mỹ và là nguồn thu hút đầu tư mới từ các tập đoàn công
nghệ khổng lồ như Microsoft và Intel. “Ấn Độ đã nổi lên thành một “thánh
địa mới” thu hút vốn đầu tư công nghệ cao”, trích lời phát biểu của tỷ phú
Bill Gates tại một lễ khai trương một cơ sở Microsoft ở thủ phủ Bangalore;
cũng như một lời nhận xét khác của một giáo sư của trường Đại học
Pennsylvania: “Trung Quốc là một cỗ máy lớn, nhưng Ấn Độ là nơi ta có thể
cưỡi sóng tiến lên”. [78]
Bên cạnh đó, chính quyền New Dehli, với chính sách “Hướng Đông”
(đưa ra từ năm 1991), đang tiến gần đến việc hoàn thành một trong những
mục tiêu ưu tiên của mình là hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các nước khu vực
ĐNA. Chính sách này được đề ra nhằm mục đích tăng cường vị thế kinh tế
và chính trị ở khu vực Đông Nam Á nhằm cạnh tranh với các nền kinh tế lớn
khác. Nhờ đó, Ấn Độ đã được chấp thuận là đối tác đối thoại, sau đó là đối

19
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


tác đối thoại đầy đủ của ASEAN, rồi là thành viên trong Diễn đàn khu vực
ASEAN (ARF) và cuối cùng, người đứng đầu chính phủ Ấn Độ được mời
tham dự Hội nghị thượng đỉnh với những người đồng cấp ASEAN. Thông
qua các cuộc trao đổi, ASEAN và Ấn Độ đã xích lại gần nhau hơn và mối
quan hệ giữa hai bên đã phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Tại Hội
nghị thượng đỉnh ASEAN năm 2003, Ấn Độ và khối ASEAN đã đồng ý thiết
lập khu vực mậu dịch tự do đối với hàng hoá, dịch vụ và đầu tư năm 2011
[79]. Ấn Độ đã ký kết thoả thuận mậu dịch với Thái Lan, tăng cường đầu tư
nhiều hơn vào Malaysia và Singapore…
Như vậy, sự phát triển này đã tạo ra nhiều thay đổi trên bàn cờ chiến
lược khu vực. Đã đến lúc người Mỹ không thể bàng quan trước Ấn Độ nếu
muốn duy trì vai trò của họ ở Châu Á.
Đối với nước Nga, kể từ khi lên nắm quyền năm 2000, Tổng thống
Putin đã đưa ra những biện pháp có kết quả khả quan trong việc ổn định đất
nước, cải cách hệ thống chính trị. Chính quyền Nga đã ngăn chặn được tình
trạng suy thoái kinh tế, ổn định về mặt chính trị, bước đầu lập lại trật tự kỉ
cương. GDP hàng năm tăng khoảng 7%, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp
đều tăng, trong đó có những ngành như khai thác dầu, luyện kim đen tăng
cao. Nga đã trở lại xuất khẩu lương thực, ngân sách cân bằng, giảm lạm phát,
tình hình đầu tư nước ngoài vào Nga được cải thiện…Bên cạnh đó, Mỹ và
Châu Âu đã công nhận Nga là nên kinh tế thị trường phát triển. Thu nhập và
đời sống của người dân Nga được cải thiện so với trước, số lượng người thất
nghiệp giảm…Nga đang nỗ lực thực hiện mục tiêu đặt ra trong 10 năm tới là
tăng trưởng vững chắc với tốc độ cao nhằm tăng gấp đôi GDP.
Những năm gần đây, Nga tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại tích

cực và chủ động, phù hợp với tình hình quốc tế để nhằm tăng cường vị thế
20
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


của quốc gia, tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của
đất nước. Không chỉ tăng cường hợp tác với các nước với các nước SNG
(Cộng đồng các quốc gia độc lập), Nga còn chủ động thúc đẩy quan hệ ngoại
giao với các nước ở phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, tích
cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ APEC, ARF và mong muốn
tham gia vào các hoạt động của các diễn đàn khu vực khác như Diễn đàn cấp
cao Đông Á và ASEM…
Khu vực Châu Á - TBD đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nơi đây
đang dần trở thành khu vực kinh tế, chính trị trọng tâm của thế giới. Nga
đang phấn đấu để thực sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của khu vực
này. Phát biểu trước thềm cuộc gặp Thượng đỉnh APEC lần thứ 13 tại Hàn
Quốc của Tổng thống Putin càng làm rõ điều đó “Khu vực này không chỉ là
không gian có mức phát triển kinh tế như vũ bão, ở đây còn thể hiện một
trong những hệ quả tích cực của tiến trình toàn cầu hoá - đó là trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của các khu vực khác nhau trên thế giới đang dần được
cân đối. Khu vực này còn có một nét đặc thù nữa là quá trình hội nhập đang
diễn ra hết sức năng động, ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành một trật tự
thế giới mới bình đẳng hơn. Đối với chúng tôi, cách thức cùng nhau tìm kiếm
giải pháp cho các vấn đề khu vực như vậy là quan trọng và quý hoá” [22,
tr.40]
Đối với ASEAN, Nga dần trở thành đối tác gần gũi. Nga chính thức
trở thành nước đối thoại toàn diện của ASEAN vào năm 1996, đồng thời là
thành viên tham gia ARF. Năm 2004, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN và Nga được tổ chức bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN 10, Nga đã ký

văn kiện Gia nhập Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC), một
trong những văn kiện cơ bản của ASEAN, đóng vai trò định hướng cho quan
21
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


hệ của các nước trong khu vực. Đặc biệt, Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên
giữa Nga và ASEAN (12/2005) tại Kualar Lumpur (Malaysia) đã có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với Nga trong việc phát triển quan hệ hợp tác với tổ
chức khu vực Châu Á này. Những đại biểu tham dự cuộc họp cho biết Nga
đang ngày càng chú trọng tới Châu Á, xét cả góc độ an ninh và đầu tư. Hai
bên đã ra Tuyên bố chung và Chương trình hợp tác hành động giai đoạn
2005-2015. Hai bên cam kết phát triển hơn nữa quan hệ đối tác đối thoại.
Tuyên bố chung khẳng định hợp tác đối tác sẽ củng cố sự phát triển kinh tế,
phát triển bền vững, thịnh vượng và tiến bộ xã hội của hai bên trên nguyên
tắc bình đẳng, chia sẻ trách nhiệm và cùng có lợi, thúc đẩy hơn nữa hoà bình,
ổn định, an ninh và thịnh vượng trong khu vực Châu Á - TBD. Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN - Nga (12/2005) cũng cho thấy ASEAN ngày càng có
vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nga; cũng giống ý kiến của
ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov cho rằng “ngày nay ASEAN đã trở thành
“hạt nhân” trong tiến trình hội nhập quốc tế và là một Hiệp hội có sức hút
lớn. Vì thế, việc phát triển các quan hệ với ASEAN là một trong những ưu
tiên trong chính sách đối ngoại của Nga ở khu vực Châu Á”. [80]
Với Nhật Bản, quốc gia này đang xúc tiến chương trình cải cách lớn
trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, sắp xếp lại cơ
cấu chính phủ…Cải cách hành chính của Nhật Bản được thực hiện từ 1/2001;
dù diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đã đem lại kết quả đáng khích lệ. Nền
kinh tế Nhật Bản đã phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 là 2,7%, năm
2004 là 1,4% và 2,5% trong năm 2005. [81]

Về chính trị - ngoại giao, tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện
với các nước Châu Á, trước hết là các nước Đông Nam Á, từng bước biến
khu vực này thành “sân sau” của Nhật Bản là một trong những đường hướng
22
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


chủ yếu trong chính sách của Nhật Bản kể từ sau Chiến tranh lạnh. Trong
giai đoạn hiện nay, quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN đang phát
triển trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hoá và an ninh phi truyền
thống. Tại cuộc họp thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN (12/2003) tại Tokyo,
các nhà lãnh đạo Nhật Bản và ASEAN đã xác nhận lại một lần nữa mối quan
hệ đặc biệt và xác định các hướng hợp tác cơ bản trong lĩnh vực tự do hoá
thương mại và cải cách cơ cấu. “Tuyên bố Tokyo” được lãnh đạo Nhật Bản
và 10 nước ASEAN ký tại cuộc họp thượng đỉnh này đã xác định việc Nhật
dành ưu tiên cho các nỗ lực phát triển và hội nhập kinh tế của ASEAN. Nhật
Bản sẽ dành ưu tiên cho các nước ASEAN theo chương trình phát triển chính
thức (ODA) và đẩy mạnh hợp tác phát triển nguồn nhân lực. Tuyên bố xác
định sẽ từng bước mở cửa và mở rộng thị trường, xoá bỏ các rào cản hàng
rào phi thuế quan nhằm tạo ra nhiều hơn nữa các cơ hội cho thương mại hàng
hoá và dịch vụ. [83]
Nhật Bản đã gia nhập Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN
(TAC), đồng thời trở thành nước thứ ba trong khu vực, sau Trung Quốc và
Ấn Độ ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau với ASEAN; trên nguyên tắc
ASEAN đồng ý tăng cường thảo luận thêm về ý tưởng “Cộng đồng Đông Á”
do phía Nhật đưa ra, cùng hướng tới mục tiêu cuối cùng là thực hiện nhất thể
hoá khu vực Đông Á. Để từng bước thực hiện ý tưởng đó, Nhật Bản đã đồng
ý sẽ dành 3 tỷ USD để phát triển nhân lực và lưu vực sông Mekông trong
vòng 3 năm tới. Trong đó, 1,5 tỷ USD sẽ được dành cho việc phát triển Tiểu

vùng Mekông và 1,5 tỷ USD sẽ được dành cho các nhu cầu cụ thể, gồm chi
phí cho việc trao đổi khoảng 40.000 người giữa Nhật Bản và ASEAN trong
lĩnh vực hoạch định chính sách và hành chính công; công nghiệp và năng
lượng; và trong 5 lĩnh vực ưu tiên khác [83]. Việc tiếp tục đề cập đến ý tưởng
23
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


này không những vì lợi ích kinh tế mà còn hướng tới mục tiêu lâu dài là phát
huy vai trò chủ động hơn, quan trọng hơn trong hợp tác khu vực đa phương,
tăng cường vai trò chính trị trong cộng đồng quốc tế, đẩy nhanh bước đột phá
chuyển từ nước lớn kinh tế sang nước lớn chính trị. Bên cạnh đó, tăng cường
hợp tác toàn diện với ASEAN cũng là để Nhật Bản kìm hãm và cạnh tranh
với ảnh hưởng chính trị Trung Quốc tại khu vực này.
Liên hiệp Châu Âu (EU) cũng là một yếu tố cần phải kể đến. Từ năm
1996, EU luôn là nhà đầu tư lớn nhất vào ASEAN. Trong mười năm qua
1993-2003, giá trị vốn đầu tư trực tiếp của EU vào ASEAN đã tăng mạnh với
tốc độ trung bình hàng năm là 18,3%. Năm 2003, các nhà đầu tư EU đã đổ
vào khu vực này tới trên 7 tỷ USD, vượt xa các nguồn đầu tư lớn khác như
Mỹ (2,9 tỷ), Nhật (2,1 tỷ) [84]. Việc thông qua sáng kiến “Quan hệ đối tác
mới với Đông Nam Á” (2003) đã đề ra một chiến lược toàn diện cho mối
quan hệ của Liên minh Châu Âu với khu vực Đông Nam Á. Một nghiên cứu
mới đây về những diễn biến dài hạn trong thương mại quốc tế đã dự báo đến
năm 2050, trọng tâm của nền kinh tế thế giới sẽ chuyển sang Châu Á-TBD,
trong đó Đông Nam Á nổi lên thành nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới. Bất
chấp sự không chắc chắn của dự báo đó, dưới cái nhìn của EU, Đông Nam Á
ngày càng trở thành một trong những động cơ tăng trưởng năng động nhất
thế giới. EU hiện đang là đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN, chiếm
14% thương mại của ASEAN [85]. Các nước lớn quan trọng của EU như

Anh, Pháp muốn thông qua mối quan hệ truyền thống để duy trì ảnh huởng
vốn có của mình trong khu vực. Điều này cho thấy, EU không thể để mất ảnh
hưởng về kinh tế, chính trị và xã hội sau nhiều năm gây dựng, nhất là khi
Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và cả Nga đều muốn củng cố vai trò của
mình.
24
Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI —
Nguyễn Thu Thủy


×