Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bai thi so 1 Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.98 KB, 16 trang )

PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
Câu 1: Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam?
Trả lời:
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính tri đầu tiên của Đảng
Thứ nhất, Mục đích chiến lược cách mạng: Từ việc phân tích một cách
khách quan tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam vào những năm đầuthế kỷ
XX, Cương lĩnh đã vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam:
"Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản". Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng không ngừng đã được thể hiện
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: ( cách mạng tư sản dân quyền là thời từ kỳ dự
bị để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới, khác
với những chủ trương, những con đường cứu nước của những nhà yêu nước thời đã
đi vào bế tắc và thất bại. Đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam được phản ánh
trong Cương lĩnh đã thể hiện được tư tưởng độc lập tân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội
-Thứ hai, Nhiệm vụ cách mạng: Cương lĩnh khẳng định: "Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện
độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Đây là hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm của chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Sự kết hợp
hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến đã khẳng định tính toàn diện,
triệu để của đường lối cách mạng Việt Nam.
- Thứ ba, Về lực lượng của cách mạng Việt Nam: Cương lĩnh chỉ ra rằng,
phải đoàn kết với tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước để thực hiện
sự nghiệp giải phóng dân tộc: "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn
đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập". Đây là sự thể
hiện tính nguyên tắc trong chính sách đại đoàn kết dân tộc và sự sắp xếp, tổ chức
lực lượng cách mạng của Đảng ta. Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng như xác
định được động lực chủ yếu, cơ bản của sự nghiệp cách mạng phản ánh sự mềmdẻo


và linh hoạt trong chiến lược đại đoàn kết dân tộccủa Đảng ta.
- Thứ tư,Về phương pháp cách mạng: Cương lĩnh chỉ rõ phảisử dụng bạo
lực cách mạng của quần chúng để đánh đổđế quốc phong kiến. Việc nêu lên
phương pháp cáchmạng bạo lực đã thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng
cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Thứ năm, Về vấn đề đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh nêu rõ: “trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sán giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai
cấp Pháp”. Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
1


phận của cách mạng thế giới. Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đề
cao vấn đề đoàn kết quốc tế chính là sự thể hiện việc kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến
bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới.
- Thứ sáu, Về vai trò của Đảng Cộng sản: Để thực hiện thành công sự
nghiệp cách mạng, Cương lĩnh đã khẳng định vai trò quyết định của Đảng: Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp. Để làm tròn sứ mệnh lịch sử là nhân tố tiên
phong quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng phải: "thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dán
chúng". Cương lĩnh khẳng định bản chất giai cấp của Đảng, vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân và chiến lược đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông là những vấn đề then chốt bảo đảm cho Đảng ta trở thành nhân tố duy nhất
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh cũng nêu lên sự gắn bó Đảng với công
nhân, dân cày, tiểu tư sản trí thức. Đây chính lànhững điều kiện tạo cho Đảng có
nguồn sức mạnh vĩ đạivà trở thành lãnh tụ chính trị cho cả dân tộc.
 Giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đượcnhững nội dung cơ bán nhất
của con đường cách mạngViệt Nam. Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có mộtbản
cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật kháchquan của xã hội Việt Nam, đáp

ứng những nhu cầu cơbản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xuthế của
thời đại.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đó chính là giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: Kết hợp đúng
đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần
cách mạng của nhân dân với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; đặc biệt là
kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng
Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là
nông dân. Vì vậy, Đảng đãđoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn
chungquanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giaicấp khác thì hoặc bị phá
sản, hoặc bị cô lập. Do đó,quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp
côngnhân - không ngừng củng cố và tăng cường". Chính vì vậy, con đường cách
mạng vô sản mà Cương lĩnh đã khẳng định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt
Nam từ năm 1930.
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đãđược khẳng định bởi quá
trình khảo nghiệm của lịchsử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnhđạo
của Đảng và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2


Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng có ý nghĩa to lớn
đưa cách mạng Việt Nam đi từ tháng lợi này đến thắng lợi khác. Sự đúng đắn của
Cương lĩnh đã được lịch sử khẳng định và vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Câu 2: Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Tám năm l945?

Trả lời:
1. Ý nghĩa lịch sử
Một là: Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu
một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta. Nó phá tan xiềng xích nô lệ của phát xít Nhật và ách thống trị của thực dân
Pháp, lật đổ chế độ phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Đó là nhà nước kiểu mới, nhà nước
thực sự của dân, do dân và vì dân. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên
mới,
kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, mở ra một thời đại mới, thời dại Hồ
Chí Minh quang vinh. Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà
nước kiểu mới ra đời mở đầu cho những thắng lợi tiếp theo của cách mạng Việt
Nam.
Hai là: Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ ách thống trị phát ít, thực
dân. phong kiến, đưa đất nước từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một
nước tự do, độc lập; đưa dân tộc ta lên hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế
giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ
đất nước làm chủ vịn mệnh của mình. Đảng ta từ một Đảng hoạt động không hợp
pháp trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Đây là cuộc đổi đời
chưa từng thấy của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám chẳng những có ý nghĩa quan trọng đối với dìu tộc ta
mà còn có ý nghĩa quốc tế rộng lớn:
- Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lêmin ở mọt nước thuộc địa nửa phong kiến. nó chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày
nay, một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa đo toàn
dân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. có đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại hoàn toàn có khả năng giành thắng
lợi cuối cùng.
- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi mở ra thời kỳ suy sụp tan rã của chủ nghĩa
thực dân cũ trên phạm vi thế giới, báo hiệu thòi kỳ giải phóng của các dân tộc bị
áp bức đã đến, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ.

- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Nhân dân Việt Nam đã góp phần
xương máu của mình vào cuộc chiến đấu đánh thắng hoàn toàn chủ nghĩa phát xít
trên thế giới. Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa, nhất là các nước thuộc địa và phụ thuộc ở Đông Nam á. đấu tranh chống
3


hơn thực dân, phát xít giành độc lập.
Đánh giá về Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Chẳng
những giai cấp lao đông và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
đông và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc".
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong ha thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong
thế kỷ XX dưới sư lãnh đạo của Đảng. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào
cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm, sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào
Xôviết Nghệ - Tĩnh như cuộc vận động dân chủ 1936 ~ 1939 đến phong trào giải
phóng dân tộc 1939 - 1945, mặc dù cách mạng có lúc hi dìm trong máu lửa. Chế độ
thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta bị xoá bỏ, một kỳ nguyên mới mở ra, kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
2. Bài học kinh nghiệm chủ yếu
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta có được một số
bài học kinh nghiệm quý báu đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng dân tộc dân
chủ ở một nước thuộc địa nửa phong kiến:
- Nêu cao mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc với ý chí tự túc tự cường,
kết hợp đúng đắn nhiệm vu chống đế quốc và chống phong kiến.
- Đoàn kết toàn dân trong mặt trân Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, trên
cơ sở nòng cốt là công nhân

- Triệt để lơi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù: cô lập cao do kẻ thù,
chủ yếu là đế quốc và tay sai phản động. tranh thủ những phần tử trung lập, lưng
chừng, tập trung mọi lực lương. tập trung chống kẻ thù nguy hiểm nhất.
- Nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ chủ động sáng tạo trong sử dụng hình
thức, phương pháp khởi nghĩa gia chính quyền.
- Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị. tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí
và hành động.
Câu 3: nội dung cơ bản của đường lối đổi mới được thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986).
Trả lời:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã đề ra
đường lối đổi mới đổi mới toàn diện, gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Đổi mới cơ cấu kinh tế
Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác ngoài
kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Lênin "coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Các thành phần đó là: kinh tế xã
hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản
tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên tự túc tự cấp. Nhận thức và vận
4


dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn.
Thứ hai, Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu hành chính bao cấp; đổi mới
kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế là "xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới

phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong
cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng số 1 và sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế
là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ ba, Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về
kinh tế.
Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể
thống nhất, có sự phân biệt rành mach nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp
theo nguyên tắc tập trung dân chủ: "Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính kinh tế của các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương với chức năng với
quản lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở". Thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế "Quản lý đất nước bằng pháp
luật, chứ không chỉ bằng đạo lý".
Thứ tư,Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại
Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc công bố
chính sách khuyến khích đầu tư vói nhiều hình thức, nhất là những ngành đòi hỏi
kỹ thuật cao và làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho người nước
ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, họp tác kinh doanh.
Thứ năm, Đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận
dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ
trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế trên
cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa
tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy
dân làm gốc", phải nắm vững thực tiễn và không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ và
đổi mới phong cách, phương pháp làm việc.
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong
sự nghiệp quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội đã tìm lối thoát cho cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội bằng việc đề ra đường lối đổi mới, đặt nền tảng cho việc tìm

5


ra con đường lên CNXH. Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy khoa học của
toàn Đảng, toàn dân, thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được hoạch định trên cơ sở tư duy mới
về lý luận, về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, khắc phục tư duy giáo điều, bảo
thủ, cứng nhắc thiếu năng động, chủ quan, nóng vội; trên cơ sở tổng kết, khảo
nghiệm thực tiễn từ những mô hình cách thức quản lý năng động, sáng tạo, có hiệu
quả ở các địa phương cơ sở và cả những khuyết điểm, vấp váp; tổng kết từ sáng
kiến, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, đổi mới cũng vì dân; từ sự nghiên cứu
kinh nghiệm tổ chức, quản lý của các nước trên thế giới.
Điều hết sức quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam khi quyết định đường
lối đổi mới đã nắm vững những chỉ dẫn của V.I.Lênin về những đặc trưng của thời
kỳ quá độ, nhất là sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế và tính lâu
đài của thời kỳ quá đọ lên chủ nghĩa xã hội. “Trong trường hợp tốt nhất thì bước
quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của
chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn
của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự
khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng
bước quá độ đó”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI coi chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như một bước quá độ nhỏ trong
bước quá độ lớn, “nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng những
tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trên quy mô lớn”
MỘT SỐ BÀI HỌC CỦA 30 NĂM ĐỔI MỚI
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế,
khuyết điểm, rút ra một số bài học sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ
sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và

phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM, kế thừa và phát huy truyền thống
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp
với Việt Nam.
Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là
vấn đề có ý nghĩa sống còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất
hiện những vấn đề mới, những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho
chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là
một sự nghiệm vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp
quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
6


minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên
định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM, mà là
nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng
đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ
sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn
thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệp quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “ dân là gốc” , vì lợi ích
của nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới
phải vì lợi ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất
bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn

là một nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm
nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải dựa vào nhân dân. Vì thế, đổi mới
phải luôn luôn quán triệt quan điểm”dân là gốc”, phải vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thế
tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn,
phức tạp cần phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân
dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi,
chống suy thoái, biến chất.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng
quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề
do thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ
thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và
cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình
thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp
sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá
công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo,
khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
7


Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu

và cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi
đường lối, chủ trưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất
phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra;
kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn
phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi đôi với làm.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia – dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước
nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh dân tộc kà cơ sở để kết hợp sức mạnh thời
đại, làm cho sức mạnh dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lậpm
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Tăng cường sự lãnh đạo và
năng lực cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vũng mạnh là nhiệm vụ
then chốt. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Xây dụng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết
định đến công tác xây dựng Đảng trong sạch, vũng mạnh, lãnh đạo thành công sự
nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc
tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
8


Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt
nguồn và nhân lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật
thiết giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với
cách mạng Việt Nam.

PHẦN LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
Câu 1: Ý nghĩa của học thuyết Mác Lê Nin về ĐCS đối với ĐCSVN?
Trả lời:
* Học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận cho sự ra đời,
phát triển của các Đảng Cộng sản trên thế giới.
Học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận cho sự ra đời, phát
triển của Đảng Cộng sản trên thế giưới trong gần 170 năm qua. Được học thuyết
này sơi sang, các Đảng cộng sản đã xây dựng ngày càng lớn manh đưa cách mạng
vô sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa dành thắng lợi to lớn, đưa CNXH từ lý
thuyết trở thành hiện thực và đã từng trở thành một hệ thống hùng mạnh, đối lập
và song song tồn tại với hệ thống tư bản chủ nghĩa (TBCN), đạt thành tựu to lớn về

phát triển toàn diện, nhiều mặt đứng đầu thế giới.
Mặc dù gần đây, một số Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN Liên
Xô và Đông Âu tan rã, mất chính quyền, chế độ XHCN theo mô hình hành chính,
tập trung, bao cấp sụp đổ, song không vì thế mà học thuyết Mác- Lênin về Đảng
Cộng sản giảm vai trò và ý nghĩa. Học thuyết ấy, đòi hỏi nghiêm ngặt ở sự vận
dụng và vận dụng sang tạo. Các Đảng Cộng sản không tuân thủ điều này sẽ khó
tránh khỏi tan rã. Sự tan rã của Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN Liên
Xô và Đông Âu trong thế kỷ trước là sự minh chứng điển hình cho điều này. Học
thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa lớn, tiếp
tục là cơ sở lý luận cho sự phát triển của Đảng Cộng sản trên thế giới trong thời đại
ngày nay. Các Đảng Cộng sản sẽ vượt qua khủng hoảng tạm thời, ngày càng vững
mạnh, CNXH hiện thực sẽ tiếp tục phát triển.
* Hồ Chí Minh vận đụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản,
xây dựng thành công một đảng kiểu mới ở Việt Nam.
Vận dụng sang tạo học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản phù hợp với
nước ta, HCM đã xây dựng thành một đảng kiểu mới ở Việt Nam đưa cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự sáng tạo độc đáo của HCM về
vận dụng học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác- Lênin về
Đảng Cộng sản đã chỉ ra quy luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng là CNXH khoa
học kết hợp với phong trào công nhân. Đối với nước ta một nước thuộc địa nửa
9


phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào
công nhân đã phát triển phong trào yêu nước rất mạnh mẽ, Đ/c Nguyễn Ái Quốc
(Hồ Chí Minh) thấy rất rõ: Để thành lập Đảng phải làm cho phong trào công nhân
và phong trào yêu nước chuyển biến về chất và phải được chủ nghĩa Mác-Lênin soi
sang, các yếu tố đó phải kết hợp với nhau. Trong suốt quá trình chuẩn bị thành lập
Đảng, Người đã tích cực thực hiện và thực hiện thành công điều đó, dẫn tới sự ra

đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/2/1930.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sang tạo học thuyết đó vào xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, thể hiện ở việc xác định cương lĩnh chính trị, đường lối cách
mạng đúng đắn của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, luôn trung
thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác- Lênin; về giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng.
Học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với
xây dựng Đảng ta vững mạnh về tổ chức trong các thời kỳ cách mạng.
* Ý nghĩa của học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng HCM về Đảng cộng sản đối
với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay
Trong cuộc đổi mới hiện nay Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa nền
tảng tinh thần của xã hội, song suy đến cùng xây dựng Đảng có vai trò quyết định
nhất. Học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản vẫn là cẩm nang có giá trị nhất, là
ngọn đuốc soi đường để Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành công tác xây dựng
Đảng để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước
Việt Nam đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây
dựng thành công CNXH.
Nghị quyết TW 4 khoá XI về những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng
hiện nay trong đó khẳng định vấn đề quan trọng nhất là ngăn chặn đẩy lùi sự suy
thoái về tt, ct, đ, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thực chất là
củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng – chủ nghĩa MLN, TTHCM…
Câu 2: Nội dung của tư tưởng HCM về Đảng cộng sản?
Trả lời:
HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển CN Mác – lê nin về ĐCS vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, xây dựng thành công một đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân và của dân tộc Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Tư tưởng của người về ĐCS gồm:
1. ĐCS là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của CM:
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, HCM đặt câu hỏi Cách mệnh trước

hết phải có cái gì? Và người khảng định: “trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì tổ chức, vận động dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi.Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Người còn khẳng định, Đảng muốn vững thì
phải lấy CN Mác- Lê nin làm cốt, đó là bàn chỉ nam cho hành động của Đảng,
10


Đảng là người đề ra đườn lối, chủ trương cách mạng, là người tập hợp, tuyên
truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng, đưa đường lối, chủ trương vào quần chúng,
tổ chức quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã họi mới. Nếu
không có đảng lãnh đạo thì cách mạng Việt Nam không thể giành thắng lợi. Điều
đó đã được lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định.
2. ĐCS VN là kết quả của sự kết hợp giữa CN Mác- Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước
CN Mác- Lênin về ĐCS đã chỉ ra quy luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng
là CNXH khoa học kết hợp với phong trào công nhân. Đối với Việt Nam, một nước
thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ
bé, phong trào công nhân đã phát triển, phong trào yêu nước rất mạnh mẽ, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thấy rất rõ: để thành lập Đảng phải làm cho phong trào công nhân
và phong trào yêu nước chuyển biến về chất và phải được CN Mác- lênin soi sáng,
các yếu tố đó phải được kết hợp với nhau. Trong suốt quá trình chuẩn bị thành lập
đảng, Người đã tích cực thực hiện và thực hiện thành công điều đó, dẫn tới sự ra
đời của ĐCS Việt nam vào ngày 3-2-1930. Sau đó, chủ tịch HCM khái quát “Chủ
nghĩa Mác lê nin kết hợp voqứi phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thàn lập ĐCS Đông dương vào đầu năm 1930”.
3. ĐCS Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân đồng thời là đảng của
dân tộc Việt Nam
CN Mác lê nin về ĐCS đã chỉ rõ, ĐCS là đảng của giai cấp công nhân , đây
là vấn đề thuộc bản chất của đảng. Điều đó có nghĩa là , về lập trường, quan điểm,

hệ tư tưởng của Đảng là của giai cấp công nhân; về lợi ích thì đảng đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nahn, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Luận điểm của HCM: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là đảng của
dân tộc, không thiên tư, thiên vị”, cũng thể hiện những nội dung đó. Nó hoàn toàn
khác với quan điểm “đảng toàn dân” của những người xét lại, muốn hòa tan đảng
trong nhân dân là hòng làm giảm và đia tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.
4. ĐCS Việt Nam phải được xây dựng theo các nguyên lý đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân.
Vận dụng các nguyên lý đảng kiểu mới của CN Mác Lênin về ĐCS vào xây
dựng đảng cộng sản VN, HCM đã khái quát thành những nguyên lý chủ yếu như:
rập trung, dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, kỷ
luật nghiêm túc và tự giác, đoàn kết, thống nhất trong đảng; đức và tài, quan hệ của
đức và tài của cán bộ, liên hệ mật thiết với nhân dân; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ
sở và đội nũ đảng viên; lề lối, phong cách làm việc… đồng thời, người cũng chỉ ra
việc thực hiện các nguyên lý đó đối với ĐCS Việt nam.
5. Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân.
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, đảng
phải thường xuyên chăm lo và chỉnh đốn đảng.
11


Để lật đổ chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng thành công CNXH đảng phải lãnh
đạo nhân dân tiến hành cách mạng, đưa nhân dân thoát khỏi kiếp nô lệ, trở thành
người tự do, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân và độc lập.
Theo ý nghĩa đó, đảng vừa là người nhân văn sâu sắc nhất, là người phục vụ đắc
lực cho nhân dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Muốn thực hiện điều đó, phải tôn trọng nhân dân, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân và liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là sự sống còn, sự phát
triển của đảng.

6. ĐCSVN phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn đảng
Trong quá trình vận động, phát triển và lãnh đao cách mạng bên cạnh những
ưu điểm, tiến bộ, tong đảng thường xuyên xuất hiện những hạn chế, một số cán bộ,
đảng viêncó biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất, một số tổ chức đảng mắc sai
lầm, khuyết điểm. Vì vậy, để đảng ngày càng lớn mạnh lãnh đạo cách mạng giành
thắng lợi, đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn đảng. công việc
này được HCM nhắc đi, nhắc lại nhiều lần. Theo HCM “xây dựng” và “chỉnh đốn”
đảng là hai vấn đề quan hệ biện chứng với nhau. Phải trên cơ sở xây dựng đảng mà
chỉnh đốn đảng; đồng thời “chỉnh đốn” đảng đều nhằm làm cho đảng ngày càng
vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành mục tiêu, nhiệm
vụ của từng giai đoạn cách mạng, đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi.
HCM cũng nhấn mạnh, khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới và khi
đảng thực hiện nhiệm vụ nặng nề, trong những điều kiện phức tạp phải chỉnh đốn
lại đảng. Trong di chúc, người đã căn dặn: “việc cần làm trước tiên là phải chỉnh
đốn lại đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn
nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ýphục vụ nhân dân”.
Câu 3: Nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ của ĐCS ?
Trả lời:
Theo điều Điều 9 điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1.Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại
hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban
chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê

bình.
12


4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ
chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi
có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,
mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến
trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó;
không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Câu 4: Từ thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay ,
anh chị hãy đề xuất giải pháp ?
Trả lời:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là hai tính chất, hai nội dung của một vấn đề,
tồn tại biện chứng trong một chỉnh thể. Dân chủ chỉ có thể thực hiện được trên
nguyên tắc tập trung. Bởi không có tập trung thì dân chủ sẽ trở thành tuỳ tiện. Vì
vậy, dân chủ hướng tới tập trung và tập trung trên cơ sở dân chủ. Để đoàn kết, sức
chiến đấu cao, Đảng phải thống nhất ý chí và hành động. Điều đó chỉ có được khi
tổ chức và hoạt động của Đảng phát huy tối đa trí tuệ, tài năng của mỗi đảng viên
trên cơ sở phát huy dân chủ trong toàn Đảng. Để đi đến thống nhất tư tưởng và ý
chí thì mọi quyết định phải được bàn bạc dân chủ, toàn bộ quá trình đi tới sự tập

trung phải là một quá trình dân chủ.
Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng có những chuyển
biến tích cực, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với những biến đổi, yêu
cầu đổi mới trong cơ chế nhà nước pháp quyền, dân chủ hoá đời sống xã hội.
Các cấp uỷ đảng đã xây dựng quy chế làm việc, trong đó cụ thể hoá nguyên
tắc tập trung dân chủ vào từng công việc. Sinh hoạt của các cấp uỷ dân chủ, cởi mở
hơn. các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở chú trọng thu thập ý kiến của cán
bộ, đảng viên, các tổ chức đảng cấp dưới. Các cấp uỷ viên mạnh dạn trình bày
thẳng thắn ý kiến riêng, chất vấn tại cấp uỷ. Người chủ trì hội nghị tiếp thu ý kiến
khác với dự thảo nghị quyết một cách trân trọng.
Các hình thức giao ban, hội nghị chuyên đề, hội thảo, tiếp xúc trực tiếp giữa
cán bộ chủ chốt với đảng viên và nhân dân... được các cấp uỷ đảng sử dụng rộng
rãi để qua đó nắm bắt thông tin, dân chủ bàn bạc các chủ trương, biện pháp thực
hiện nghị quyết có hiệu quả. Tinh thần đó thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong công tác
13


tổ chức - cán bộ, đặc biệt từ khi Đảng tái lập đảng đoàn và ban cán sự đảng ở các
đoàn thể và các cơ quan nhà nước. Những biểu hiện không nghiêm trong chấp hành
chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình trạng
tuỳ tiện, cục bộ địa phương, mất đoàn kết nội bộ được chấn chỉnh, tổ chức và cá
nhân vi phạm đã bị xử lý kỷ luật.
Bên cạnh những tiến bộ rõ rệt, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ địa
phương khá phổ biến, thái độ kèn cựa, tính cá nhân chủ nghĩa còn rất nặng. Không
ít nơi, nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng.
Hạn chế yếu kém
Trong công tác tư tưởng và hoạt động lý luận của Đảng, có lúc, có nơi chưa
tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong sinh hoạt đảng, một mặt tình trạng

dân chủ hình thức còn nặng nề, chưa phát huy tốt tự do tư tưởng; mặt khác, kỷ
cương, kỷ luật còn lỏng lẻo, bề ngoài thì nhất trí với nghị quyết nhưng bên trong cố
ý làm trái với nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều nơi,
người đứng đầu cấp uỷ, cán bộ chủ chốt không dám chịu trách nhiệm, thậm chí còn
dựa dẫm tập thể. Điều nguy hiểm hơn là, một số cấp uỷ địa phương, cơ sở đã nhân
danh tập thể để đưa ra những quyết nghị, quyết định trái với nghị quyết của cấp
trên, vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc vượt quá thẩm quyền.
Không ít nơi có tình trạng bí thư vượt quyền ban thường vụ, ban thường vụ vượt
quyền ban chấp hành, ban chấp hành tự ý làm trái nghị quyết đại hội. Trong sinh
hoạt của cấp uỷ, những vấn đề tranh luận phức tạp hoặc những ý kiến khác nhau
trong hội nghị thường bị né tránh hoặc là “gác lại”. Trong đánh giá, phê bình
thường chỉ nêu ưu điểm, thành tích, lướt qua hoặc biện hộ cho những yếu kém,
khuyết điểm.
Nguyên nhân những hạn chế trên do:
Trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu chưa cao. Tiếp đến là việc phân
công, phân nhiệm thiếu rõ ràng, thậm chí chồng chéo. Cán bộ chính quyền các cấp
tham gia cấp uỷ chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm và sự lãnh đạo của cấp uỷ.
Cán bộ, đảng viên còn bị đè nặng bởi tư duy, tác phong, lối sống sản xuất nhỏ, tâm
lý cục bộ, địa phương, bản vị... Vẫn còn thói quen thời tập trung quan liêu bao cấp,
tổ chức đảng bao biện làm thay chính quyền, cấp trên “lo” hết cho cấp dưới, người
lãnh đạo “nghĩ” hết cho người thừa hành v.v...
Một nguyên nhân quan trọng khác là việc hướng dẫn, xây dựng quy chế, chế
độ cụ thể để các cấp thực hiện tiến hành chậm và chủ yếu mới dừng ở các quy định
chung chung. Tinh thần, ý chí đảng viên tự phê bình và phê bình, bảo vệ chân lý
không cao. Tình trạng né tránh, không nói thẳng, nói thật, dĩ hoà vi quý, dễ người
dễ ta còn phổ biến. Để nắm giữ địa vị và quyền lợi của mình, có những người lãnh
đạo ngại mở rộng dân chủ, không tiếp thu ý kiến trái ý mình, nhấn mạnh tập trung
nhưng thực chất là quan liêu, tập trung bằng mệnh lệnh hành chính. Mặt khác, vì
muốn được yên vị, cấp dưới không đấu tranh với sai trái của cấp trên, chấp nhận
14



tình trạng thiếu dân chủ trong chừng mực nó chưa phương hại đến lợi ích của mình.
Vì lợi ích cá nhân, cục bộ, cấp dưới không thực hiện đúng quy định của cấp trên, cố
ý làm trái, lợi dụng sơ hở trong quản lý để trục lợi, khi bị phát giác thì đổ lỗi cho
khách quan, do năng lực hạn chế, quan liêu. Tình trạng trên kéo dài và diễn ra ở
nhiều cấp do trong Đảng chưa thực hiện thường xuyên, nghiêm ngặt chế độ kiểm
tra, chưa kiên quyết xử lý kịp thời những tập thể và cá nhân vi phạm nghiêm trọng
các nguyên tắc của Đảng.
Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ
Trước hết, cần nhận thức đúng đắn đầy đủ nội dung nguyên tắc tập trung dân
chủ. Hiểu sâu sắc nguyên tắc tập trung dân chủ là quy định của Đảng, đồng thời là
quy luật vận động và phát triển. Cùng với việc nghiên cứu, quán triệt bản chất, nội
dung, vai trò quyết định của nguyên tắc tập trung dân chủ, phải đánh giá, kiểm
điểm nghiêm túc việc thực hiện nguyên tắc đó một cách toàn diện ở tất cả các cấp,
các ngành. Xác định rõ những gì đã làm đúng, chỉ ra những gì làm chưa đúng,
những nguyên nhân chủ quan, khách quan. Đối với những tổ chức, cán bộ, đảng
viên sai phạm nghiêm trọng phải xử lý kỷ luật và có biện pháp chấn chỉnh ngay về
tổ chức.
Cần cụ thể hoá các nguyên tắc nêu trong Điều lệ Đảng bằmg những văn bản
hướng dẫn cụ thể để các cá nhân và tổ chức thực hiện. Trước mắt, cần xây dựng
quy chế tổ chức và quản lý sinh hoạt tư tưởng, quy trình chuẩn bị, thảo luận, thông
qua nghị quyết của các cấp uỷ đảng; cụ thể hoá thêm các quy định về công tác cán
bộ; quy định cụ thể về trách nhiệm cá nhân người đứng đầu tổ chức đảng; quy định
về việc xem xét kết luận lại các ý kiến khiếu tố, khiếu nại, các ý kiến bảo lưu, v.v...
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ đạt kết quả cao khi nó gắn với
nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Hai nguyên tắc này phải cùng được tiến hành
mọi nơi, mọi lúc trong Đảng. Trong sinh hoạt đảng, nếu người chủ trì thiếu dân
chủ, độc đoán hoặc thiếu quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm thì cả cấp uỷ
khó mà thực hiện được tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình sẽ trở nên hình

thức. Do vậy, việc kiểm điểm cán bộ chủ chốt và tổ chức đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 (khoá XI) phải căn cứ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình. Những sai phạm phải được phê phán xử lý đúng mức.
Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình. Đây là công việc rất khó khăn. Việc chống lại nguyên
tắc này thường được nguỵ biện dưới nhiều hình thức, lý lẽ tinh vi. Kiểm tra, giám
sát phải được định danh, định tính, định lượng cụ thể. Người kiểm tra, giám sát
phải mẫu mực về phẩm chất, trình độ chuyên môn, trong sáng, chí công vô tư và
bản lĩnh. Mục đích kiểm tra không chỉ để phát hiện những vi phạm và sai lầm, mà
quan trọng hơn là phòng ngừa, uốn nắn những lệch lạc, chấn chỉnh những biểu hiện
sai trái, giúp cấp dưới phát huy tốt hơn tác dụng của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Câu 5: Vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng?
Trả lời:
15


Ba vấn đề cấp bách trong xây dựng đảng hiện nay:
Một là, kiến quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của Đảng viên và của nhân dân đối với
Đảng.
Hai là, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp nhất là cấp trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của đảng.
Trong 3 vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm xuyên suốt và cấp bách
nhất.

(Trang: 41,42,43,44 Văn kiện ĐH 12)

16



×